Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch Truyện Ma Ngạ Quỷ

Dịch Truyện Ma Ngạ Quỷ

admin

Độc Tôn Tam Giới
Đại Thần
Tham gia
11/6/23
Bài viết
1,010,097
VNĐ
900,499
[Diendantruyen.Com] Truyện Ma Ngạ Quỷ

Truyện Ma Ngạ Quỷ
Tác giả: Ngạ Quỷ
Tình trạng: Đang cập nhật

--- oOo ---


Một câu chuyện tổng hợp những tác phẩm kinh dị nổi tiếng của tác giả Ngạ Qủy.

Truyện mang theo âm hưởng gay cấn, hấp dẫn, một thế giới đầy ma mị, Chuyện đời, chuyện người, ý cảnh của mỗi câu chuyện đều và cả những ý nghĩa sâu xa khiến người đọc suy ngẫm.
 
Sửa lần cuối:
Chương 1: Vòng tay của quỷ


(Truyện ngắn nằm trong series truyện ngắn kinh dị Lãnh Đạm Và Chết Chóc của tác giả Ngạ Quỷ)

Ông Bình chăm chú theo dõi vào màn hình ti vi và thi thoảng lại quay xuống nhìn chiếc đồng hồ đeo tay.

Mười một giờ đêm mà Trọng vẫn chưa về, thông thường ông chưa từng thấy Trọng đi đêm về muộn như vậy.

***

Kể đến Trọng thì phải nói, hắn là một người thành đạt giỏi giang, với công việc văn phòng trong một tập đoàn lớn. Hắn ta chưa lấy vợ, cũng như chưa có ý định lấy vợ vì lý do quá trẻ. Kể từ khi đi làm cho đến nay đã là năm năm. Nhưng Trọng lúc nào cũng không thích tách biệt ra ngoài sống vì vẫn còn không muốn xa bố mẹ.

Theo thói quen, Trọng thường ra ngoài tản bộ vào lúc bảy giờ tối, và thông thường thì sẽ trở về nhà vào lúc chín giờ. Đây là lần đầu tiên ông Bình thấy Trọng đã muộn như vậy mà vẫn chưa về.

Đêm nay, đã hai lần ông gọi điện thoại cho Trọng, mà hồi chuông điện thoại vang lên chỉ được một lúc rồi lại tắt ngấm.

Một lúc sau, khi ông Bình toan đứng lên đi ra ngoài tìm con. Thì đột nhiên tiếng chốt cửa từ bên ngoài lại bắt đầu vang lên cành cạch. Ông Bình hơi khẩn trương, cũng có cảm giác nhẹ nhõm ngồi xuống ghế vì biết là Trọng đã về.

Trọng từ bên ngoài bước vào trong nhà, toàn thân ướt sũng với đôi mắt hết sức kỳ lạ. Lạ ở chỗ là đôi mắt hôm nay của hắn đờ đẫn như không có hồn. Lạ ở chỗ nữa là hắn đi thẳng vào phòng mình mà không hề chào ông Bình một tiếng.

Mọi lần, Trọng từ bên ngoài tản bộ về nhà, đều sẽ đi qua trò chuyện với ông Bình một chút. Nhưng hôm nay hắn không làm như vậy, tại sao lại như vậy? Là bởi vì hắn nhất định đang có chuyện giấu giếm, có thể là một bí mật nào đó chăng?

Ông Bình suy nghĩ hồi lâu, lặng lẽ đi tới gần cửa để khép cánh cửa nhà lại, vì khi nãy khi Trọng bước vào, hắn đã vô tình quên không đóng cánh cửa ấy.

Khi chạm tay vào tay cầm của cánh cửa gỗ, ông Bình đột nhiên có một loại cảm giác, giống như mình đã vừa chạm phải một thứ gì đó nhớp nháp tanh tưởi. Một mùi tanh nồng bốc lên xộc vào mũi của ông. Ông Bình nhăn mặt, xòe bàn tay ngửa lên và xem xét. Ông phát hiện ra trong lòng bàn tay của ông đã bị dính phải những thứ chất nhầy đen kìn kịt, cũng không biết là chất nhầy từ thứ gì.

Ông Bình hơi bực tức, quát vọng về phía phòng của Trọng:

- Mày lại chui rúc vào đâu thế hả con? Từ dày về muộn là phải gọi điện báo cho bố biết một tiếng. Làm gì có cái kiểu con cái nào mà bố mẹ gọi cũng không nghe, hỏi cũng không chịu trả lời như thế hả?

Vẫn không hề có âm thanh đáp lại từ phía Trọng. Ông Bình cau mày một chốc rồi cũng để đấy. Ông xoay mình bước vào căn phòng của mình và trải chăn nằm xuống giường.

Ông Bình nao nao nhớ lại cái thời mà bà Thơm còn sống, khi ấy Trọng quấn lấy mẹ lắm. Lúc nào cũng chỉ chăm chăm đi ra ngoài rồi về nhà với mẹ, đúng với cái câu nói con trai thì gần mẹ, con gái thì gần bố. Chắc có thể Trọng cũng là người như vậy. Khi ấy Trọng vui vẻ và nói chuyện nhiều hơn bây giờ.

Từ khi bà Thơm mất, Trọng đâm ra buồn rầu hẳn, cũng ít nói. Nhưng chưa lần nào như lần này, ngay cả miệng cũng không thèm hé ra dù chỉ một chút.

Bẵng đi một lát, ông Trọng thoát khỏi giây phút thất thần chỉ vì một tiếng động. Từ phòng bên, có tiếng âm thanh của người lầm rầm phát ra. Những tiếng thì thào một cách khó chịu, những tiếng cáu kỉnh của nhiều người chứ rõ ràng chẳng phải là một người. Sao thế? Tiếng động đó tại sao lại phát ra từ căn phòng của Trọng?

Ông Bình nhìn lại đồng hồ, thì đã thấy giờ điểm đúng lúc mười hai giờ. Cái tiếng động xì xào ở gian phòng bên cạnh vẫn không ngớt, thậm chí còn có khuynh hướng ngày càng dày đặc hơn. Ông Bình cố nhắm chặt mắt lại để ngủ, mà tiếng động ấy không sao thoát nổi tai một người mẫn cảm với âm thanh như ông. Càng về già thì ông lại càng bị những thứ âm thanh ảnh hưởng, cho dù có là nhỏ cỡ nào đi chăng nữa thì cũng khiến ông rất khó ngủ.

Quằn quại một lúc lâu mà không thấy tiếng âm thanh dừng lại, ông Bình phải quát lên:

- Trọng! Mười hai giờ đêm rồi mà mày còn thì thào cái gì thế? Còn bật đài hay gọi điện cho người yêu hả? Có định cho bố ngủ không đây?

Không có tiếng âm thanh đáp lại. Nhưng dẫu vậy, những tiếng động thì thào kia cũng đã biến mất, và đưa toàn bộ không gian trở về như ban đầu, im lìm đến mức cô quạnh. Chỉ còn có thể nghe thấy tiếng muỗi thi thoảng kêu vo ve ở bên tai.

Ông Bình lại nằm xuống nhắm mắt, và từ đó thì yên giấc ngủ ngon tới tận sáng mà không hề bị bất cứ âm thanh nào làm phiền.

...

Sớm hôm sau, ông Bình thức dậy thật sớm. Ông toan đi chuẩn bị bữa sáng để cho Trọng và ông cùng ăn trước khi hắn đi làm. Trọng thường hay dậy rất muộn, nên bữa sáng một là hắn ăn ở nhà do bố nấu, hai là hắn sẽ ra ngoài ăn.

Đã là sáu giờ sáng, khi ông Bình rửa mặt mũi xong, bước ra sân tập vài đường Thái Cực Quyền cho thoải mái cơ thể. Thì thật kỳ lạ, ông đã thấy Trọng ngồi sẵn ở chiếc ghế ngoài sân, đôi mắt hắn mơ hồ, miệng vẫn cứ không ngừng mấp máy.

Dưới chân hắn, có một vệt nâu dài khô cứng. Đó là máu, phải, nó chính là máu của một ai đó hay một thứ sinh vật nào đó.

Trọng ngồi thẳng người, bàn tay giấu giếm một thứ gì đó. Ông Bình nheo mắt nhìn kĩ nhưng không thể phát hiện thêm ra được điều gì.

Ông lại thấy bộ quần áo mà tối qua Trọng mặc khi đi về vẫn còn nguyên sự bẩn thỉu, và nhơ nhớp dính những thứ màu đen. Ông Bình bước đến trước mặt Trọng và hối thúc:

- Tối qua mày chui rúc vào cái vũng nào mà bẩn hết cả người thế này hả con? Sao không đi thay quần áo tắm rửa rồi còn chuẩn bị đi làm?

Ông Bình nhìn chằm chằm vào mặt của Trọng. Trọng thì dường như không nghe thấy lời ông nói, trong tay hắn đang bóp mạnh vào một thứ gì đó, hắn khom người không để cho ông Bình nhìn thấy thứ mà hắn đang giấu ở trong lòng.

Ông Bình chậm rãi cúi xuống, lại nhìn thấy từ dưới hạ bộ của hắn nhỏ máu thành tia thì liền kinh hãi kêu lên:

- Trời ơi Trọng, con làm sao thế?

Ông Bình mặt chuyển sang xám ngắt lo sợ, liệu có khi nào Trọng đã bị thương, hay bị ai đâm cho một nhát dao nên mới chảy nhiều máu như vậy?

Ông chạy tới, giằng lấy cánh tay của Trọng ra, để lộ ra thứ mà hắn đang giấu ở trong lòng. Nhưng thứ mà hắn giấu ở trong lòng, chẳng phải là thứ gì như ông nghĩ, mà chỉ là một con vật, một con vật hết sức đáng thương. Đó là một con mèo đen.

Con mèo đen nằm trong lòng của Trọng, đang bị vặn cổ ngược trở lại, hai mắt nó mở to như muốn lồi ra ngoài. Lại từ miệng không ngừng nhễu xuống máu đỏ tươi, chảy xuống đũng quần của Trọng.

Trọng đột nhiên cất giọng nói hối hả như thanh minh:

- Dạ con không sao. Sáng nay con đang ngủ mà con mèo đen này nó kêu to quá, con tức quá nên ra ngoài bắt nó rồi bẻ gãy cổ nó. Con mèo hoang này ngày nào cũng chạy rầm rầm ở trên đầu nhà mình, con không chịu nổi... nên con... con mới giết nó.

Ông Bình cau mày, cũng hơi sửng sốt vì biết tính tình của Trọng xưa nay rất yêu quý động vật. Vậy mà lần này hắn lại có thể nhẫn tâm bẻ gãy cổ con mèo đến chết như vậy thì quả thực là không hợp với tính cách của hắn. Ngẫm lại, ông Bình cảm thấy lời nói của Trọng cũng có lý. Bởi vì tiếng kêu của con mèo đen này lâu nay ông cũng đã biết rõ. Đã không ít lần ông cảm thấy phiền hà về con mèo đen này nên đã tính mua bả về để bỏ độc chết nó. Con mèo đen đêm nào cũng kêu lên những âm thanh như động đực, rồi cào xé kêu gào cái mái tôn ở tầng thượng ruỳnh ruỳnh khiến ông không sao ngủ nổi.

Nhưng con mèo đen này nói ra cũng thật thông minh. Nhiều lần ông dùng đủ mọi cách để bắt nó mà nó vẫn có thể khôn ngoan trốn thoát. Nó nhanh như gió, chỉ vèo một cái là không thấy tăm hơi đâu.

Cái giống mèo hoang vốn dữ dằn, lại khỏe mạnh. Cho dù chúng có thân thể còm cõi đến như thế nào thì cũng khỏe gấp mấy lần mèo nhà, lại còn rất hung ác. Bắt được chúng đi chăng nữa, thì cũng phải bị chúng cào cho rách da rách thịt, còn vùng vằng cắn xé. Chỉ hội đủ những lý do ấy thôi là đã thấy chuyện có thể bắt, và giết được con mèo đen này khó như thế nào rồi.

Vậy mà Trọng lại có thể tay không bắt lấy nó. Hơn nữa lại vặn gãy cổ nó ôm trong lòng mà chân tay da thịt không một chút xước sát gì thì cũng đúng thật là kỳ lạ.

Ông Bình cau mày nhớ lại, khi ông nằm trong nhà ngủ từ đêm qua đến sáng nay. Đâu có nghe thấy tiếng con mèo đen này kêu đâu. Con mèo đen này hay quấy quả những giấc ngủ của ông, nhưng cũng chỉ tùy từng hôm, không phải là hôm nào nó cũng xuất hiện. Ông Bình vốn là một người rất mẫn cảm với âm thanh, lại thêm việc tiếng mèo đen kêu gào nghe rất chói. Với những lý lẽ ấy thì tiếng kêu gào của con mèo đen này lại đủ sức đánh thức một người ăn ngủ khỏe như Trọng đang trong thời kỳ trai tráng. Mà lại chẳng đủ sức đánh thức một ông già thì đúng là một điều không hợp lý.

Tuy rất nhiều điểm khiến ông Bình nghi ngờ rằng Trọng đang có điều gì đó giấu giếm ông. Nhưng ông cũng không nghĩ đó là chuyện gì to tát, dù sao cũng chỉ là giết một con mèo mà thôi.

Ông Bình lại hỏi Trọng:

- Vậy chứ quần áo bẩn thế kia sao còn không đi thay đi, tắm rửa đi rồi mà còn đi làm?

Trọng cười, đáp lại:

- Đêm qua con đi tản bộ vô tình bị ngã xuống cái cống, người hôi quá mà lúc về nhà cũng tính định tắm. Nhưng mệt không thở nổi, lại không nói nổi câu nào nên đành lên giường đi ngủ luôn. Con nhắm mắt một cái là ngủ say như chết, ngủ đến khi bị con mèo này đánh thức...

Nghe Trọng đáp, ông Bình vừa lẩm nhẩm trong miệng:

- Ngủ say như chết?

Nhưng rõ ràng là tối đêm qua, ông có nghe thấy tiếng động lầm rầm thì thầm nói chuyện phát ra từ phòng của Trọng cơ mà? Nếu không phải những thứ âm thanh ấy do Trọng tạo ra, vậy thì là ai làm?

Có điều, ông cũng chỉ dám giữ mẩu suy luận này trong lòng, cũng không có đem ra hỏi Trọng để hắn giải thích thắc mắc cho ông. Giờ Trọng đã lớn, sẽ có nhiều chuyện hắn tự quyết định. Cũng không nhất thiết là chuyện gì cũng phải đem ra kể lại cho bố mẹ như hồi còn nhỏ.

Ông Bình nghĩ ngợi xong một lúc rồi liền xua tay nói:

- Thôi được rồi, con vào tắm rửa qua loa thay quần áo, rồi ra ăn sáng. Giờ bố đi chuẩn bị đồ ăn...

Trọng gật đầu, không nói gì thêm liền quay đầu đi vào nhà.

Cái xác con mèo đen rơi xuống đất, với cái cổ của nó quay ngược lại, đôi mắt trực lồi ra phù hợp lại quay về hướng căn nhà, hướng mà Trọng đang bước tới.

Con mèo đen tuy đã chết, nhưng nom sao trong đôi mắt của nó vẫn như đang chất chứa một điều gì đó cực kỳ thù hằn.

Ông Bình chờ cho Trọng đi khuất, thì liền đem cái xác con mèo đen cầm lên tay xem xét một lúc rồi nheo mày, chỉ tự nói ra hai tiếng kỳ lạ. Sau đó ông lựa chọn một ụ đất mềm, đào lên một cái hố rồi chôn xác con mèo đen vào đó.

...

Trọng tắm rửa xong bước xuống nhà, ngồi vào bàn ăn sáng thì đã có ngay tô bún ông Bình chuẩn bị sẵn. Hắn ăn ngấu nghiến một hồi rồi đứng lên. Hôm nay Trọng mặc một bộ đồ màu đen từ đầu tới chân. Áo khoác đen, áo sơ mi cũng đen, quần đen và giày đen. Ngay cả đôi tất mà hắn đang đi cũng màu đen. Chỉ duy nhất cái ca ra vát mà hắn đang đeo lại là một màu trắng. Hắn ăn mặc như thể hắn sắp sửa đi dự một đám tang nào đó vậy.

Ông Bình hơi cảm thấy ngạc nhiên vì phong cách của hắn hôm nay. Bình thường Trọng rất ưa gu thời trang sáng và nổi màu. Phong cách một bộ đồ màu tối chắc chắn không phải là sở thích của hắn.

Nét mặt của Trọng hôm nay thì dường như rất thích thú với cách ăn mặc này thì phải. Thậm chí ông Bình còn có thể có cảm giác được rằng Trọng đang hết sức thỏa mãn, tinh thần hắn vui vẻ như mới gặt hái được điều gì, và cũng giống như hắn chuẩn bị làm một điều gì đó khiến hắn rất sung sướng.

Những điều kỳ lạ cứ luôn xuất hiện dồn dập từ trên người của Trọng từ tối qua đến hôm nay. Thôi thúc rất nhiều khiến cho ông Bình phải suy xét.

Tuy vậy, ông vẫn chỉ lặng thinh chờ hắn ăn xong bữa sáng. Và mỉm cười khi hắn bước ra khỏi nhà đi làm, bước lên chiếc xe ô tô cũng màu đen xì nằm trong số cả bốn chiếc xe ô tô đủ màu của gia đình.

Thông thường, hắn sẽ chọn đi một chiếc ô tô màu trắng, hoặc là một chiếc màu bạc nhưng màu đen thì tuyệt đối không bao giờ. Chiếc ô tô màu đen đó chỉ có ông Bình thấy hắn không dùng nên hay đi. Mà không hiểu tại sao hôm nay hắn lại chọn chiếc ô tô đó. Có lẽ sở thích của hắn đã hoàn toàn thay đổi?

Tối đến, ông Bình lại làm cơm bữa tối chờ Trọng về. Cũng như mọi hôm, hôm nay ông bật sẵn bản tin thời sự để chờ đợi trong thời gian rảnh.

Đúng bảy rưỡi tối, tiếng động cơ ô tô vang ở bên ngoài. Có dáng Trọng loạng choạng bước từ ngoài của bước vào. Trên người hắn dính một vệt màu nâu kéo dài và xộc xệch, đó hẳn là vết máu. Ngoài ra quần áo trên người hắn còn xộc xệch, chiếc áo sơ mi rách bươm một miếng thật lớn.

Ông Bình thoáng nhìn qua tình cảnh ấy thì liền tự hỏi, liệu có khi nào Trọng lại vừa giết thêm một con vật nào nữa không chứ? Nhưng con vật nào mà lại có thể xé rách được quần áo của hắn?

Và hôm nay, giống như hôm qua. Trọng không hề nói gì, mà chỉ lầm lũi bước vào phòng. Cho dù ông Bình có gọi mấy lần để hắn ra ăn cơm, nhưng hắn cũng không đáp lại.

Ông Bình đành phải để dành một phần cơm trên bàn cho Trọng, rồi dùng nhanh bữa tối sau đó đóng cửa nhà lại ngồi một mình xem ti vi cho đến mười giờ.

Ông Bình có một thói quen khó bỏ, là thường bám sát tất cả các chương trình ti vi diễn ra từ khung giờ này. Cho dù hôm nào bận bịu, ông cũng luôn thu xếp để thỏa mãn cái sở thích cá nhân của mình.

Khi ngồi vắt chân lên ghế xem ti vi, ông Bình có thể nhận ra được rằng có một thứ tiếng động nào đó phát ra xen lẫn trong tiếng ti vi. Mà dĩ nhiên thứ tiếng động đó không thể nào phát ra từ chiếc ti vi kia được. Đó là một thứ tiếng lầm bầm giống hệt như tối hôm qua, nó phát ra từ căn phòng của Trọng. Vẫn là tiếng động của rất nhiều người nói chuyện, những tiếng thì thào như quát tháo hết sức khó chịu.

Ông Bình không thể nào nhẫn nại ngồi xem chương trình ti vi ưa thích, với những âm thanh ảnh hưởng một cách khó chịu như vậy.

Ông quát lên:

- Trọng, mày nói chuyện gì thì cứ nói to hẳn lên, cứ xì xào như thế suốt đêm định tra tấn bố hả?

Có đôi khi những tiếng động xì xào len lỏi vào trong tâm trí người ta, còn khó chịu hơn những tiếng động quát tháo to đến giật mình rất nhiều. Và trong trường hợp này cũng vậy, với một người rất mẫn cảm với âm thanh như ông Bình, đây quả thật là một sự tra tấn.

Tiếng âm thanh không ngắt lại, mà còn có xu hướng to dần đều lên. Dường như đang có rất nhiều người tranh cãi trong căn phòng đó. Ông Bình đứng phắt dậy, ném thẳng cái điều khiển ti vi xuống mặt ghế sô pha. Lại bước phăm phăm thẳng tới trước cửa phòng của Trọng định gõ cửa.

Ngay khi ông đang chuẩn bị làm chuyện ấy, thì đột nhiên từ trên lầu tầng thượng. Lại phát ra những tiếng âm thanh ầm ầm rất mạnh, là tiếng động phát ra từ mái tôn. Tiếng động to tới mức muốn xuyên thủng phá nát cả mái tôn ở trên đấy.

Ông Bình hoảng quá, vội vàng chạy phắt lên cầu thang, muốn cầm chổi chuẩn bị đập chết những con vật đang quấy quả ở trên ấy, mà quên đi những âm thanh kỳ lạ trong phòng của Trọng vừa rồi.

Tiếng va chạm vào mái tôn ngày càng dồn dập, âm thanh vang đều đặn không hề dừng lại.

Ngay sau đó, những tiếng mèo kêu chói tai vang lanh lảnh trong đêm hết sức đáng sợ. Khiến chân tay ông Bình đều chuyển sang run rẩy.

Một tiếng làu bàu chửi rủa phát ra từ miệng ông Bình, ông nhẫn nại cầm chắc cái cán chổi rồi xông thẳng lên đến lầu thượng.

Lên đến nơi, ông lập tức tri hô quát lớn:

- Cút ngay!

Rồi dùng cái cán chổi gõ mạnh vào mặt mái tôn, để xua đuổi thứ vật đang hoành hành trên đó.

Trong đầu ông tự nhiên vang lên một câu hỏi kỳ lạ: “Không phải là con mèo đen đó đã chết rồi hay sao? Tại sao vẫn còn có tiếng mèo kêu nữa? Hay là lại có một con mèo khác?”

Ông Bình vừa suy nghĩ như thế, vừa không dừng tay gõ rầm rầm vào mái tôn hết sức tức giận như muốn xua đuổi thứ ở trên đó đi.

Mãi một lúc sau, khi ông ngừng lại thì tiếng động ấy cũng đã bẵng đi không còn. Chỉ còn lại tiếng gió hiu hiu thổi nhẹ nhàng qua mái hiên tầng thượng.

Ông Bình thở phào một hơi, thu cái cán chổi lại rồi đóng cửa sân thượng đi xuống dưới nhà.

Ông bước đi thật chậm ở cầu thang, rồi dùng đôi mắt dò xét xung quanh xem liệu rằng có khi nào con mèo hoang kia đã chui vào trong nhà hay không? Kiểm tra một cách chắc chắn không còn vấn đề gì nữa.

Thì trong lòng ông lúc này lại bùng lên linh tính, một sự trực giác mách bảo ông nghĩ đến nơi chôn cất con mèo đen.

Nhanh như cắt, ông Bình loạng choạng chạy ra khỏi nhà, chạy đến cái ụ đất ở ngoài nhà, nơi mà lúc sáng ông vừa mới chôn cất con mèo đen ở đó.

Khi đến nơi, ông sững sờ thất thần, cả người quỳ mọp xuống hết sức kinh sợ.

Cái ụ đất ấy giờ đã lộ ra một cái lỗ đen ngòm, cái lỗ ấy phù hợp vừa với thân người của con mèo đen để nó chui ra. Quanh miệng cái lỗ còn có không ít vệt máu dài vương vãi. Theo vệt máu dài vương vãi đó, nó dường như kéo dài đến tận cái cây cổ thụ ngay cạnh căn nhà.

Con mèo đen ấy đã bị gãy gập cỏ, mắt lồi ra ngoài, chảy bao nhiêu máu như vậy mà không chết được thì đúng thật là kỳ tích. Nó lại còn đội mồ mà sống dậy. Nếu ông Bình không nhầm, thì hẳn là khi nãy, tiếng động trên mái tôn tầng thượng là do chính nó kêu lên chứ không phải bất cứ một con mèo nào khác.

Nó hành động điên cuồng và dữ dội như vậy, chỉ có thể là sự lý giải cho một thứ. Một thứ hành động theo cảm tính của loài người vẫn thường làm khi bị tổn thương, là sự trả thù.

Ông Bình thất thần hồi lâu, mồ hôi vã ra như tắm. Trong lòng ông có cảm giác hoảng sợ, ông không dám nán lại lâu trước mộ huyệt của con mèo đen này.

Ông chạy vào nhà, đóng mạnh cửa rồi nép sát thân người vào cửa, mắt mở to miệng thở dốc rất mạnh. Nhịp tim của ông cứ tăng lêm đều đặn từng phút mà không ngừng lại.

Trong phút thở dốc, đôi mắt ông Bình đang hòa hoãn trở lại thì liền chuyển sang mở to đều, trợn mặt như muốn rớt đôi con ngươi ra bên ngoài.

Bởi vì từ lúc nào, con mèo đen đã ngồi đó, ngồi ngay trên chiếc ghê sô pha. Cả thân người nó hướng về phía chiếc ti vi, nhưng cái đầu thì đang ngoẹo về phía sau nhìn chằm chằm vào ông Bình.

Ông Bình thảng thốt kêu lên:

- Ôi!

Rồi ngã gục xuống đất, con mèo đen kêu ré lên một tiếng rồi nhảy vụt ra ngoài cửa sổ.

Ông Bình chết ngất vì tiếng kêu của nó, đến khi ông tỉnh lại. Tiếng động ti vi vẫn mở vang đều, kèm theo thứ tiếng động lầm bầm vẫn đang phát ra từ căn phòng của Trọng.

Ông Bình run rẩy đứng dậy, ngồi xuống ghế sô pha định thần lại một lúc. Càng suy nghĩ ông càng không thể hiểu nổi vì sao con mèo kia lại có thể sống được, với cái cổ bị bẻ ngược một trăm tám mươi độ như thế. Đôi mắt nó sáng rỡ trong màn đêm, nhưng không phải là ánh sáng màu xanh như loài mèo thông thường, mà là một màu đỏ lửa hết sức ghê rợn.

Thêm một lúc nữa, thứ tiếng động lầm bầm phát ra từ căn phòng của Trọng vang lên đã ngày càng khó chịu.

Ông Bình đứng phắt dậy, quên đi cả sự tôn trọng lịch sự thường ngày mà ông vẫn dành cho hắn, là gõ cửa trước khi bước vào phòng hắn.

Ông khẽ hé mở cánh cửa phòng, rồi thò đôi mắt nhìn trộm qua khe cửa. Ông đang thấy Trọng ngồi đó, ngồi gặm một thứ gì đó lui cui ở góc giường. Lưng hắn quay về phía ông, căn phòng của hắn hôi hám lạ thường.

Và cái thứ tiếng động ấy vẫn cứ không ngừng phát ra, từ một thứ mà ông không sao đoán biết được đó là thứ gì. Nó trông giống như một tấm da, giống như một miếng da bò rất lớn. Lại có những hình thù chằng chịt hết sức kỳ lạ xăm lên tấm da đó.

Những tia máu cứ phun lên không ngừng từ phía Trọng đang ngồi. Tiếng hắn lầm bầm đáp lại tấm da, cũng như tiếng chít chít của loài chuột phát ra từ trong lòng hắn. Hắn chợt vung tay ném ra từ trong lòng hắn một con chuột. Một con chuột cống to cỡ con mèo đã bị moi sạch nội tạng, với máu bị rút hết sạch.

Ông Bình có thể nghe thấy tiếng động nhai tóp tép như thỏa mãn từ Trọng. Nhìn đến đây ông có thể nhận biết đoán được ngay, cái thứ mà Trọng lui cui gặm nhấm chính là con chuột đã bị moi hết nội tạng này.

Miệng ông Bình há hốc kinh sợ không nói nổi lời nào, ông có chút cảm giác buồn nôn nhưng cũng cố gắng nhịn lại.

Trọng lúc này vẫn đang xoay lưng về phía ông, hắn thích thú cười như điên dại. Rồi lại cúi xuống như cắn mạnh một thứ gì đó. Một tia máu dài lại phun lên bắn vào mặt tường. Tiếng kêu điên dại của con chuột cống khác, hẳn là như vậy.

Ông Bình lùi lại không dám tin vào mắt mình, rón rén đóng lại cánh cửa gỗ mà không để cho Trọng phát hiện, rồi ngồi thụp xuống ghế lau mồ hôi.

Ông Bình là người theo đạo thiên chúa, rất tin vào những điều kinh thánh đã nói. Sẽ có quỷ xuất hiện, một loài quỷ ám. Nhưng trước nay ông tin mà chưa từng gặp phải trường hợp như vậy. Mà nay gặp phải thì trường hợp đó lại ứng nghiệm lên chính con trai của mình.

Gượm lại một chút, ông Bình cố nén sợ hãi mà leo lên giường đi ngủ ngay. Ông đã có một quyết định vào sớm ngày mai. Ông cố gắng xua tan những tiếng động thì thầm cứ phát ra liên tục ở căn phòng kế bên. Trong tay ông cầm chặt cây thánh giá của chúa như chờ đợi sự cứu rỗi.

Sớm hôm sau, đúng sáu giờ sáng ông Bình lại dậy và chuẩn bị bữa sáng.

Ông vẫn tỏ vẻ bình tĩnh như mọi ngày và không hề để lộ ra sơ hở. Và có vẻ như Trọng cũng là một người như vậy, khác hẳn với hành động thú tính và quái vật đêm qua. Trọng lúc này ăn mặc hết sức lịch sự sang trọng, mùi thơm trên người còn liên tục tỏa ra ngào ngạt không dứt.

Hắn lại mặc một bộ đồ màu đen giống hệt hôm qua, với những phong cách đi lại nói chuyện điềm tĩnh hệt như ngày thường.

Những điều hắn đang làm, càng khiến cho ông Bình cảm thấy ghê sợ. Ông không còn nhận ra nổi cậu con trai ngây thơ ngày nào của mình nữa. Giờ hắn đã như một con quái vật ranh ma, và nguy hiểm khôn lường.

Trọng ăn xong bữa sáng, lại mỉm cười chào ông ta và đi làm.

Ông Bình đứng dậy thu dọn chén bát, tản bộ một chút ngoài vườn trước khi thực hiện kế hoạch của mình.

Đi dạo quanh vườn một lúc, ông Bình chợt phát hiện ra trong cái khu vực trồng hoa ngay cạnh căn nhà. Những cây hoa hồng đã cao thêm một chút, cao hơn hẳn hai mươi xăng ti mét. Dường như là nó đã phát triển rất nhanh với một sự không phù hợp.

Nhưng ông Bình không để tâm đến chuyện đó lâu, mà chỉ muốn dạo quanh vườn để nhìn lại cái ụ đất, nơi con mèo ông chôn sáng hôm qua, có còn nguyên cái lỗ đen giống tối hôm qua hay không?

Đến nơi, ông khẳng định là những điều mà tối qua ông gặp không phải là sự tưởng tượng. Bởi vì cái lỗ đen ấy vẫn còn đó.

Ông Bình không hoảng sợ như buổi đêm, mà chỉ bình tĩnh tiến lại gần cái hố. Lấp nó đi. Rồi vào trong gara ô tô lựa chọn một chiếc xe, lên xe và rời khỏi nhà, muốn đi đến một nơi.

Nơi mà ông muốn tới, chính là một nhà thờ nằm trong khu vực giáo xứ này. Một nhà thờ to lớn nhất vùng, cũng như là nơi có những vị cha xứ được nhiều người tin cẩn nhất.

Khi ông bước vào nhà thờ, một vị cha xứ thường xuyên gặp gỡ ông bước ra tiếp đón ông.

Đó là cha xứ Huy Lê, người thuyết giảng đạo của chúa hay nhất toàn giáo xứ.

Cha Huy Lê bước đến trước mặt ông, nhìn nét mặt ông âu sầu thì liền nói:

- Sắc mặt con làm sao thế? Dường như có chuyện gì đó không vui có đúng không?

Ông Bình ngồi xuống chiếc ghế gỗ trong giáo đường, khuôn mặt suy sụp nói:

- Lạy chúa, thưa cha, dường như con đã gặp phải quỷ rồi.

Cha Huy Lê sững sờ, nhưng cũng rất nhanh bình tĩnh lại và hỏi:

- Quỷ ư? Con gặp quỷ ở đâu?

Ông Bình cất giọng:

- Thưa cha, để cha hiểu rõ chuyện này, thì con xin phép được kể lại tường tận những sự việc mà con đã gặp...

Ông Bình nói xong thì liền đem hết những chuyện mà hai ngày này ông đã gặp phải, về con mèo, cũng như về tính cách của Trọng thay đổi thất thường. Kèm theo sự kinh khủng trong khi Trọng sát hại những con chuột cống và uống máu chúng.

Cha Huy Lê nghe xong, không nói thêm lời nào. Chỉ lặng thinh mà ngẫm nghĩ.

Thấy cha Huy Lê hồi lâu không trả lời. Ông Bình liền quỳ xuống chắp tay nói:

- Xin cha hãy cứu giúp chúng con, xin hãy lặng lẽ giải quyết con quỷ đó khỏi con trai của con. Nó đã bị quỷ nhập. Cha hãy giải quyết điều ấy và đừng nói cho nó biết là con đã đến gặp cha. Đây sẽ là một bí mật, thằng bé không hề có đức tin. Nó sẽ hủy hoại tất cả nơi này nếu như nó biết con đến gặp cha để thông báo chuyện này. Con sẽ gặp nguy hiểm, cũng như sự lanh ác trong con người nó khiến nó khó có thể thoát nổi gọng kìm của loài quỷ dữ.

Ông Bình nói xong liền làm ra dấu chữ thập ấn lên khuôn mặt rồi cúi gập người lạy tạ cha Huy Lê. Thêm nữa còn nói một câu “Amen” thật rõ ràng rồi mới rời khỏi nhà thờ.

Cha Huy Lê không nói gì, không có nghĩa là ông ta sẽ không hành động. Ngay buổi tối hôm đó, ông ta đã tập hợp những cha xứ của giáo đường, và hẹn gặp mặt những giáo đồ sùng đạo nhất để trợ giúp mình.

Bọn họ mang theo kinh thánh, nước thánh và thánh giá. Ẩn nấp gần khu vực nhà ông Bình, bọn họ sẽ xem xét xem lời ông Bình nói có phải là đúng. Có phải đã có quỷ xuất hiện, một con quỷ chính là một kẻ tội đồ, nó là bầy tôi của quỷ Satan phản lại chúa trời và phải bị trừng trị. Nó không nên xuất hiện trên nhân gian, cũng như làm ảnh hưởng đến cõi người.

Khi chuông đồng hồ điểm đúng mười hai giờ, thời điểm loài quỷ ngự trị. Một tiếng động khục khặc vang lên lanh lảnh trong màn đêm. Nó xuyên thấu từ tầng lầu căn nhà xuống đến mặt vườn. Một thứ ánh sáng nhá nhem phát ra từ một căn phòng, kèm theo những tiếng lầm bầm gào rú hết sức điên loạn.

Một vị cha xứ bước đến gần cha Huy Lê và cất giọng hỏi:

- Cha Huy Lê, đây liệu có phải là quỷ thật không? Theo tôi thấy thì tám chín phần mười là đúng rồi.

Cha Huy Lê gật đầu nói:

- Chính xác là quỷ rồi. Nhưng đừng đánh động nó. Vài người cầm theo dây thừng có tẩm nước thánh, mang nó trói lại rồi đem đến nhà thờ. Những chuyện này phải hết sức âm thầm. Ông Bình là người quan trọng luôn quyên góp cho giáo xứ ta, ông ấy muốn chuyện này phải được giải quyết một cách lặng lẽ, chúng ta cũng nên hết lực trợ giúp cho ông ấy.

Mọi người đều đồng ý gật đầu. Hai người thanh niên được lệnh cầm theo dây thừng lẻn vào trong căn nhà của ông Bình.

Khi họ lẻn vào tới nơi thì đã thấy mọi chốt cửa đều được mở sẵn. Dường như là ông Bình đã biết trước chuyện này và cố ý làm ra sự chuẩn bị thuận lợi dành cho bọn họ.

Bọn họ mở cửa căn phòng của Trọng, đang trong lúc hắn lui cui bất cẩn gặm nhấm mấy con chuột cống ghê tởm, thì cũng là lúc bọn họ choàng cái dây quấn quanh xiết chặt lấy người hắn. Hắn chuyển sang giãy giụa kêu gào điên loạn một cách ghê gớm. Tròng mắt hắn chuyển sang màu đen kịt và miệng phun ra những thứ ngôn ngữ ngoại quốc, có thể đó là tiếng Latinh.

Hắn nguyển rủa liên tục, quằn quại trong khi cả thân mình bị dính nước thánh. Mắt hắn bị hai người thanh niên nhanh chóng dùng một tấm vải trắng bịt lại. Rồi bọn họ lôi cả thân người hắn bắt đi. Sau đó lại đóng cửa lại như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Bọn họ đem Trọng ra bên ngoài, Trọng bị ép quỳ xuống trước mặt cha xứ Huy Lê. Cha xứ hắng giọng một hồi rồi giơ cây thánh giá chĩa thẳng đến trước mặt hắn và nói:

- Ta nhân danh thánh thần, nhân danh chúa trời muốn hỏi ngươi. Tên của ngươi là gì?

Trọng không hề trả lời, mà chỉ cười khục khặc liên tục.

Cha Huy Lê vẫn không hề bỏ cuộc, tiếp tục nhấn mạnh nói:

- Tên của ngươi là gì, hỡi bầy tôi của Satan?

Rồi nói xong lại vẩy một chút nước thánh vào mặt của Trọng. Trọng quằn quại giãy giụa rồi chửi rủa nói:

- Mày nghĩ tao là kẻ ngu ư? Mày muốn biết tên của tao để bắt ép tao rời khỏi thế giới này ư?

Nói xong Trọng lại khục khặc cười. Nói cho đúng hơn, thì cái thứ đang ngự trị bên trong Trọng lúc này không phải là bản thân hắn, mà chính là một con quỷ. Một con quỷ đã ám hắn khiến hắn bị nô dịch cả về thân xác lẫn lý tính.

Cha Huy Lê không tiếp tục bắt ép hắn nữa, mà chỉ khẽ khàng ra lệnh:

- Đem hắn về nhà thờ!

Rồi hai thanh niên kia nhất mực nghe theo. Bọn họ khiêng Trọng lên vai trong sự cuồng nộ kêu gào chửi rủa của hắn.

Trong góc nhà lúc này, có hình bóng một người đang dõi theo con trai của mình bị đem đi giống như kiểu bắt cóc. Nhưng ông ta không cảm thấy hoảng sợ, cũng không cảm thấy lo lắng cho con trai của mình, mà chỉ có cảm giác như mình vừa mới được giải thoát, một cảm giác nhẹ nhõm.

...

Tại nhà thờ của giáo xứ.

Cha xứ Huy Lê đặt Trọng ngồi ở một chiếc ghế gỗ, dưới chân hắn được vẽ bởi một hình thù kỳ quái vây quanh khiến cho mắt hắn long sòng sọc, miệng mở lời chửi rủa liên tục.

Cha xứ tiếp tục vẩy nước thánh vào mặt hắn, và liên tục đọc kinh thánh muốn trục xuất con quỷ. Những lời kinh thánh phát ra đều khiến cho Trọng quằn quại kêu gào. Chung quy cuối cùng cả cơ thể hắn cũng buông rũ xuống, hắn tỏ vẻ hoảng sợ nói:

- Đủ rồi, để ta nói, để ta nói.

Cha Huy Lê nhanh chóng chớp lấy cơ hội khi con quỷ đã cầu xin, ông ta hỏi ngay:

- Ngươi nói đi? Tên của người là gì?

Trọng gào lên và nói:

- Envy... ta là Envy...

Nói xong hắn lại cười khành khạch như điên loạn. Cha Huy Lê tỏ vẻ thỏa mãn và hài lòng, ông ta gật đầu nói:

- Được, vậy Envy. Ta nhân danh thánh thần và chúa trời, trục xuất người về cõi địa ngục!!!

Cha Huy Lê gào lên và đem cái tên Envy đọc ra. Trọng quằn quại hồi lâu và lăn ra bất tỉnh, dường như vừa có một thứ gì đó giải thoát khỏi con người của hắn, là một tội lỗi.

Cha Huy Lê đem chiếc khăn bịt mắt của Trọng tháo xuống, rồi vạch mí mắt hắn ra xem xét và nói:

- Mắt của hắn đã trở lại bình thường, con quỷ đã bị trục xuất và đi rồi. Vì hắn quá đố kỵ nên mới để cho Envy có cơ hội xâm nhập vào cơ thể của mình, con quỷ đó quả là một thứ đáng sợ. Trong cuộc đời ta thì đây đã là lần thứ hai mà ta gặp Envy, có vẻ như nó ngày càng ranh ma hơn thì phải.

Cha Huy Lê nói xong thở phào. Rồi ra lệnh cho người ta âm thầm đem Trọng trả về căn nhà cũ của hắn ta.

Sớm hôm sau, ông Bình nhìn thấy Trọng có vẻ bình thường trở lại, hắn rất vui vẻ và nói rất nhiều. Gu ăn mặc thời trang cũng bình thường như thế. Với những màu tươi sáng tràn đầy sức sống.

Trọng bước tới ngồi xuống ghế, và chia sẽ với ông Bình:

- Bố à, dường như con vừa phải trải qua những giấc mộng vậy. Con cảm thấy những ngày qua thật tồi tệ và bây giờ con đã được giải thoát.

Ông Bình gật đầu mỉm cười mà không nói gì. Nhưng kỳ thực trong lòng ông đang cực kỳ vui vẻ. Thật may mắn vì ông đã kịp lúc báo cho cha Huy Lê biết mọi chuyện, nếu không thì không biết Trọng sẽ gặp phải những chuyện gì.

Chờ cho Trọng đi làm khuất bóng, ông Bình lại chậm rãi xuống gara xe ô tô. Hôm nay Trọng lựa chọn chiếc xe màu bạc, và để lại chiếc xe màu đen mà hai ngày qua hắn ta vẫn đi ở nhà.

Chiếc xe màu đen này thường được ông Bình lựa chọn để đi, và hôm nay cũng vậy. Ông muốn tới nhà thờ để gửi một lời cảm ơn đến cha Huy Lê, đồng thời cũng vì cảm kích tấm lòng mà muốn quyên góp cho nhà thờ một số tiền.

Khi mở cánh cửa chiếc xe ô tô màu đen. Chợt ông Bình ngửi thấy một mùi tanh tưởi và hôi thối bốc lên từ phía trong xe. Quá khó chịu vì cái mùi đó, ông liền tìm hiểu xem thứ mùi đó phát ra từ đâu. Và khi ông mở cốp sau cả xe thì hỡi ôi, trong đó là một xác người con gái thâm tím, đã bắt đầu sự phân hủy và bốc mùi. Những con ruồi nhặng cứ thi nhau bay tới đậu vào cái xác khiến ông muốn nôn mửa.

Là Trọng đã ra tay sát hại người con gái này, vì vậy cho nên buổi sáng hôm trước trước khi hắn rời khỏi nhà, hắn ta mới có vẻ mặt thích thú đến như vậy. Một sự sung sướng như sắp làm được điều gì đó. Thì ra là vì hắn muốn giết cô gái này, nên mới sung sướng như vậy. Thật là một sở thích tàn nhẫn của con quỷ đã trú ngụ trong con người của Trọng.

Một mảnh giấy được ghi nguệch ngoạc ném trên thân xác của người con gái. Mảnh giấy đó có ghi: “Con ả đàn bà đàng điếm và sự bất công của cuộc sống, vì dựa hơi sắc đẹp làm trò bẩn thỉu sau lưng tôi, cô đáng phải chết!”

Đọc những dòng chữ trên mảnh giấy, ông Bình có thể nhìn thấy sự đố kị lên đến đỉnh điểm của Trọng. Rất có thể vì lý do đó mà Envy, con quỷ đố kị đã có thể len lỏi trụ ngụ trong thân xác của Trọng, cũng như việc làm ra tội ác và những hành động đáng ghê tởm trước đó.

Nhưng dù sao, sự giết người này cũng không phải là chủ tâm của Trọng muốn làm vậy, mà là do con quỷ trú ngụ trong người hắn sai khiến. Trọng không có tội, ông Bình nghĩ như vậy. Và ngay sau đó ông muốn giấu nhẹm cái xác đi.

Ông nghĩ ngay đến vườn hoa. Sẽ là một sự che lấp tuyệt đến mức tài tình mà không ai có thể phát hiện ra được. Ai lại có thể nghĩ dưới những ông hoa là một cái xác cơ chứ.

Và thế là ông nghĩ đến ngay việc đó và cách giúp Trọng phi tang cái xác.

Ông đem cái xem ra hì hục đào cẩn trọng đặt những khóm hoa qua một bên, rồi lại vần cái xác cô gái tới gần trước khi đào sâu thêm.

Xác cô gái được giấu trong một chiếc bao tải cỡ lớn, được sức tạm nước hoa để che bớt đi cái mùi xú uế, tránh cho lũ ruồi nhặng bay xung quanh để cho những người qua đường nào đó nhỡ may đi qua khu vực này không thể nghi ngờ.

Đặt cái xác ngay cạnh khóm hoa, ông Bình lại tiếp tục đào sâu xuống lòng đất. Ông lựa chọn chỗ đất mềm nhất để đào và là chỗ đất có cái ụ cao hơn hẳn các chỗ khác. Chính là cái chỗ mà ông cảm thấy kì lạ ở ngày hôm trước, nơi những khóm hoa cao hơn một chút.

Đang đào như vậy được một lúc thì chợt cánh tay của ông dừng lại. Chiếc xẻng hình như vừa mới va quệt phải thứ gì đó, một thứ vừa mềm vừa cứng như xương thịt.

Ông Bình cẩn trọng gạt từng lớp đất thêm nữa, và lần này ông ta lại tiếp tục ngã gục xuống đất hoảng sợ. Vì ở ngay cái ụ đất cao bất thường ấy, lại là một cái xác người. Cũng là một xác người phụ nữ rất trẻ trung, trên đó có rắt một mảnh giấy ở ngực. Ông Bình đem mảnh giấy ấy ra đọc thì cũng vẫn là những chữ tương tự như lúc trước: “Con ả đàn bà đàng điếm và sự bất công của cuộc sống, vì dựa hơi sắc đẹp làm trò bẩn thỉu sau lưng tôi, cô đáng phải chết!”

Ông Bình ném mảnh giấy xuống đất, liền nghĩ đến Trọng. Chính hắn đã giết một người nữa và chôn xác cô ta xuống đây. Vậy là mỗi một ngày hắn đều giết một người. Và cái điểm bất thường ở ụ hoa mà ông Bình nhận ra hôm rồi, chẳng phải là vì ụ hoa đó lớn lên nhanh chóng. Mà điều đó chỉ chứng tỏ rằng là đã có một cái xác được chôn cất vụng về tại đó.

Ông Bình nghĩ lại, thảo nào mà đất ở khu vực này lại mềm như vậy. Những khóm hoa cũng rất dễ di chuyển nữa.

Ông Bình không nghĩ ngợi lâu, lại đem đào một cái khóm hóa khác cách đấy một mét. Rồi chôn cái xác giấu xuống đó, lấp lại đất ở miệng huyệt cái xác thứ nhất. Rồi lại đặt những khóm hoa lên với vẻ hết sức tự nhiên.

Ông Bình cố gắng quên đi những chuyện này, vì dù sao đó cũng chỉ là những hành động của Trọng khi bị con quỷ xâm nhập mà thôi.

Ông lại quay trở về chỗ chiếc xe, lau máu và dấu vết hôi thối còn lưu lại của cái xác để phi tang. Rồi mới đến nhà thờ để gặp cha Huy Lê.

Khi đến nơi, cha Huy Lê rất niềm nở và cám ơn số tiền mà ông đã quyên góp dành cho nhà thờ. Đồng thời cha còn dặn ông:

- Ta vẫn có cảm giác con quỷ Envy dường như chưa chịu bỏ cuộc đâu. Con hãy cố gắng chú ý cậu ta một chút, nếu có giấu hiệu gì bất thường thì phải báo cho ta ngay.

Ông Bình cảm ơn cha một lượt, rồi cũng lên xe ra về. Nhưng vì trời vẫn còn sớm, nên ông quyết định tạt qua khu chợ trung tâm thành phố một chút để dạo chơi, đồng thời mua một chút thức ăn về nấu.

Nhưng ông Bình không biết rằng thực ra Trọng đã về nhà từ trước và chuẩn bị bữa cơm.

Tối hôm đó, Trọng về rất sớm và liên tục hát ngân nga hết sức vui tươi. Trên miệng hắn nở một nụ cười tươi rói, cũng như hôm nay là một dịp hiếm hoi mà hắn nấu một bữa cơm giúp ông Bình, đồng thời thực hiện hiếu phận của một người con.

Thông thường Trọng về rất muộn, chính vì thế những việc lặt vặt trong nhà không còn ai khác đều phải rơi vào tay ông Bình. Thế nên những dịp hắn có thể về sớm như thế này để nấu cho ông một bữa cơm quả thật là hết sức hiếm hoi.

Thấy ông Bình bước vào nhà, Trọng hân hoan cười nói:

- Bố đi đâu thế hả bố? Bố xem, con mới chuẩn bị xong món thịt bò bít tết đây này.

Ông Bình sững sờ, trên tay ông cầm toàn là thức ăn mua ngoài chợ về. Liền mỉm cười hỏi lại:

- Hôm nay con trai của bố có chuyện gì vui thế? Ở công ty lại thắng lớn hả?

Trọng không nói gì, chỉ mời ông Bình ngồi xuống và dùng bữa, ông Bình không từ chối. Mà chỉ đặt mớ thức ăn lên bàn bếp, rồi nhanh chóng quay ra ngồi xuống dùng bữa cùng hắn.

Khi này, Trọng mới từ tốn vừa bỏ miếng thịt bò bít tết vào trong miệng nhai đều, vừa nói:

- Con vui mừng lắm, vui mừng vì hôm nay đã làm được một việc. Giải quyết một kẻ tọc mạch và chuyên gây phá rối, hắn ta đã phải chịu hậu quả đấy, bố biết không?

Trọng vừa nói vừa cười, tuy hết sức thản nhiên, nhưng trong đó ẩn chứa bí mật gì thì chỉ có ông Bình mới biết. Ông cảm thấy lạnh sống lưng và miệng thịt bò bít tết chín tái vẫn còn đỏ máu trong miệng ông tan ra không giống như mọi khi, không phải là sự ngọt ngào của thịt bò tươi sống, mà là sự tanh tưởi của máu.

Ông Bình cố nuốt miếng thịt bò bít tết rồi uống nhanh một ngụm nước. Ông có cảm giác bồn chồn không yên, nhất định là đã có chuyện gì xảy ra.

Ông ăn tối xong thì Trọng cũng đem đồ đi rửa, gương mặt hắn hết sức thản nhiên và vui vẻ. Linh tính mách bảo cho ông Bình biết rằng, hắn rất có thể đã làm ra chuyện gì đó kinh khủng. Một chuyện tương tự như giết người chẳng hạn. Loại trực giác này mỗi lần xuất hiện, đều là những cảm giác đúng đắn vì những điều nguy hiểm mà ông Bình có thể cảm nhận được.

Ông Bình chui vào trong phòng, không ra ngoài xem phim như thường lệ. Ông cẩn trọng dò xét xem Trọng đã về phòng hay chưa, rồi mới lén lút mò xuống gara ô tô. Nơi chiếc xe hôm nay Trọng dùng để đi làm đã mang ra ngoài. Ông luôn suy nghĩ rằng, liệu có khi nào hôm nay Trọng lại giết người hay không? Và con quỷ Envy vẫn chưa buông tha cho Trọng.

Suy nghĩ ấy cứ vang lên trong đầu ông Bình, cho đến khi mọi sự mà ông chứng kiến đều chứng tỏ là ông đã đúng đắn.

Ông Bình mở cốp sau của chiếc xe xám bạc ra, liền giật lùi lại trợn mắt không tin. Lại càng lợm giọng thảng thốt ú ớ không nói được lời nào.

Trong cốp xe ấy, có một thân người hết sức quen thuộc, mặc đồ nhà thờ với bàn tay cầm cuốn kinh thánh.

Người đàn ông ấy chính là cha xứ. Cha xứ mắt mở to với đầy vẻ kinh hãi, cổ ông ta bị thít chặt bởi một sợi dây và môi ông ta tím ngắt. Trên ngực ông ta còn có một tờ giấy ghi những lời nguyển rủa: “Hậu quả dành cho những tọc mạch và chuyên gây phá rối. Ông đáng phải chết!”

Đọc xong mảnh giấy ấy mà cả thân người của ông Bình như muốn rũ xuống. Trọng ghi như vậy trong tờ giấy, liệu có khi nào là hắn đã phát hiện ra việc ông Bình đi báo tin cho cha xứ đến bắt gã. Vừa rồi khi dùng bữa tối, gã phong phanh nhắc đến chuyện ấy có khi nào là muốn thăm dò ông hay không?

Cảm giác lạnh lẽo ngày càng bủa vây trong tâm thảm của ông Bình. Ông bình đang đứng chôn chân nhìn vào cái xác của cha Huy Lê. Thì bỗng rất gần, chợt có tiếng Trọng vang lên hỏi:

- Bố à? Bố đang làm cái gì thế?

Ông Bình hoảng sợ tới mức bủn rủn chân tay, vội vàng đóng của cốp xe lại một cách kín đáo và nhẹ nhà. Rồi bước ra khỏi gara xe ô tô. Ra tới nơi ông nhìn thấy Trọng đang nhìn mình và mỉm cười. Ông cố gắng chống chế lấp liếm không muốn cho Trọng phát hiện nên nói:

- À không có gì, bố chỉ vào ga ra để xem xét mấy con chuột thôi mà, chúng kêu gào thật đáng ghét!

Trọng cũng mỉm cười gật đầu thản nhiên và nói:

- Phải rồi, những con chuột, đúng là những kẻ thích chốn tránh và khiến người ta phải khó chịu. Những con chuột đó đáng phải chết, nhưng đôi khi chúng ta chẳng thể bắt được chúng và xuống tay được. Hoặc là vì chúng còn có lợi ích, hoặc là vì chúng quá tinh ranh và rất nhanh...

Trọng nói xong lại nghênh ngang bước vào trong nhà. Những lời mà Trọng vừa nói, càng khiến cho ông Bình cảm thấy khiếp đảm đến ghê sợ, sống lưng ông cứ có cảm giác lạnh lẽo, và thân người ông cứ run lên bần bật.

Trọng bước đến thềm cửa, chợt từ từ quay đầu lại nhìn ông Bình. Ông Bình lấy hết sức cản đảm, cố gắng tỏ ra bình thường mỉm cười nhìn Trọng. Và Trọng thì cũng mỉm cười nhìn ông và nói:

- Trời khuya rồi, bên ngoài lạnh lắm. Bố nên đi ngủ sớm đi không kẻo lại ốm mất!

Ông Bình cố nhẫn nại và đáp:

- Ừ, con cũng đi ngủ sớm đi. Bố đóng cửa gara lại rồi cũng sẽ vào thôi...

Trọng gật đầu rồi lại tiếp tục bước vào trong nhà và biến mất sau cánh cửa. Ông Bình toát mồ hôi, lau những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán. Cố gắng trấn tĩnh và vạch ra kế hoạch tiếp theo.

...

Sớm hôm sau.

Ông Bình dậy từ rất sớm và chuẩn bị bữa sáng, kèm theo một mảnh giấy để lại cho Trọng nói:

- Bố có việc gấp phải ra khỏi nhà, con dùng bữa rồi đi làm sớm đi nhé!

Khi Trọng tỉnh dậy, hắn nhìn thấy mảnh giấy đó thì chỉ cười nhạt. Và lặng lẽ ngồi xuống ghế để thưởng thức bữa sáng mà ông Bình chuẩn bị cho mình.

Ông Bình lái xe ra khỏi Kim độ, đến một ngôi làng cách đó không xa. Tạt xe rẽ ngang vào một lối mòn nhỏ, dừng xe trước của một căn nhà bằng gỗ, bên cạnh có một cây chuối.

Trước cửa căn nhà, có một tấm gương bát quái được treo lên, và những hàng dài cành dâu với gỗ đào được xếp ngay ngắn ở ngay trước cửa như để trừ một thứ ma tà.

Khi ông Bình vừa bước xuống xe, lập tức đã có âm thanh từ bên trong nhà vọng ra hỏi:

- Ai đấy?

Ông Bình lập tức cười nói đáp lại:

- Thưa thầy, là con, Bình đây ạ.

Âm thanh trong nhà vội vã đáp ra, xen lẫn tiếng mừng rỡ nói:

- Bình hả, Bình nào?

Ông Bình hơi thẫn người buồn rầu, nhưng cũng phải, người này không nhận ra ông là cũng đúng. Bởi vì ông đã rời khỏi đây trên dưới hai mươi năm. Lúc đó ông chưa sùng đạo thiên chúa, và cũng rất kính cẩn người này. Nhưng càng về sau này lớn lên, quan điểm của hai người càng cách biệt nên ông đã lựa chọn rời bỏ nơi này, cũng như rời bỏ đạo gia và đến với đạo thiên chúa.

Trong khi cánh cửa của chúa sụp đổ vì con quỷ Envy ngự trị, thì một lối thoát còn lại chính là sự ruồng bỏ ngày xưa ông Bình dành cho đạo gia, nay lại trở thành một phương án cứu nguy.

Ông Bình thận bước vào bậc thềm, vào tới nơi, ông chỉ thấy một lão già râu tóc bạc phơ, tuy già nhưng vẫn có vẻ khỏe khoắn lạ thường. Đang mặc một chiếc áo ngủ bằng cotton, thoải mái nhâm nhi chén chè đặc.

Ông Bình tới trước mặt lão già kia chắp tay và nói:

- Thưa thầy... là con... là Bình... là Đoàn Văn Bình ngày xưa đây thầy!

Lão già tỏ vẻ ngơ ngác như không hiểu, lúc sau liền chợt làm bộ vỗ đầu như may mắn vừa nhớ ra một chuyện gì đó, lão ta nói:

- À, có phải là thằng trời đánh, thằng ôn vật... thằng Bình của làng Đông Nghị ngày ấy không? Trời ơi... thằng trời đánh ngày ấy vẫn chưa chết à?

Ông Bình tỏ vẻ xấu hổ, cúi gằm mặt. Nếu không phải vì Trọng con trai ông ta, thì ông cũng chắc chưa bao giờ nghĩ mình sẽ quay lại nơi này để nhận lấy sự xỉ vả của lão già đạo gia này.

Lão già này tên Hoàn, là người nổi danh trong vùng thời ấy về thuật đạo toán.

Ông Bình chắp tay và nói:

- Lạy thầy, tội lỗi ngày xưa của con. Ngàn vạn lần đều là do con ngu dại, ngày ấy con suy nghĩ ngu si nên mới không biết tâm ý của thầy. Xin thầy lượng thứ cho con...

Ông Bình nói xong lại lạy tạ đến mấy lần. Thầy Hoàn đôi mắt sáng quắc quát lên:

- Chẳng phải là vì anh hối hận cái gì đâu, mà là vì anh có việc muốn nhờ cậy tôi nên mới đến đây thôi có đúng không?

Ông Bình xoa tay nói:

- Dạ thưa, quả đúng là có việc như vậy. Nhưng nếu con không hối hận, thì sao lại nghĩ đến việc quay lại tìm thầy được thưa thầy? Xin thầy minh xét cho...

Thầy Hoàn nhếch mép cười nói:

- Chuyện ấy thì tôi chẳng muốn nhắc lại làm gì, chỉ có điều là tôi muốn nói. Nếu giờ anh muốn mời tôi đi làm việc, thì không phải là dựa vào tình nghĩa thầy trò khi xưa đâu. Tôi và anh sớm đã ân đoạn nghĩa tuyệt chỉ còn là người dưng. Anh cần phải có lòng thành...

Ông Bình mừng rỡ nói ngay:

- Dạ thưa thầy, thực ra con cũng đã chuẩn bị trước, nên nhân đây có chút lễ mọn thì xin gửi điện thầy!

Rồi ông Bình rút từ trong ví tiền ra một cái phong bao dày cộp, nhét vào cạnh điện thờ của thầy Hoàn.

Thầy Hoàn vân vê chòm râu bạc của mình và hỏi:

- Được rồi, vậy chứ anh muốn khi nào thì để tôi đi giải quyết việc ấy?

Ông Bình:

- Dạ thưa thầy, ngay đêm nay, càng sớm càng tốt ạ. Việc này cần kíp lắm rồi, thằng con trai con nó bị quỷ nhập. Mong thầy giúp đỡ, con không muốn lộ cho nó biết việc này vì sợ nguy hiểm. Nên xin thầy cứ lặng lẽ mà làm cho, cứ coi như là thầy tự ra tay trừ ma quỷ chứ không phải là con bảo. Đừng lộ cho nó biết việc ấy kẻo nó lại trách con.

Thầy Hoàn gật đầu nói ngay:

- Lễ thì tôi cũng đã nhận đủ, đêm nay tôi sẽ âm thầm đến nhà anh, anh cứ để lại cái địa chỉ với số nhà. Rồi mở cửa thoải mái dọn đường cho tôi. Tôi sẽ lặng lẽ làm việc nhanh thôi. Tiếng tôi xưa nay anh cũng đã biết, chắc không cần phải nhắc lại...

Ông Bình vâng lời làm theo, lạy tạ cám ơn đến mấy lượt, rồi mới ra về ngay.

Đêm ấy, đúng như những gì mà thầy Hoàn nói. Ông Bình đã dọn sẵn nhà cửa, để mở tất cả chốt cửa rồi lặng yên chờ đợi.

Đúng mười hai giờ đêm, một cái bóng người mặc đạo bào màu vàng, nhanh thoăn thoắt lẩn khuất trong đêm rồi chui vào trong căn nhà.

Ông Bình lặng lẽ quan sát hết mọi động tĩnh, chỉ thấy thầy Hoàn nghiêm chỉnh nhảy vọt vào trong căn phòng của Trọng. Thầy ta cố gắng bước đi thật nhẹ để không phát ra một tiếng động nào, cố gắng để không đánh động cho Trọng phát hiện ra là có người đang ẩn nấp ở sau lưng mình.

Vụt một cái, cả thân người thầy Hoàn nhanh như chim nhạn nhảy bổ đến đè nghiến lấy người của Trọng. Rồi dán lên mặt hắn ta một lá bùa, miệng rầm rầm đọc:

- Linh linh cấp cấp, khu trừ ma quỷ!

Rồi đem thắp một ngọn nến ở hướng chính Đông, liên tục quát nạt hô gọi quỷ thần.

Trọng giãy giụa kêu gào một lúc rồi ngừng bặt, dường như hắn đã chịu buông tha cho số phận. Thầy Hoàn thả lỏng toàn thân, thở dài một lúc, rồi đem lá bùa trên người hắn đốt cháy đi hòa với nước. Đổ vào miệng hắn, rồi lại đem gương bát quái ra dò xét. Một lúc sau thì tự nói:

- Ma quỷ đã đi rồi!

Rồi lại đeo một lá bùa lên người của Trọng. Ngay khi đó, khi lão vừa định quay đầu bước đi. Thì Trọng chợt bật dậy túm chặt lấy cánh tay của lão rồi gào lên:

- Chúa của ngươi không phải là chúa của ta!!!

Trong người Trọng như có một sức mạnh cực kỳ khỏe khoắn, mạnh đến kinh người đem toàn bộ cánh tay của thầy Hoàn dựt phăng ra cho nó đứt lìa.

Thầy Hoàn hoảng sợ kêu gào giãy giụa, đôi mắt dàn giụa nước, chảy đều khắp khuôn mặt vì đau đớn. Khuôn mặt Trọng chuyển sang vẻ đáng sợ, mắt gã đen láy, răng gã nhấp nhô lởn nhởn và nói:

- Chúa của ngươi không phải là chúa của ta! Ngươi làm sao cho ta về cõi địa ngục???

Hắn nói xong thì liền cười lục khục. Thầy Hoàn sợ đến xanh mặt cố cắn rằng quay đầu chạy trốn, bỏ lại toàn bộ cánh tay bị rơi ở trên nền đất. Thầy vừa chạy vừa gào lên:

- Không phải ma quỷ không thường, không phải ma quỷ thông thường. Ngươi là giống loài gì???

Thầy Hoàn nhanh thoăn thoắt chạy thoát thân. Bóng người của Trọng cũng dừng sững lại.

Qua khe cửa, ông Bình có thể nhìn thấy hết mọi chuyện, ông nuốt nước bọt dường như có cảm giác có chuyện chẳng lành sắp ập đến với mình.

Ông thấy Trọng lặng lẽ quay về phía này, về cánh cửa này và bước tới.

Ông Bình loạng choạng chạy khắp phòng như muốn tìm lối thoát, nhưng chẳng còn lối thoát nào ngoài cửa chính cả. Mà ngoài ấy, Trọng đang đứng chặn lối đi.

Ông bình suy sụp ngồi xuống, lẳng lặng chờ đợi. Bên ngoài tiếng bước chân cứ vang đi mỗi lúc một đều, dồn dập về phía cửa.

Có tiếng nói của Trọng khe khẽ phát ra hỏi:

- Bố à? Bố đã ngủ chưa?

Ông Bình không nói gì, lặng yên. Trọng lại hỏi:

- Bố ngủ rồi à?

Ông Bình cố sức nín thở cố gắng không phát ra tiếng động, mong sao Trọng cảm thấy rằng ông đã ngủ mà buông tha cho ông. Nhưng những lời sau đó của Trọng đã khiến tinh thần của ông sụp đổ hoàn toàn:

- À, con biết là bố chưa ngủ phải không. Đúng vậy, con còn biết là bố đã nhìn thấy hết mọi chuyện. Và con cũng biết những chuyện này là do bố vạch ra đúng không? Bố có biết tại sao con vẫn bỏ mặc cho bố muốn làm gì thì làm không? Là vì bố giúp con phi tang những cái xác, nhưng bố có vẻ như hơi quá quắt nhỉ?

Ông Bình càng nghe Trọng nói, tim càng đập nhanh hoảng sợ. Máu ông dồn lên não khiến ông không sao chịu nổi, và đến một lúc nào đó nỗi sợ hãi đến tận cùng sẽ khiến con người ta bàng hoàng đến chết.

Ông Bình mắt mở to và dần chuyển sang lựng đỏ, hốc mắt ông đỏ au chứng tỏ máu đã tàn phá toàn bộ bộ não của ông, tim ông đã làm việc quá nhanh khiến mạch máu quá tải chăng.

Đúng lúc này, Trọng mở cửa và bước vào, hắn tỏ ra hết sức lịch thiệp và không có dáng vẻ gì ghê rợn như vừa rồi. Hắn đến bên cạnh ông Bình và ngồi xuống bên cạnh ông, ngồi xuống bên cái xác rũ rượi đã không còn nhịp đập và mất dần đi hơi ấm của ông. Hắn nói:

- Ồ! Bố đã chết rồi sao? Con còn có rất nhiều chuyện muốn kể cho bố nghe, muốn giải thích cho bố, mà bố đã chết rồi sao? Con đâu có muốn bố chết?

Hắn gào lên và dựng xác ông Bình dậy, cười khành khạch như điên nói vậy.

Và sau tất cả mọi chuyện, loài quỷ vẫn dành chiến thắng.

...

Đêm đó, người ta có thể thấy căn nhà đã bốc cháy rực lửa. Một người đàn ông kín đáo lái chiếc xe ô tô màu đen rời khỏi đó. Hắn ta đội một chiếc mũ bành lớn với một đôi mắt đen láy.

Và thi thoảng ở đâu đó, người ta vẫn có thể nghe thấy một tin tức nào đó. Về một tên sát nhân luôn giết người kèm những mảnh giấy cáo chung cho tội danh của họ. Một con quỷ đã xuất hiện báo hiệu cho sự diệt thế, đó là Envy...

Liệu những kẻ đồng nghiệp quỷ với Envy có xuất hiện không? Người ta không thể biết được, nhưng chúa trời dường như đã lãng quên nhân loại.

Cũng như đạo gia chính thống của vùng đất này không thể nào lý giải và khu trừ được giống loài quỷ vật kia đến từ phương Tây, trong chính thế giới của họ. Quỷ của thiên chúa không phải là quỷ của phương Đông...
 
Chương 2: Con đường âm phủ


(Truyện ngắn nằm trong series truyện ngắn kinh dị Lời Thề Huyệt Hoang của tác giả Ngạ Quỷ)

Những tấm bia nhấp nhô san sát nhau như một rừng bia mộ tại một khu nghĩa địa. Chân hương của những cái bát nhang đã rụng rời vì từ lâu không có người thắp nhang, và cũng là vì mưa gió ảnh hưởng khiến cho cái bát nhang trông càng ẩm ướt bẩn thỉu thiếu trang nghiêm.

Những cái miếu nhỏ được người dân địa phương tạm thời lập nên để thờ cúng cho những người xấu số đã chết vì con đèo cả đầy nguy hiểm này...

***

Chiếc xe tải bon bon chạy trên cung đường vắng, vắng đến mức trên cả cung đường ấy chẳng hề có một chút ánh sáng nào khác ngoài chiếc đèn xe tải này. Mạnh buông chiếc vô lăng, thả rũ mái tóc đen nhánh của mình mà phủi những lớp bụi bay tới tấp từ khung cửa kính ngoài cabin bay vào.

Tuyến đường quốc lộ một trải rất dài, nó vòng vo quanh co qua những triền núi, kéo sâu vào tận tít bên kia những ngọn đồi là những trạm trung chuyển hứa hẹn của cánh lái xe tải.

Tại nơi ấy, những chuyến hàng quen sẽ được bốc dỡ đúng lộ trình, và tiếp tục đổ hàng tới những miền đất còn có thể hoang vu hơn cả tuyến quốc lộ này, những lối đường mòn.

Rầm!

Két!

Bất chợt, Mạnh phải vội phanh gấp bánh xe, cái vô lăng xoay mạnh một cái khiến cả chiếc xe quay mình như sắp đổ. Mạnh đập tay vô cái vô lăng chửi thề một câu:

- Mẹ khiếp, lại sạt núi rồi...

Mạnh rút một điếu thuốc lá ra đưa lên miệng châm hút phì phèo rồi nhả khói, nheo mắt nhìn quanh thật kỹ lại.

Nơi này là một nơi vắng vẻ đìu hiu, là một con đèo cao, bên cạnh có một cái vực sâu thăm thẳm. Ở cuối chỗ sụt lút, là một cái ngã rẽ đã bị đất đá đổ ùn xuống từ trên cao chặn quá nửa.

Mạnh chậm rãi từ tốn thưởng thức xong điếu thuốc, rồi mở cửa ca bin nhảy xuống xe xem xét tình hình.

Con đèo dốc bị chặn đứng bởi một mớ đất đá lổn nhổn nhấp nhô, dưới rặng cây xanh um tùm phía xa, chợt Mạnh nhìn thấy một đống bia đá thấp thoáng xa gần mờ mịt.

Mạnh chậm rãi tiến đến gần, soi cái đèn pin rọi vô phía ấy để xem kĩ đó là thứ gì. Vì trời đang buổi đêm, nên không khí rất lạnh. Anh vừa bước đi mà vừa ôm lấy sát thân người để cho đỡ lạnh.

Gió ở đèo cao khác với gió ở đồng bằng, nơi này cho dù là mùa hè đi chăng nữa, thì thi thoảng cũng có thể gặp phải những cái lạnh rất khó tả mà hiếm có nơi nào lại có thể bắt gặp được tương tự.

Mạnh rọi đèn pin chiếu về hướng ấy, nhìn thật kĩ thứ nhấp nhô sau những lớp đất đá đổ dồn dưới chân đồi thì mới phát hiện ra đó là những thứ gì. Đó là những tấm bia miếu thờ cúng, cụ thể là những miếu thờ những người trước đây đã từng bị đổ đèo chết ở cái đèo cao này.

Những tấm bia nhấp nhô san sát nhau như một rừng bia mộ tại một khu nghĩa địa. Chân hương của những cái bát nhang đã rụng rời vì từ lâu không có người thắp nhang, và cũng là vì mưa gió ảnh hưởng khiến cho cái bát nhang trông càng ẩm ướt bẩn thỉu thiếu trang nghiêm.

Những cái miếu nhỏ được người dân địa phương tạm thời lập nên để thờ cúng cho những người xấu số đã chết vì con đèo cả đầy nguy hiểm này.

Mạnh thở dài, thương cảm cho những người đồng bạn, đồng cảnh ngộ làm nghề lái xe như anh phải chết ở cái nơi hoang vu hẻo lánh. Vì đồng cảm với cảnh ngộ của họ, Mạnh tiến tới gần chỗ những cái miếu thờ, chọn một khu đất bằng phẳng nhất bắt đầu khấn vái lầm rầm:

- Thương cảm cho những con người xấu số phải bỏ mạng tại nơi này. Tôi là Phùng Đức Mạnh, cũng là nghiệp lái xe. Nay tôi lái xe qua đây không may gặp phải sạt núi, mới được dịp thắp cho anh em nén nhang. Anh em nghe thấy tôi khấn vái thì xin thương lấy tôi là người cùng cảnh ngộ mà sau này phù hộ cho tôi chở hàng êm xuôi. Nếu được như vậy thì tôi xin lạy tạ khói hương không ngớt...

Mạnh lầm rầm khấn xong, tuy không có que nhang, nhưng vẫn có mấy điếu thuốc lá. Anh cắm vội mấy điếu thuốc lá xuống miếng đất mềm thay cho que nhang rồi khấn vái như thường.

Xong việc, mạnh đứng lên phủi lớp bụi dính vào áo quần, rồi rảo bước quay trở lại chỗ chiếc xe tải của mình, trèo lên cabin xe tải và bắt đầu nổ máy.

Sau khi quan sát một hồi khá lâu, Mạnh phát hiện con đường này đã bị đất đá chặn không còn một lối đi nào có thể lách được nữa cả. Tuy vậy, bên cạnh chỗ vừa bị sụt lún, vừa vặn lại xuất hiện một lối mòn đường đất đâm sâu vào trong rừng cây bụi.

Chuyến này Mạnh chở rất nhiều hàng trên xe, mà toàn là hàng dễ hỏng. Nếu không thể chở hàng cho kịp ngày, thì toàn bộ số hàng hóa trên xe đều là hoa quả sẽ bị thối rữa hết. Nếu như vậy thì Mạnh coi như trở thành trắng tay. Quay ngược lại cũng chết, mà đường đi tiếp thì cũng không xong.

Cuối cùng Mạnh quyết định đánh liều thử cho chiếc xe chạy vào lối mòn đâm sâu vào trong rừng âm u kia thử xem sao. Anh đoán chừng lối mòn kia, rất có thể là con đường Trường Sơn huyền thoại, một con đường đâm sâu nhiều lối rừng để tránh bom Mỹ, mà chính bộ đội của ta lập nên để chi viện cho chiến tuyến miền Nam.

Nghĩ đoạn, không chần chừ thêm nữa, Mạnh đã nài xe phóng thẳng đến lối đường mòn. Đèn pha xe tải đều được bật lên sáng đến mức tối đa, với vận tốc xe thật chậm rãi để có thể nhìn rõ được con đường.

Dù trước nay Mạnh đã nhiều lần đi khắp tuyến đường mòn Hồ Chí Minh này, thế nhưng đây cũng là lần đầu tiên anh phát hiện ra cái lối mòn lạ hoắc mà anh chưa nhìn thấy bao giờ như vậy.

Nghe những đồng bạn ở những chuyến xe khác thường kể rằng, họ cũng có đôi lần gặp phải sạt núi, và cũng đều may mắn thoát khỏi được tình trạng ấy nhờ việc đi vào những lối đường mòn mà trước nay họ chưa từng đi. Những lối mòn ấy đa phần đều do bộ đội ta tạo ra ngày xưa để chi viện cho chiến trường miền Nam, vì thế cho nên tuy đường có thể vòng vèo, nhưng về phương hướng thì tuyệt đối chính xác. Lựa chọn tuyến đường như vậy tuy hơi tốn thời gian hơn một chút nhưng rất an toàn.

Đi sâu vào phía trong con đường, dấu hiệu đường đất ngày càng nhỏ dần.Thay vào đó là những cây bụi cứ liên tục chắn ngang đường khiến chiều rộng của con đường ngày càng nhỏ.

Tuy vậy, con đường dù nhỏ đến thế nào thì cũng vẫn vừa đủ cho một chiếc xe tải đi vào. Mạnh cứ nài xe đi theo con đường ấy, quanh co đến mấy khúc thì cuối cùng cũng đã có thế thấy một tia ánh sáng lờ mờ ở phía cuối đường.

Anh mừng rỡ tự reo lên:

- Không lẽ là những chiếc xe của chiều tắc đối diện bên kia, nếu là như vậy thì không lâu nữa là có thể quay lại tuyến đường quốc lộ như dự kiến rồi!

Mạnh mừng lắm, anh đột ngột cho tăng vận tốc lái xe lên đến gấp đôi. Hy vọng có thể sớm gặp được chiếc xe ở chiều đối diện kia càng sớm càng tốt.

Chiếc xe lao nhanh vù vù phóng về phía trước, trong niềm hy vọng của Mạnh là ở tại điểm sáng cuối đường kia sẽ là một chiếc xe nào khác.

Bộp!

Chợt một thứ gì đó đen đúa cực kỳ to lớn, bao vù qua nắp cabin xe, đập mạnh vào nắp cabin xe khiến cho nóc thùng cabin bị lõm một mảng rất lớn.

Mạnh giật mình không giữ được tay lái, khiến chiếc xe bị chao đào liên tục như muốn chệch ra khỏi lối đường mòn. Sau cùng anh gắng sức đấu tranh với cái bánh lái, cuối cùng cũng giữ được cho chiếc xe ổn định trở lại và quay trở lại lối đường mòn một cách êm xuôi.

Lúc này Mạnh định thần lại được, tự động thốt lên một câu:

- Cái quái gì thế nhỉ?

Anh nhảy xuống xe rồi vội vã dương đôi mắt như cú vọ đảo mắt nhìn quanh trong màn đêm tối âm u.

Loạt xoạt!

Có tiếng động lạ gần cái lùm cây cạnh chiếc xe, một cái bóng hình đen lùi lũi, trông giống như một loài linh trưởng nhưng lại có cách đi giống hệt người. Nó chui từ trong bụi ra rồi biến mất trong màn đêm, khuất xa cái tầm mắt của Mạnh.

Mạnh lắc đầu thở dài ngao ngán, anh tự đoán rằng đó rất có thể là một loài linh trưởng nào đó sống trong khu rừng này. Nó hoạt động về đêm nên đi lại trong rừng, xui rủi đúng lúc Mạnh đánh xe qua lối đường mòn thì nó lại đu ra đường, nên mới bị lao đầu vô cái nóc cabin xe tải như vậy.

Mạnh lại chui đầu vô cabin xe, tiếp tục lái xe phóng đi tiếp. Coi như một lần này Mạnh tự cho rằng là mình lại gặp xui xẻo nên mới đụng phải con linh trưởng đó đi.

Để tránh đụng phải một con vật nào khác thêm lần nữa. Mạnh quyết định sẽ không tiếp tục đi nhanh tới vệt sáng cuối đường, mà vẫn giữ vững nguyên một vận tốc như ban đầu. Anh cho rằng nếu phía trước là một chiếc xe, và họ cũng đi về hướng này, thì không sớm thì muộn, cả hai chiếc xe sẽ gặp nhau, nên không nhất thiết phải quá vội vàng. Tránh trường hợp lại gặp phải những thiệt hại giống như vừa rồi.

Chiếc xe của anh cứ phóng bon bon như vậy trong đêm. Vậy mà anh cứ đi mãi, đi mãi mà cái vệt sáng ở cuối đường kia vẫn cứ nhỏ như vậy, nó giống như là vô tận vậy, mãi mãi không bao giờ có thể tới được đích đến. Dẫu cho Mạnh có phóng nhanh như thế nào đi chăng nữa, thì kết quả tựu chung vẫn chỉ có vậy.

Cho đến lúc Mạnh chán nản, định bỏ cuộc và quay ngược đầu xe trở lại. Thì không ngờ rằng cái vệt sáng ở cuối đường làm anh thất vọng mãi kia thì cuối cùng nó cũng đã to dần dần lên. Cuối cùng một khung cảnh hoang rợn hiện ra khiến lông mao của Mạnh đều muốn dựng đứng.

Một căn nhà chòi nhỏ thó, bé đến mức chỉ bằng một căn nhà ma mà người ta xây dựng cho người chết ở. Lại là một căn nhà xây dựng cho một bà già ở giữa chốn hoang vu này.

Qua lớp kính cabin xe, Mạnh có thể nhìn thấy hình ảnh một bà già người dân tộc với hàm răng đen nhẻm, đôi mắt thâm quầng. Đang nhoẻn miệng cười nhìn anh với vẻ đầy thích thú như vừa được thấy một thứ gì đó từ lâu lắm rồi mà bà ta chưa được thấy vậy.

Lúc này Mạnh nhận ra, hóa ra là cái thứ tạo ra vệt sáng ở cuối con đường âm u tối đen mà anh luôn nhìn thấy, lại là phát ra từ một chiếc đèn bão ngay cạnh bà cụ. Điều khiến anh cảm thấy hơi có phần khiếp đảm là tại sao chỉ là một cái đèn bão mà ánh sáng lại có thể phát ra xa như vậy vẫn có thể nhìn được. Quãng đường từ anh phát hiện ra vệt sáng này, cho đến khi đến tận đây, ít nhất cũng khoảng tầm bảy hoặc tám cây số. Với khoảng cách xa như vậy, lẽ nào một cái đèn bão nho nhỏ lại có thể làm được việc ấy.

Một điểm khiến Mạnh nghi ngờ thêm nữa, là vì sao giữa chốn rừng thiêng nước độc, hoang vu hẻo lánh như vậy, lại có thể có một căn nhà chòi dựng lên ở đây. Hơn nữa người sống không ai khác, lại là một bà già yếu ớt, già yếu như vậy vẫn có thể sống một mình ư? Còn là một nơi đầy dã thú nguy hiểm như thế này.

Có điều, những câu hỏi vang lên trong đầu Mạnh khiến anh thắc mắc chỉ có như vậy mà thôi. Nó cũng chỉ thoáng xuất hiện qua trong đầu của anh, rồi đã bị anh gạt qua một bên không nghĩ tới trong phút chốc. Bởi vì đối với anh, điều quan trọng lúc này là thoát ra khỏi tuyến đường này, và tiếp tục trở về con đường quốc lộ quen.

Bà già này, tuy có chút lạ kỳ, nhưng âu dù sao có cũng hơn không, qua bà ta, Mạnh có thể nhân đó mà hỏi dò đường được.

Anh mở cabin thùng xe, bước xuống xe, nhanh tay đóng sập cái cửa cabin đến rầm một cái. Rồi chậm rãi bước tới cửa căn chòi, trên miệng anh nở một nụ cười tươi roi rói chào hỏi bà già ấy bằng tiếng Kinh:

- Chào bà! Tôi bị lạc đường vì phải tránh đoạn đường bị sụt đất ở quốc lộ nên mới tiến vào đây. Tôi muốn hỏi bà rằng không biết tuyến đường này nếu đi tiếp có thể thông ra ngoài đường quốc lộ một lần nữa hay không?

Mạnh vốn không ôm nhiều hy vọng rằng bà già này sẽ trả lời anh bằng tiếng Kinh được, vì bà ta là người dân tộc và lại sống một mình ở nơi hẻo lánh này, lại hiếm tiếp xúc với người bên ngoài. Vậy nên khi Mạnh vừa nói, anh lại vừa diễn tả hành động bằng tay cho bà ta dễ hiểu.

Nhưng không ngờ suy đoán của anh lại thật sai lầm. Bởi vì bà ta không ngờ lại có thể trả lời bằng tiếng Kinh được thật, không những vậy lại còn nói tiếng Kinh rất sõi:

- Cậu không thể đi tiếp con đường này, quay về ngay đi nếu cậu không muốn chết. Đó là con đường dẫn vào chốn của người đã chết. Chỉ có người chết mới có thể đi vào. Nếu cậu đi vào đó thì coi như cậu cũng là người đã chết rồi...

Bà ta nói xong liền cười lên những tràng âm thanh đầy khoái trá, ghê rợn, vang lanh lảnh trong màn đêm u tịch.

Mạnh nghe bà ta nói xong một chặp, như dọa dẫm. Không những không thấy sợ mà trái lại còn cảm thấy có chút nực cười. Anh cho rằng bà già này hẳn là một người Kinh chứ chẳng phải là người dân tộc gì cả. Chẳng qua là bà ta bị điên nên mới tự chui đầu vào trong chốn này để ở, bà ta là một người bị bệnh thần kinh, những lời bà ta nói đều là minh chứng cho điều đó.

Mạnh không thèm nghe bà ta tiếp tục lầm bầm, đã quay đầu đi thẳng trèo lên cabin xe muốn phóng xe đi tiếp. Cho dù con đường này không đi ra quốc lộ, nhưng chắc chắn nó sẽ tới một nơi nào đó có người. Và nơi có người đó sẽ không phải là nơi có bà già tâm thần này, như vậy thì Mạnh có thể dễ dàng nói chuyện với họ và hỏi đường.

Nhưng khi Mạnh vừa mới nổ máy xe, nụ cười trên miệng bà ta đã chợt tắt ngấm. Khuôn mặt bà ta dần chuyển sang vẻ hung ác, bà ta gào lên:

- Tao đã cảnh cáo mày như thế rồi, vậy mà mày không nghe tao sao? Rồi đến lúc nào đó mày sẽ phải trả giá về điều này. Thứ mà mày trước đó đụng phải, là một loài quỷ sinh sống giữa hai thế giới. Nó có trách nhiệm đưa lối cho những người sống về cõi chết...

Bà già vẫn tiếp tục nói, nhưng Mạnh đã chẳng thèm quan tâm mà liền phóng xe đi thẳng luôn, mặc kệ bà ta liên tục lẩm bẩm một mình.

Giọng nói của bà ta cứ văng vẳng mãi sau lưng của Mạnh. Cho đến khi anh nhìn vào gương chiếu hậu, thấy ánh sáng của cái đèn bão biến mất dần, thì cũng đồng thời không còn nghe thấy giọng của bà ta gào thét nữa. Không gian lại tiếp tục chìm vào màn đêm u tịch.

Mạnh thở dài một hơi đầy ngao ngán, hôm nay là một ngày khiến anh cảm thấy rất đau đầu. Trước khi khởi sư chuyện xe này, Mạnh đã bị giật chân mày đến mấy lần. Cảm thấy có chuyện chẳng lành, vợ anh đã cố can ngăn anh không nên đi chuyến hàng này. Nhưng suy cho cùng, vì miếng cơm manh áo, Mạnh vẫn phải vì vợ con mà tiến bước, dẫu cho mọi điều đen đủi gì có xảy đến đi vậy.

Đi thêm được một lúc, mà con đường vẫn cứ như vậy, vẫn kéo dài thẳng tăm tắp không thấy điểm cuối. Bụi cây gai ven đường xen lẫn bụi cây gai ven đường cứ cách độ vài chục mét lại giống nhau y hệt.

Đang trong lúc Mạnh chán trường, nghĩ đến việc có nên quay đầu xe lại hay không. Thì thật may mắn, vì từ phía xa xa cách đó độ chừng mấy trăm mét, anh nom thấy có bóng dáng một chiếc xe tải. Chiếc xe tải đó nhìn rất quen, nhưng Mạnh đoán mãi mà không biết là mình đã từng gặp nó ở đâu rồi.

Nhưng đối với Mạnh, điều ấy thực không quan trọng, quan trọng nhất là lúc này anh đã gặp một chiếc xe khác, là đồng bạn trên tuyến đường này. Anh sẽ có cơ hội hỏi thăm một chút về tình hình nơi này.

Xe của Mạnh chậm rãi tiến đến gần, rồi bắt đầu dừng bánh hẳn. Bên cạnh chiếc xe của anh đang đỗ hiện giờ, là một chiếc xe tải dài độ hai lăm mét, toàn bộ chiếc xe có màu sơn xanh lá đậm mới cóng. Tuy vậy, đèn xe lại không hề bật. Chỉ có một chiếc xe tải này đỗ lùi lũi ở ven đường. Nếu xe của Mạnh không chiếu đèn pha, hẳn là cũng không phát hiện ra việc nó đỗ ở đây.

Mạnh nheo mắt lại, kéo cửa kính xe mình xuống, thò đầu ra bên ngoài, gọi với sang cái bóng đen đang ngồi lùi lũi trong xe, anh nói to:

- Này anh bạn, anh có thể cho tôi hỏi thăm, tuyến đường này có thể đâm ra được đường quốc lộ hay không thế?

Cái bóng đen trong cabin chiếc xe tải vẫn bất động, không hề nói câu nào. Mạnh hỏi mấy tiếng mà nó không hề trả lời. Tức mình, Mạnh chẳng thèm hỏi nữa, mà trực kéo cửa kính xe lên đi thẳng.

Anh nổ máy rồ ga cho xe chạy.

Đúng lúc này, không ngờ người đó lại trả lời:

- Đây là đường vào cõi chết, anh vào đây thì sẽ vĩnh viễn không thể đi tiếp được nữa đâu...

Mạnh chưa kịp nghe hết câu trả lời, và cũng không kịp phân tích câu trả lời ấy. Nhưng theo thói quen anh vẫn mở miệng nói một câu xã giao lịch sự:

- Cảm ơn anh!

Nhưng nói xong thì Mạnh mới sực tỉnh, bởi lời người ngồi trong xe tải kia nói sao lại giống hệt với lời của bà già kia như vậy. Mạnh vừa lái xe vừa nhoái đầu nhìn lại cái gường chiếu hậu. Thì lập tức anh thảng thốt kêu lên:

- Trời ơi! Anh Hậu...

Mạnh vừa kịp kêu lên một tiếng thì đầu óc đã cảm thấy choáng váng hoa lên, vội phanh gấp xe lại.

Két két!

Chiếc xe phanh vội lập tức bị quay ngang ra, cả thân người mạnh chúi về phía trước đập đầu vào kính xe.

Anh hãi hùng, rồi thẫn thờ, vội vàng thò đầu ra ngoài cửa kính cabin xe nhìn lại một lần nữa chiếc xe tải ở phía sau cho thật kĩ.

Nhưng lạ thay, chiếc xe tải đó giờ đã biến mất không còn một chút tăm hơi. Cứ như trước đó nó không hề có ở đó vậy. Mà máy xe không hề nổ, Mạnh cũng không nhìn thấy nó rời khỏi chỗ khi nãy. Vậy thì tại sao chỉ trong một cái hoa mắt mà cả một chiếc xe khổng lồ to đùng như vậy đã biến mất đi đâu được?

Một điều nữa khiến Mạnh càng sợ hãi hơn cả. Đó chính là cái giọng nói, cái âm thanh ấy, và chính xác là cái vóc người ấy. Mạnh đã có thể nhận ra người đó là ai.

Đó là ông Hậu, Đinh Xuân Hậu, người cùng làng của Mạnh, thời Mạnh mới gia nhập cánh lái xe không lâu, đi được với ông Hậu vài chuyến, thì chuyến hàng giáp tết cuối cùng. Chiếc xe tải xanh lá đậm của ông ta bị đổ đèo. Cả người cả xe đều rớt xuống vực, ông Hậu chết mất xác.

Mà chiếc xe màu xanh lá vừa rồi, thật kinh khủng làm sao, bởi Mạnh nhận ra đó chính là chiếc xe mà vài năm trước đây anh đã có dịp được đi chung với ông Hậu và ngồi trên nó. Đặc điểm của chiếc xe đó như thế nào anh vẫn còn nhớ rất rõ, bởi ông Hậu là một người kĩ lưỡng cẩn thận, chiếc xe của ông ta lúc nào cũng thật bóng bẩy sáng loáng. Đặc biệt là cái kính cabin xe thì bao giờ cũng mở hé một lỗ để cho ông Hậu hút thuốc lá, cùng với cái thùng xe bị móp một miếng ở mé phải do va quyệt.

Một điều khủng khiếp nữa, là trước khi Mạnh cảm thấy hoa mắt và choáng váng bởi giọng nói rất quen kia. Thì anh chợt mường tượng nhớ ra được lúc đó cái bóng đen lùi lũi chợt thò ra khỏi cửa kính xe, để lộ ra một khuôn mặt xám ngắt cực kỳ quen thuộc, đó chính là ông Hậu.

Đây là lần đầu tiên Mạnh có cảm giác thấy sợ hãi như vậy, vốn là một người gan dạ, trước đây Mạnh chưa biết sợ ma là cái gì. Nhưng có lẽ sau lần này thì anh phải cảm thấy hãi thật.

Mạnh không dám dừng lại lâu hơn, anh nhanh chóng rồi ga khởi động xe phóng thẳng khỏi chỗ này.

Đi tiếp thêm một đoạn đường nữa, Mạnh chợt nom thấy một chiếc xe khác. Cái xe này cũng thật kỳ lạ, lạ ở chỗ là Mạnh cảm thấy dường như là chính xác mình đã từng lại nó rồi thì phải, một cảm giác cực kỳ thân quen trào lên trong ký ức của anh.

Chợt anh giật mình, những thứ kinh khủng lại vang lên trong đầu anh:

- Trời ơi, đây là chiếc xe của cậu Thân mà!

Anh nhớ lại, năm ấy anh cùng cậu Thân, người bạn cùng tuổi của anh có một lô hàng chở trên đèo cả, chính xác là chỗ mấy cái miếu nơi đất sụt lún lúc trước. Thì gặp phải một cơn bão lớn, đường trơn khiến đất đá phủ đầy mặt đường, xe không bám đường được. Cả chiếc xe mà hai người lái đâm đầu xuống vực. Mạnh nhanh tay nên thoát được ra ngoài trước khi xe rơi xuống vực, mà may mắn vẫn còn sống sót. Nhưng cậu Thân thì không may mắn như vậy. Cậu ta bị xe tải đè bẹp đến nát cả xác, sau này gia đình cậu ta đến thu gom xác về để chôn cất thì cũng chỉ còn là những bãi thịt bầy nhầy lẫn với xương của cậu ta mà thôi.

Nhìn thấy chiếc xe, nhớ đến những cảnh tượng khủng khiếp năm xưa, khiến Mạnh sợ hãi không dám nán lại thêm. Mặc dù ban đầu anh còn có ý định dừng lại đôi chút để hỏi đường, vì gặp một chiếc xe khác, nhưng không ngờ lại là cảnh tưởng tương tự như lúc trước khi gặp ông Hậu.

Mạnh phóng xe đi nhanh, những tưởng sẽ thoát khỏi được nỗi kinh hoàng. Nhưng không, dù anh có phóng xe nhanh đến mức thế nào. Thì chỉ trong một thoáng giây vụt qua thôi, anh đã chợt thấy cậu Thân đứng ở ven đường, với khuôn mặt nát bét. Miệng nhếch lên đầy thứ thịt thối rữa cười một cách đầy kinh tởm, cậu ta nói: “Mạnh, sao mày để tao chết một mình, chết cùng với tao đi!”

Giọng nói ấy cứ văng vẳng bên đầu Mạnh khiến anh toát mồ hôi không sao tập trung lái xe được thêm nữa.

Anh cứ phóng xe đi mãi, đi mãi mà chẳng thấy con đường này kết thúc gì cả. Rồi thì kinh khủng hơn là lần lượt những chiếc xe quen mà chủ nhân của những chiếc xe đó đều đã chết, là những người đồng hao quen thân của Mạnh trước đây chết vì đổ đèo cứ lần lần hiện ra khiến Mạnh hết lần này đến lần khác kinh hãi thất sắc.

Anh cảm thấy kinh hoàng quá, nhớ lại lời cảnh cáo của bà già kia liền nghĩ tới không lẽ nó là sự thật. Nghĩ đoạn, Mạnh không dám đi tiếp, anh e sợ liền quay đầu xe lại. Anh không muốn tiếp tục đi trên tuyến đường này, anh quyết định sẽ quay lại tuyến đường cũ, dù cho bây giờ đường sụt, chuyến hàng có mất trắng thì cũng không thể tiếp tục chịu đựng được những điều kinh khủng mà anh đang gặp phải.

Chiếc xe nhanh chóng quay đầu ngược trở lại. Tính đến lúc từ chỗ cái lán chòi của bà già kia, Mạnh đâm sâu vào tuyến đường này đã được hơn hai mươi cây số. Vậy là tổng quãng đường từ đây về căn chòi đó rồi từ căn chòi đó về đường quốc lộ là khoảng ba mươi cây số. Mạnh tính mẩm nếu anh đi nhanh thì chỉ khoảng ba bốn mươi phút là anh sẽ quay lại được đường quốc lộ.

Thế nhưng dường như ông trời đã trêu ngươi anh thật sự vậy, anh đã phóng xe đi mãi, đi mãi, hai giờ đồng hồ đã trôi qua với vận tốc tối đa là trên bảy mươi cây số đối với chiếc xe nặng nề này. Thế nhưng con đường này vẫn kéo dài đến vô tận.

Mạnh sợ hãi đến phát khóc, và lúc này anh đã thực sự tin tưởng lời bà già kia cảnh cáo. Con đường này, không sai, chính là Hoàng tuyền lộ. Là còn đường dành cho người đã chết, vĩnh viễn không có điểm đầu cũng như điểm cuối, đi trên nó chỉ có thể gặp được những hồn ma đã chết chứ chẳng thể nào gặp được người sống.

Mạnh tuyệt vọng, đầu anh gục xuống vô lăng, bánh xe dừng lại, anh khóc dấm dức mà cầu xin trời đất có thể cho anh thoát khỏi con đường này.

Ngay lúc Mạnh tuyệt vọng đến mức gần như muốn bỏ cuộc. Thì đúng lúc này một giọng nói, cực kỳ quen thuộc, cực kỳ kinh tởm vang lên:

- Sao? Mày thấy chưa? Tao đã cảnh cáo mày rồi, đây là hậu quả mày đáng phải trả dành cho một kẻ cố chấp. Hình phạt là một người sống mãi mãi lạc trong thế giới của người cõi chết.

Mạnh vội vã quay đầu nhìn sang, anh phát hiện ra rằng lại là bà già đó. Bà ta từ lúc nào đã ngồi ngay bên cạnh ghế phụ ở trong cabin, giọng nói kinh tởm lanh lảnh của bà ta vang lên khiến Mạnh phát khiếp.

Mạnh tức giận, anh điên cuồng xồ đến túm cổ áo bà ta quát lên:

- Bà mau nói đi, làm thế nào? Phải làm thế nào thì mới có thể thoát ra khỏi đây?

Bà già cười khanh khách, bà ta chẳng màng đến bàn tay của Mạnh đang bóp chặt cổ bà ta. Mà bà ta vẫn cười nói như thường, Mạnh cảm thấy bà ta dường như không thở. Lẽ nào bà ta cũng là một hồn ma đã chết.

Bà ta nói:

- Mày nhận ra mọi chuyện thì đã quá muộn rồi, đều trách mày đã không nghe lời cảnh cáo của tao. Có điều hôm nay là một ngày may mắn dành cho mày, tao là yêu tinh canh giữ Hoàng tuyền lộ, đang cần một món quà từ trên người mày. Một thứ điều kiện trao đổi bất kỳ để đánh đổi lấy mạng sống của mày!

Mạnh quát lên:

- Mụ già khốn khiếp, mau thả tôi ra khỏi đây!

Mắt Mạnh đỏ lên như máu vì tức giận, anh nghiến răng bóp chặt cổ bà ta lắc lư. Nhưng mà dường như bà ta chẳng ảnh hưởng chi cả, mà vẫn nói chuyện như thường. Bà ta cười hết sức mỉa mai nói:

- Thôi đi, đôi bàn tay trần thối nát của mày mà cũng nghĩ đến chuyện có thể giết một yêu tinh hay sao?

Bà ta chợt hơi hất nhẹ cánh tay của mình vào bàn tay của Mạnh. Mạnh chợt cảm thấy như có một sức mạnh rất lớn đẩy bàn tay của anh ta, anh kinh ngạc vì đôi bàn tay gầy guộc trông yếu ớt như thế kia của bà ta lại có thể khỏe đến như vậy.

Bà ta gạt tay Mạnh ra xong, trên miệng liền tắt hẳn nụ cười. Sắc mặt bà ta chợt đanh lại, bà ta quát lên:

- Đủ rồi, đây là cơ hội cuối cùng của mày. Yêu tinh rất thích chơi đùa nhưng lại không có tính nhẫn nại đâu! Mày nói đi, đánh đổi một thứ hay là mãi mãi lạc trong con đường của âm phủ?

Mạnh quát lên như gào vào mặt bà ta:

- Không, tôi không tin!

Anh lại đặt tay vào vô lăng, nhấn ga thật mạnh cho chiếc xe vụt phóng đi trên đường mòn. Anh vẫn còn một niềm hy vọng cố hữu, một niềm hy vọng đến kiên định rằng mình có thể thoát ra khỏi cơn ác mộng này.

Vụt!

Rầm!

Lại một tiếng kêu rất lớn vang lên, cái nắp cabin xe lại bị móp một mảnh. Lúc này cả chiếc xe bị chặn đứng lại bởi một thứ sinh vật xù xì đầy lông lá. Trông nó hệt như một con người nhưng lại đầy lông, đăc biệt là không hề có mắt.

Bà già ngồi bên cạnh Mạnh lại tiếp tục vang lên giọng nói đầy mỉa mai:

- Nó là con quỷ đưa người sống vào thế giới cõi chết. Nó sẽ không bao giờ để cho mày rời khỏi đây được đâu. Mày nói đi, lựa chọn đánh đổi để trở về cuộc sống nhân gian hay là không?

Bà già lại cười lên với vẻ đầy khoái trá và sự thích thú.

Mạnh ảo não đến bất lực đập tay vào vô lăng xe, cuối cùng anh buông xuôi và phó mặc cho số phận. Chấp nhận lời dụ dỗ của bà ta, anh nói:

- Được, chỉ cần bà có thể khiến tôi thoát khỏi tuyến đường chết tiệt này, đánh đổi bằng thứ gì cũng được, trừ mạng sống!

Bà già cất giọng the thé nói:

- Tất nhiên là phải trừ mạng sống, vì nếu lấy mạng của mày thì tao đâu được ích gì. Được rồi, quyền lựa chọn là của mày, phải là một thứ rất quan trọng đối với mày. Là vợ, là con đầu lòng, là đứa con thứ, hay cha mẹ thân sinh. Phải là người chết thế cho mày, mày phải lựa chọn. Người được lựa chọn càng trẻ thì thời gian trả nợ càng lâu, càng già thì càng nhanh phải trả nợ...

Mạnh quay đầu sang nhìn bà già với vẻ đầy suy tính. Cha mẹ, vợ con mỗi thứ đều không thể cân đo đong đếm. Nhưng cuối cùng anh chỉ muốn chuyện này qua phắt đi cho nhanh, liền buột miệng nói:

- Nếu có thể thì biến mất phắt đứa con gái đầu lòng của tôi đi, nó thật là một con bé khó chịu...

Nhưng lời Mạnh vừa nói ra xong thì liền cảm thấy hối hận, liền nhanh chóng sửa lời:

- Đấy là tôi nói là nếu...

Thế nhưng điều đó đã là quá đủ đối với bà già. Bà ta cười đầy khoái trá và biến mất như bốc hơi, chỉ còn lại giọng nói vang văng vẳng:

- Khế ước được chấp nhập, thứ được đánh đổi là con gái của mày. Hai mươi năm sau, tao sẽ đến đòi nợ mày, món nợ của tính mạng... Nên nhớ, không thể thất hứa với yêu tinh giữ cửa đường âm phủ...

Giọng nói chấm dứt, mắt Mạnh hoa lên một chặp. thì đã thấy xa xa là mép đường quốc lộ xuất hiện, chỉ còn cách đoạn một cây số nữa thôi. Anh mừng quýnh, liền vội phóng xe đi gấp mà quên ngay chuyện vừa rồi.

Sau chuyến hàng đó, Mạnh trở lại an toàn, tuy muộn nhưng may mắn là chỗ đất sụt được lực lượng chức năng khai thông rất sớm nên vẫn kịp để giao hàng cho đối tác.

Cuối cùng Mạnh trở về nhà và nhanh chóng quên đi câu chuyện về tuyến đường Hoàng tuyền lộ.

...

Hai mươi năm sau.

Người con gái đầu lòng của Mạnh giờ đã lớn, và trở thành một cô thiếu nữ rất xinh đẹp. Còn Mạnh đã trở thành một lão già trung niên hay cáu kỉnh và khó tính.

Sau bao nhiêu năm lang bạt, Mạnh có thể xây dựng được cơ ngơi riêng của mình với một hãng xe vận tải riêng cả về hành khách lẫn hàng hóa.

Thế nhưng, cuộc sống giàu sang sung túc và đầy hạnh phúc ấy lại chẳng được bao nhiêu lâu. Cơn ác mộng mà Mạnh những tưởng rằng nó đã qua đi, thì không ngờ rằng giờ đây nó đã quay trở lại.

Buổi chiều tối, sau khi đốc thúc xong đám lái xe thuê giao chuyến hàng cuối để chốt sổ sách. Mạnh rời kho để trở về căn nhà biệt thự bốn lầu mà anh mới xây.

Căn nhà ấy lọt thỏm ở giữa một vườn cây ăn trái, đủ các loại trái thơm quả ngọt mà ai cũng phải thích mê.

Căn biệt thự có bốn tầng lầu, mỗi tầng đều được thiết kế sang trọng tiện nghi, và đều có thể nhìn ra tận xa khắp vườn cây ăn quả.

Dưới lầu một, ở trước sân biệt thự là một gốc cây trứng cá, và một gốc cây dừa. Ở bên hiên nhà, Mạnh còn mắc một cái võng để thi thoảng rảnh rỗi ngồi hóng mát.

Kết thúc ngày làm việc ở kho, trời đã tối mịt Mạnh mới về nhà. Cơm nước xong xuôi thì cũng đã đến chín giờ tối, tất bật hoàn thành nốt đống sổ sách thì cũng vừa tròn mười một giờ đêm. Khi ấy, cả gia đình vợ con của Mạnh đều đã đi ngủ hết. Mạnh làm việc xong thì liền theo thói quen, chui ra cái võng ở hiên để hóng mát buổi đêm như thói quen mà lâu nay anh vẫn hay làm.

Trời đêm gió thổi hiu hiu, tiếng chó sủa xa xa cứ vang vong vỏng, rồi tiếng cây cối xào xạc, côn trùng kêu ve vãn khiến Mạnh hoài tưởng tới hồi còn trẻ vẫn còn phải vất vả lái xe tất tả, dừng nghỉ ở ven rừng Trường sơn, tất cả đều khiến cho Mạnh có một nỗi hoài niệm mang mác buồn về quá khứ.

Trong lúc mắt anh dõi xa xa về phía vườn cây ăn quả, thì chợt Mạnh cảm thấy như có người nào đó đang đứng sau lưng vậy. Một cái bóng phả lộ rõ qua ánh trăng chiếu rọi cho cái bóng hiện ra trước mặt của anh.

Mạnh nhanh chóng quay phắt đầu lại, mà chẳng thấy bất kỳ ai.

- Quái lạ nhỉ!

Mạnh tự thốt lên một câu cảm thấy khó hiểu, vì cái bóng người do ánh trăng chiếu rất rõ ràng, không thể nào mà nhầm lẫn được.

Được một lúc, Mạnh quên chuyện ấy, anh lại dõi mắt về phía vườn cây ăn quả mà lim dim mắt, muốn thiu thiu ngủ.

Nhưng lập tức anh phải giật mình đứng bật dậy hốt hoảng, bởi vì đột nhiên anh vô tình thấy lẫn trong cái tán cành lá của cây trứng cá. Mạnh có thể một đôi mắt sáng như đuốc, sâu hoăm hoắm, với hàm răng trắng nhởn nhe ra đầy ghê tởm. Cái cây rung rinh rung rinh như có gió đưa đẩy.

Nhưng kỳ thực là do người ngồi trong tán lá ấy đung đưa thì phải. Phải là người tinh mắt lắm, thì mới có thể nhìn thấy được người ngồi nấp trong tán lá ấy. Vừa rồi Mạnh chỉ vô tình, nên mới có thể liếc thấy thứ ấy. Thảo nào mà anh luôn có cảm giác có một người nào đó luôn theo dõi mình, thì ra là như vậy.

Mạnh dụi mắt một lần nữa để xác định lại, thì lại thấy tán lá cây trứng cá bình thường trở lại.

Anh tự lắc đầu cho rằng dạo này mình đã dần có tuổi rồi, cho nên mới gặp nhiều chuyện hoang đường.

Anh quay đầu lại ngồi xuống võng, định tiếp tục đi nằm thì lại giật mình vì từ lúc nào trên ngọn cây dừa, lại đang có vóc người đen đúa, mặc áo lùm xùm ngồi thui lui nấp sau những chùm dừa. Mắt người đó sáng quắc, và vẫn hàm răng trắng nhởn đầy kinh tởm.

Mạnh hãi hùng quá, quay đầu chạy vô nhà, nhảy lên giường, chùm chăn rúc vào ôm vợ run như cầy sấy.

Vợ của Mạnh lúc đó ngủ quá say nên cũng chẳng biết chồng mình bị như vậy. Mạnh ôm vợ một lúc lâu thì cũng ngủ thiếp đi, và nhanh chóng quên đi những chuyện vừa mới trông thấy ngoài sân.

Sớm hôm sau, Mạnh đánh răng rửa mặt thật nhanh. Anh dậy từ năm giờ sáng để chuẩn bị mọi thứ từ trước. Lúc này trời vẫn còn hơi sẩm tối, Mạnh quẹt quẹt cái bàn chải đánh răng vô miệng mấy lần mà vẫn ngái ngủ.

Mạnh cúi xuống bồn rửa mặt, xúc miệng ồng ộc một lượt, rồi ngửa mặt lên nhả nước xúc trong miệng ra. Lấy khăn mặt lau lau thật sạch khuôn mặt của mình, rồi mới vắt cái khăn mặt lên giá. Mạnh lúc này mới chợt nhìn vô gương, toan chải chuốt một chút cho thật tươm tất. Bất chợt, thình lình anh hãi hùng bật ngửa ra phía sau, vì trong cái trời nhá nhem. Một đôi mắt đỏ tươi đang thùi lùi nhìn vô gương, một thân người đứng sau lưng anh. Đôi mắt nó nhìn chằm chằm vào khuôn mặt anh trong gương như muốn đòi nợ.

Một giọng nói the thé vang vẳng trong gió:

- Trả nợ cho tao...

Mạnh toát mồ hôi, xoay người trở lại thì không thấy ai. Anh bỗng nhớ lại cái hình dáng ấy, chính xác là hình dáng của bà già mà hai mươi năm trước anh đã gặp, trên con đường mòn kinh hoàng. Con đường mà cho dù sau khi đã thoát ra khỏi đó một thời gian dài rồi mà Mạnh vẫn phải mất một thời gian rất lâu nữa mới có thể quên được hết.

Kể từ sau hôm đó, cứ tối đến, Mạnh lại hãi hùng bắt gặp phải đôi mắt ấy, cái vóc người ấy. Thi thoảng người ấy cứ vắt vẻo trên ngọn cây, thi thoảng thì thấp thoáng ở nhà tắm. Lúc thì mập mờ ở cái cây mít vườn sau. Lúc lại có tiếng rầm rầm ở gần cái cửa sổ buồng ngủ...

Những chuyện ấy ám ảnh khiến Mạnh cảm thấy muốn phát rồ. Câu nói “Trả nợ lại cho tao” cứ vang vang mãi trong đầu anh mà không dứt.

Cuối cùng Mạnh đã nhớ lại hết, và đã biết rằng, giờ đây là lúc anh phải thực hiện trả lại món nợ cho mụ già yêu tinh trên con đường Hoàng tuyền lộ năm xưa.

...

Buổi sáng hôm sau.

Con gái anh là Thu Quyên đã tíu tít khoe với anh một chuyện rất vui vẻ:

- Bố ơi, hè này trường đại học cho bọn con nghỉ rất dài, con muốn đi du lịch một chuyến. Bố cho con đi nhé!

Mạnh nhìn đứa con gái đầu lòng là Thu Quyên, rồi nghĩ đến bản khế ước với mụ yêu tinh mà ruột đau như cắt. Nhưng anh khẽ vuốt mái tóc của Thu Quyên nhẹ nhàng, rồi trầm ấm dịu giọng hỏi con:

- Vậy chứ con muốn đi du lịch ở đâu?

Thu Quyên thật thà trả lời:

- Dạ! Con muốn đi một chuyến đi phượt từ Nam ra Bắc!

Mạnh chợt nhíu mày nói:

- Đi qua đường Trường sơn à?

Thu Quyên ngạc nhiên, thích chí reo lên:

- Ơ sao bố biết hay vậy! Là vì giờ người ta hay đi đường quốc lộ một. Nhưng tụi con nghe nói đường Trường sơn đi thì sẽ có thể ngắm được nhiều cảnh đẹp hoang sơ hơn. Hơn nữa đó còn là tuyến đường có nhiều tích truyện oanh liệt kháng chiến, rất đáng để khám phá.

Mạnh thở dài trách số phận Thu Quyên sao mà hẩm hiu, chuyện này xảy ra giống như là ông trời cố ý sắp đặt để Thu Quyên đi thế mạng, trả nợ số kiếp năm ấy vậy.

Mạnh biết chuyến đi này của Thu Quyên cuối cùng sẽ xảy ra hậu quả gì, cho nên chỉ cố nén đau thương nói:

- Bố cũng muốn thăm lại đường Trường sơn một lần, hay là con cho bố đi cùng với bọn con đi. Bố quen đường ở chỗ đấy nên cũng biết nhiều di tích hay lắm...

Thu Quyên reo lên:

- Thật vậy hả bố? Ôi thích quá! Vậy là bố đồng ý cho con đi du lịch...

Mạnh gằn lòng kìm nén cố không phát ra những lời buồn bã nói:

- Ừ, với điều kiện là có bố đi cùng!

Thu Quyên thích trí liền nói:

- Bố muôn năm, bố là nhất!

Rồi Thu Quyền tung tăng chạy lên phòng mình ở lầu hai, con bé hối hả gọi cho khắp lượt những người bạn thân sẽ tham gia chuyến đi này để thông báo rằng nó đã được bố nó đồng ý cho đi. Không những vậy, nó còn mời được một người dẫn đường cự phách là bố nó đi cùng, để cả đoàn không cảm thấy lãng phí thời gian mà vẫn có được đến những điểm lý thú trong chuỗi hành trình vậy.

Còn Mạnh thì nhìn Thu Quyên vui vẻ như một đứa trẻ, nghĩ đến kết quả của chuyến đi lần này. Anh chỉ muốn đâm đầu vào chỗ nào đó chết quách đi cho xong. Vì sao một đứa bé dễ thương đến như thế, mà năm xưa đầu óc của anh bị trời đánh thánh vật thế nào, lại buột miệng nói ra là đánh đổi đứa con này. Nếu bây giờ cho thời gian quay trở lại, Mạnh thà đánh đổi tính mạng của mình thay cho con bé, còn hơn là để một người trong sáng thiện lương như Thu Quyên phải chết vì một sai lầm của mình.

Năm hôm sau, những người bạn của Thu Quyên đều đã góp mặt đầu đủ ở kho công ty của Mạnh. Mạnh cử hẳn một chuyến xe hành khách của công ty để bảo trợ cho chuyến đi lần này của đám trẻ. Đồng thời, anh còn là người đích thân lái chiếc xe ấy để đưa chúng đi trên chuyến hành trình lần này.

Chuyến xe bắt đầu khởi hành, con đường Trường sơn xưa cũ năm nào dần dần hiện ra trước mắt đoàn người.

Mạnh rất quen thuộc tuyến đường này nên lái xe rất bắt đường. Không những vậy anh lại còn có thể tìm được những điểm đến lý thú dành cho lũ trẻ trên khắp chuyến đi, khiến chúng trên khắp chuyến đi cứ luôn khen ngợi anh không ngớt.

- Chú Mạnh, không ngờ đường Trường sơn này toàn cây với cối, mà lại có lắm chuyện hay li kì thật đấy!

Tuấn, một người bạn của Thu Quyên từ đầu đến cuối chuyến đi liên tục nịnh nọt Mạnh khiến Mạnh vui vẻ. Nghe đứa trẻ thích thú khen ngợi, Mạnh khách sao gật đầu nói:

- Thì chú cũng biết ít thôi, quan trọng là hồi trẻ có đi nhiều qua chỗ này, nên nghe dân ven đường kể mãi thành ra cũng quen đi ấy mà!

Mạnh nói xong, lại chăm chú tiếp tục vào việc lái xe. Tuấn hứng thú dạt dào hỏi:

- Ngoài mấy chuyện các chiến sĩ hy sinh, rồi tục lệ của người bản xứ. Chú còn biết chỗ nào hay hay li kì nữa không chú?

Mạnh trả lời:

- Hay hay thì không, nhưng mà li kỳ thì có nhiều đấy! Đoạn nữa sắp đến một chỗ, chú dừng lại sẽ kể cho các cháu nghe...

Tuấn hưng phấn hỏi:

- Dạ, chỗ đó có lớn không chú?

Mạnh lắc đầu nói:

- Lớn thì không lớn, mà cũng rộng vừa đủ!

Mạnh tiếp tục lái xe, đồng thời nhấn ga, dồn tốc độ cho xe lao nhanh để có thể leo lên dốc con đèo một cách dễ dàng.

Chiếc xe lao vùn vụt lên tới tận đỉnh đèo, từng khu bia mộ năm xưa Mạnh từng nhìn thấy khi sạt núi dần hiện ra.

Chiếc xe đi tới chỗ này liền giảm dần vận tốc, đi chầm chậm ngược trở lại. Chiếc xe dừng hẳn bánh, đoàn người gồm mười ba người đều bước xuống xe.

Mạnh cầm trong tay bó nhang, chậm rãi đi đến gần một ngôi mộ, thắp lên cây nến rồi đốt hết nhang trong bó nhang cho cháy đều. Sau đó, anh tỉ mỉ đi đến từng ngôi miếu cắm nhang không sót một ngôi miếu nào.

So với hai mươi năm trước đây, số miếu ở đây có vẻ chỉ tăng lên chứ không hề ít đi. Một số ngôi miếu chắc là do thời gian quá lâu không có người trùng tu, nên chỉ còn là những lớp gạch vụn, thậm chí bát nhang cũng chẳng còn, khiến Mạnh buộc chỉ có thể cắm cây nhang lên nền đất.

Cắm xong hết lượt bó nhang không còn bó nào, Mạnh lẩm rẩm khấn bái trong miệng. Đám người Tuấn, Thu Quyên không hiểu tại sao Mạnh lại là như vậy, nhưng cũng chắp tay vờ khấn theo.

Chờ cho Mạnh ngừng hẳn khấn vái, Tuấn bắt đầu chạy đến bên cạnh Mạnh hỏi dồn:

- Chỗ này vì sao lại có nhiều ngôi miếu thờ thế hả chú?

- Đúng vậy, tại sao lại có nhiều miếu thờ thế chú?

Cả đám trẻ nhao nhao lên đồng thanh hỏi:

- Mạnh gật gù, ngồi xuống bên thềm một hòn đá nghĩ chân cạnh một ngôi miếu rồi thở dài nói:

- Họ đều là những người lái xe, trong số này còn có cả những người bạn của chú năm xưa cũng chết tại đây. Là vì con đèo này quá mức nguy hiểm, nên đã xảy ra không ít vụ tai nạn ở chỗ này. Số người chết tại đây cứ ngày một tăng lên, nếu chú đoán không nhầm, thì so với hai mươi năm trước, số lượng miếu thờ ở đây đã tăng lên gấp ba lần rồi!

Cả đám trẻ nghe xong liền trầm trồ, chúng vừa tiếc thương cho những người đã chết ở đây vì tai nạn, nhưng cũng rất hiếu kỳ muốn tìm hiểu nguyên nhân sâu xa trong chuyện này.

Mạnh kể một vài vụ đổ đèo mà anh từng biết cho đám trẻ, thậm chí còn kể cả cái vụ mà anh đã suýt chết, may mắn thoát chết và người đồng bạn của anh thì không qua khỏi.

Mạnh châm một điếu thuốc lá, bắt đầu chậm rãi kể:

- Chú với cậu Thân ấy là bạn đồng hao, sau khi học hết trường làng là cả hai anh em bỏ dở không theo học nữa, mà bỏ đi làm lái xe thuê trên thành phố. Mấy năm thì cậu Thân tậu được xe riêng, mời chú về đi chung. Rồi cái đợt tháng bảy năm ấy, xui rủi thế nào mà gặp đúng cơn bão, nếu là mưa bình thường thì không sao. Chú Thân đi lên đến đoạn đèo này thì xe bị gió thổi bật tung nắp cabin, chú ấy hoảng quá không cứng tay, nên quẹo lái khiến cả chiếc xe lao hẳn xuống vực...

Tuấn thở dài một chặp, rồi lại hỏi tiếp:

- Tội nghiệp chú ấy, vậy sao mà chú thoát được?

Mạnh kể:

- Lúc ấy cái nắp cabin bay lên, chú linh tính không hay, nên theo phản xạ thì ngay lập tức lúc ấy mở cửa xe cứ nhảy bừa ra ngoài. Mưa gió có nhìn thấy cái gì đâu, lá cây bay tung mù mịt, may thay lúc ấy cái hướng chú nhảy nó không phải là vực sâu, chứ không thì chắc giờ này cũng không thể ngồi đây với các cháu.

Mạnh kể xong, liền dập tắt điều thuốc lá sau đó cười nói tiếp:

- Nhưng thôi hôm nay kể đến đây thôi, trời tối rồi. Chú sẽ đưa các cháu đến một nơi...

Nghe Mạnh nói vậy, lũ trẻ đều gật đầu đồng ý, Mạnh đi đâu thì chúng sẽ đi theo đó.

Mạnh nổ máy xe tô, rồi bắt đầu rẽ lái hướng vào lối đường mòn ngay trước đám bia miếu thờ những người xấu số.

Chuyện gì đến rồi cũng phải đến, Mạnh đã quyết định đêm nay là đêm cuối cùng dành cho Thu Quyên, đứa con gái đầu lòng của anh. Trên chuyến đi này, những loại ác mộng liên tục xuất hiện, dằn vặt Mạnh hằng đêm khiến anh không thể tiếp tục chờ thêm được nữa. Nếu chịu đựng thêm một ngày Mạnh sẽ phải căng não đến chết.

Trời đêm bắt đầu phủ xuống con đường mòn ấy, con đường mòn vẫn giống như năm xưa với chằng chịt những bụi cây ven đường, cách nhau với một đoạn khoảng cách nhất định.

Đám cây gai bụi tua tủa chắn đứng đường chiếc xe đi khiến tấm nhìn khó nhìn hơn nhiều. Vẫn con đường ma quái ấy, và quả nhiên một lát sau vẫn có một vệt sáng li kì dần xuất hiện ở ít cuối đường.

Mạnh nhìn vào vệt sáng ấy, ánh mắt xa xăm mà mang mác buồn. Trong đầu anh còn đột nhiên bốc lên một loại cảm giác kinh tởm nào đó.

Đi thêm một đoạn nữa, chợt Mạnh thấy có một cái bóng đen thấp thoáng bên vệ đường, bóng đen đờ đẫn lướt qua lướt lại trốn tranh trong những bụi cây.

Mạnh nhìn thấy bóng đen ấy, liền lập tức đoán được ra ngay đó là thứ gì. Hẳn là nó chính là loài sinh vật dẫn người sống đến thế giới đã chết, mà trước đây Mạnh đã từng có dịp được gặp một lần, chính nó đã làm bẹp cái nóc cabin xe của anh năm xưa.

Loài sinh vật này đã bắt đầu xuất hiện, chứng tỏ là từ đây đến chỗ bà già kia còn cách không xa nữa thôi.

Tuấn đang gật gù ngái ngủ, liền đột ngột thức giấc kỳ quái như gặp phải một giấc mơ nào đó nên bị giật mình.

Dụi mắt một lát cho tỉnh ngủ, Tuấn bắt đầu hiếu kỳ quay sang hỏi Mạnh:

- Chỗ này là chỗ nào thế hả chú?

Mạnh đáp:

- Đây là một lối đường tắt!

Tuấn ngơ ngác một lúc, rồi chợt nhìn thấy cái đốm lửa ở xa xa, lập tức Tuấn liền reo lên:

- Hình như có người ở trong đường này kìa chú, hay mình tấp xe vào đó hỏi han họ một chút đi chú. Xem họ sống ở nơi này như thế nào? Cháu rất tò mò là ở chỗ này thì làm sao họ có thể có đủ nhu cầu thiết yếu mà sống được. Chắc hẳn họ phải săn thú dữ lắm...

Mạnh gật đầu, cố gắng gượng nở nụ cười trên miệng. Nhưng thật ra lúc này anh đang thực sự cảm thấy rất đau đầu, bởi vì đã đến lúc anh phải giao ra tính mạng đứa con gái của mình cho mụ già kia.

Chiếc xe lăn bánh càng nhanh, thì căn chòi kia lại càng xuất hiện lớn dần. Tiếng gió hiu hiu thổi bên ngoài, vẻ đêm lặng ngắt như tờ khiến mọi sự chú ý đều nín lặng.

Tuấn mới đầu còn có vẻ hào hứng và hứng thú, nhưng bầu không khí rờn rợn dần bao chùm khiến nụ cười trên miệng Tuấn cũng phải dần tắt ngấm.

Giống như Tuấn, lúc này Thu Quyên con gái Mạnh chợt nũng nịu đến bên bố hỏi:

- Sao chỗ này con cứ cảm thấy ghê ghê thế nào ấy bố ạ, hay mình cho xe quay lại đường khác đi bố?

Cả đầu óc của Mạnh giờ này đã ong ong hết cả lên, anh không còn nghĩ được gì nữa cả. Anh chỉ vội vàng bịa ra một cái lý do lấp liếm nói:

- Đây là con đường gần nhất để mình đến điểm dừng chân tiếp theo rồi con, qua đây rồi mình có chỗ nghỉ chân ăn cơm. Con đừng sợ, đoạn sau sẽ có rất nhiều cảnh đẹp...

Thu Quyên run run nép sát thân người Mạnh lay lấy cánh tay anh nói:

- Vậy bố nhanh cho xe chạy qua chỗ này đi, căn chòi này ghê quá à!

Mạnh gượng cười nói:

- Được rồi, được rồi, bố cho xe đi qua đây nhanh thôi!

Mạnh nói xong thì liền nhấn tăng ga để phóng xe vượt qua căn chòi. Nhưng theo phản xạ, một lần nữa trong chớp nhoáng Mạnh lại nhìn vào trong căn chòi.

Một đôi mắt lồ lộ nhìn dõi ra cửa, nhìn xuyên vào trong xe. Vẫn là mụ già ấy, vẫn là hàm răng tởm lợm với nụ cười quái đản của mụ ta. Mụ ta ngồi lui cui một góc chòi như một con mèo hen, đung đưa cây đèn bão của mình theo nhịp gió.

- Ôi trời!

Cả đám trẻ vô tình lướt qua nhìn vào trong căn chòi, đều thảng thốt giật mình sợ hãi kêu lên.

Mạnh vờ hỏi:

- Có chuyện gì thế các cháu?

Đám trẻ thi nhau thanh minh:

- Vừa rồi cháu nhìn thấy trong căn chòi có người, là một bà già!

- Đúng vậy chú, là một bà già chú ạ, bà ta trông ghê lắm!

- Tởm lợm giống như quỷ thì đúng hơn...

Lũ trẻ nhìn nhau gật đầu khẳng định nói vậy.

Mạnh cười trừ lấp liếm cho qua:

- Thì người dân tộc đôi khi họ hơi lôi thôi một chút, có gì mà ghê hả các cháu. Trông họ tuy vậy thôi nhưng mà họ thân thiện lắm đấy!

Đám trẻ vẫn thi nhau bàn tán không dừng lại chủ đề của chúng. Chiếc xe phóng đi được một lúc vượt qua căn chòi, Mạnh tiếp tục cho xe chạy thêm độ ba mươi phút nữa rồi đột ngột dừng xe lại, rồi quay đầu nói với đám trẻ:

- Thôi, tất cả xuống đây nghỉ ngơi một lát rồi lại đi tiếp, đứa nào có đi vệ sinh thì đi luôn đi nhé!

Thu Quyên chợt níu tay Mạnh hỏi:

- Sao không đi tiếp đi hả bố, con thấy chỗ này ghê quá à?

Mạnh bẹo má Thu Quyên một cái yêu chiều, khóe mắt anh hơi đỏ nhưng vội vã giấu đi. Anh nói:

- Thì cũng phải dừng nghỉ một chút cho các bạn đỡ mệt chứ con. Con không cần phải sợ, chỉ nghỉ một lát thôi, có bố ở đây thì lo gì?

Thu Quyên hơi dè dặt một chút, nhưng rồi cũng gật đầu. Cô cùng với đám bạn đều xuống xe, Mạnh cũng bước chân xuống xe, nhưng anh lại nhìn quanh lũ trẻ một lượt, giống như đang làm thủ tục tiễn biệt chúng vậy.

Mạnh rỉ nước mắt một lúc, rồi cuối cùng cắn răng quay đầu chạy tức tốc lên xe. Đóng xầm cửa xe lại, lại vội nổ máy xe chạy thẳng.

Đám trẻ còn đang hứng thú hít khí trời, có người thì còn đang trêu đùa nhau, liền đồng loạt sững sờ trước hành động của Mạnh.

Tuấn là người đầu tiên cảm thấy kỳ lạ liền cất tiếng hỏi:

- Chú Mạnh, chú lái xe đi đâu vậy?

Mạnh không đáp, chiếc xe cứ thế quay đầu, vòng lại con đường cũ rồi mạnh ga phóng thẳng mịt mù bỏ lại đám trẻ.

Lúc này, tiếng kêu gào mới bắt đầu dần dần vang lên, tiếng gào khóc kinh khủng vì một sự thật tàn độc không thể tin nổi diễn ra trong mắt chúng.

Mạnh đã thực hiện một tội ác, một tội ác đáng ghê tởm. Chiếc xe lăn bánh chạy vụt qua căn chòi cũ, Mạnh dừng xe đỗ lại trước cửa căn chòi. Mụ già lẳng lặng đứng dậy, nhìn Mạnh và nhe hàm răng trắng ởn của mình ra nói:

- Món nợ của mày đã trả xong, mày có thể đi...

Nói rồi mụ quay đầu bước ngược trở lại căn chòi, rồi đóng sầm cửa lại. Thứ ánh sáng le lói duy nhất trong căn chòi cũng chợt phụt tắt ngấm.

Mạnh gạt nước mắt, trong âm thầm bắt đầu phóng xe trở về nhà. Anh đã đang tâm thả con gái mình và những đứa bạn của nó chết trong tay yêu tinh.

...

Mười ngày sau khi trở về nhà.

Vụ mất tích bí ẩn của hơn mười người đã bắt đầu rục rịch lan truyền. Và kẻ bị quy kết liên quan nhiều nhất chính là Mạnh, những vụ điều tra của cảnh sát đã đưa Mạnh ra vành móng ngựa. Thế nhưng cho dù có dùng cách nào, thì Mạnh cũng không hé răng nửa lời. Chỉ là một vụ tạm giam tạm thời, để truy tìm những đứa trẻ.

Ngồi trong gian nhà lao, Mạnh nghĩ về những tội ác mình đã gây ra mà còn cảm thấy bản thân bị dằn vặt gấp nhiều lần so với việc bị mụ già kia ám ảnh.

Anh xin cán bộ trại tạm giam những đầu sách kinh phật, đọc qua ngày để muốn tâm được xám hối.

Sau hôm ấy vợ của Mạnh vào thăm, trách anh hết nước:

- Anh nói thật đi, anh mang con bé đi đâu? Tại sao anh không nói một lời, có phải anh đã giết bọn trẻ và con bé rồi không? Con bé đáng thương thì có tội tình gì, một người cha như anh tại sao lại có thể tàn độc được như thế. Đồ cầm thú...

Vợ anh khóc, anh cũng khóc. Nhưng anh chẳng thể giải thích được chuyện này, vì có nói ra thì cũng không ai tin. Rằng anh không giết người, anh chỉ bỏ chúng ở lại đó, trên con đường của âm phủ...

Thêm một thời gian nữa, ngày ngày Mạnh đọc kinh phật nên cảm thấy lương tâm bị dằn vặt đã vơi đi nhiều. Cảm giác tội lỗi đã không còn ám ảnh quá lâu sau khi anh trở về cuộc sống bình thường.

Vì không có bằng chứng nào thuyết phục để luận tội, Mạnh được cho về nhà và quản thúc tại gia.

Vợ anh thì từ đó đã từ mặt anh, đem đứa con út bỏ ra sống riêng. Trong căn nhà biệt thự rộng lớn mà Mạnh tích cóp cả đời để xây lên, giờ chỉ có mỗi mình anh.

Giờ đây, trong âm thanh rả rích của thứ côn trùng, Mạnh không còn cảm thấy mình yêu thiên nhiên như khi xưa nữa, mà anh chỉ cảm thấy ghét cay ghét đắng chúng, giống như là một thứ vật gì đó cũ rích tởm lợm, ám ảnh chán ghét đến buồn nôn. Một gia đình hạnh phúc, giờ tan vỡ, một người cha hiền từ thành một kẻ cầm thú. Vì sao anh lại mắc phải một chuyện như vậy. Sau nhiều tháng dằn vặt, Mạnh bắt đầu tuy tìm ngọn nghành lý do trong những cuốn kinh phật mà anh sưu tầm được để xám hối.

Những cuốn kinh phật ngoài chuyện hướng thiện cho người ta, thì nó cũng có chỉ ra tên của các loài quỷ để tránh xa.

Và trong đó, có một loài quỷ liên quan đến sự trừng phạt, sẽ xuất hiện để trừng phạt những kẻ bội tín. Một yêu tinh canh cửa địa ngục, trừng phạt tội ác kẻ bội tín bằng cách tống khứ kẻ đó vào con đường vô tận – Hoàng tuyền lộ. Và bắt kẻ đó phải trao đổi khế ước với nó...

Nhưng kẻ đó cho dù trao đổi xong khế ước đi chăng nữa, cuối cùng cũng chỉ có thể phát hiện ra sự việc không thể chấm dứt, và rằng con yêu tinh đó là một kẻ lừa lọc. Không sớm thì muộn, sau cú lừa, con yêu tinh sẽ một lần nữa tái xuất hiện, đòi hết điều kiện này đến điều kiện khác. Cho đến khi kẻ bội tín không còn bất cứ thứ gì trong tay, dù là người thân hay gia sản thì đều trở nên tiêu tán hết. Cách duy nhất để chấm dứt ác mộng ấy, chỉ có thể là cái chết...

Mạnh đọc xong những dòng kinh nhắc đến loài quỷ này, liền thẫn thờ quỳ sụp xuống. Luật nhân quả là có thực, và kẻ bội tín sẽ bị sứ giả của diêm la vương trừng phạt.

Mạnh đã bội tín với ông Hậu, với cậu Thân, vơi tất cả những người đã chết trên đèo cả thân thiết. Những lý do bội tín thì kể ra nhiều không kể xiết, nhưng chung quy cũng là vì một tội ác phải trả giá khi Mạnh đã sống và làm người không ngay thẳng.

Con đường Hoàng tuyền lộ xuất hiện, vốn dĩ chỉ là một thứ đáng phải xuất hiện trong cuộc đời của Mạnh mà thôi. Đó là một sự trừng phạt, và giờ đây sự trừng phạt còn tăng lên gấp bội khi Mạnh đã chính tay dán tiếp hại chết nhiều người hơn nữa, trong đó có cả con gái của anh.

Buông tờ kinh phật xuống mặt bàn, Mạnh thẫn thờ nhìn ra ngoài vườn cây như một con người mất hồn.

Đúng lúc ấy, Mạnh liền có một loại cảm giác bất an bao chùm. Ngoài vườn cây một bóng người đen đúa chùm kín mặt đã lẳng lặng ngồi nhìn Mạnh ở đó từ rất lâu rồi.

Mạnh vừa nhìn thấy bóng người ấy, đã lập tức nhận ra ngay, người đó chính là mụ già trước đó. Lời kinh phật nói quả không có sai, sự trừng phạt sẽ không dừng lại. Yêu tinh vẫn tiếp tục xuất hiện...

Chớp mắt thêm một lần nữa, bóng người lại biến mất như chưa từng tồn tại. Mụ yêu tinh đó quả thật là một kẻ trơ trẽn, và là một con quỷ gian ngoan lừa lọc.

Mạnh đứng phắt dậy, anh không thể tiếp tục cam chịu cuộc sống như vậy thêm nữa. Kết thúc sinh mạng này, cũng đồng nghĩa với việc kết thúc cơn ác mộng. Trả giá cho sự bội tín và trả lại món nợ cho những người mà anh đã gây ra tội lỗi.

Mạnh vùng xuống bếp lấy mớ dây thừng, quăng lên chằng vô cái lan can tầng hai. Thò xuống một đoạn dây thừng lủng lẳng trên cao. Mạnh đã quyết định thắt cổ tự tử, chấm dứt sinh mạng của mình.

Anh thò đầu vô cái thòng lòng, miệng gào lên:

- Con quỷ chết tiệt, mày hại gia đình tao tan cửa nát nhà. Vậy thì tao chết đi để xem mày có thể làm được gì?

Nói xong, Mạnh định đạp cái ghế để tự tử luôn. Nhưng ở trong sâu thẳm con người của Mạnh, vẫn luôn tồn tại nỗi sợ hãi cái chết. Chính vì Mạnh sợ hãi cái chết, nên mới đánh đổi tính mạng con gái mình, vì sợ hãi cái chết mà tự thân đưa nó đến quỷ môn quan. Mạnh dùng dằng một lúc mà chẳng thể nào tự làm được, sau cùng Mạnh ngừng kiễng chân, chuẩn bị từ từ rút đầu ra khỏi cái thòng lọng. Vừa rồi chỉ là suy nghĩ lúc nóng nảy, Mạnh vẫn còn rất sợ chết.

Nhưng chính cái phút giây anh ngửa cổ định rút đầu ra khỏi cái dây thòng lòng ấy. Thì thình lình cái mặt tởm lởm của mụ già và thân người của mụ lủng lẳng đu trên sợi dây. Mạnh giật mình liền ngã chới với, quơ loạn đổ cái ghế chống dưới chân. Cái thòng lòng được dịp liền mau lẹ thít chặt vô cổ Mạnh. Một cảm giác nghẹt thở bao chùm, cái chết đã dần lan tràn đến.

Trong bóng đêm, gương mặt đung đưa gắn liền với thân người gầy trơ xương đang bám vô sợi dây thừng. Gương mặt mờ mịt dần dần lồ lộ rõ khiến Mạnh trước khi chết có thể nhìn được đó lại ai. Tim Mạnh thắt lại, cảm giác co thắt muốn vỡ tung, mạch máu bị dồn nén đến vỡ tan. Mạnh đã chết vì nhồi máu cơ tim, trước khi chết vì bị dây thừng làm nghẹt thở.

Cái khuôn mặt lồ lộ mà Mạnh nhìn thấy ấy, hóa ra không phải là của mụ già kia, mà lại là của Thu Quyên, con gái của anh...

Gió thổi những trang kinh phật, trang tiếp theo được lật qua, lộ ra những dòng chữ vàng chói: “Món quà được lựa chọn, vốn dĩ chính là yêu tinh...”

Ngạ Quỷ
 
Chương 3: Ma hốc củi


(Truyện ngắn nằm trong series truyện ngắn kinh dị Ma Rừng của tác giả Ngạ Quỷ)

Quãng thời gian lịch sử mà nhân loại đã trải qua, kéo dài vô số năm tháng. Cũng kèm theo đó là sự xuất hiện những tích chuyện hết sức ly kỳ mà mỗi một vùng đất đều tự tô vẽ thêm về sự huyền ảo của nó.

Rừng rú có lắm ma cỏ, người xuôi có những con ma chết oan uổng đội mồ sống lại để tìm kẻ ác đã reo rắc tội lỗi cho họ. Đi đâu cũng đều gặp những chuyện mang sắc màu đầy yếu tố tâm linh nên xuất hiện lắm kẻ sinh ra cái tục truyền miệng về những điều trong cõi huyền ảo.

Trong những câu chuyện được truyền miệng ấy, lại có thực có hư không biết rõ sao mà tả. Nhưng nếu nó đã tồn tại thì ắt hẳn là phải có nguyên nhân, hoặc chí ít ra thì kẻ đã bịa đặt ra những thứ ấy để thêm mắm thêm muối vào cho ly kỳ cũng phải nghe từ tai của một kẻ khác.

Kể đến đồng bằng thì có giống loài ma nước, ma da, ma thần vòng, ma gọi hồn… Mà vùng cao thì cũng có lắm loại ma rừng như ma cà rồng, ma thác đuối, ma hốc củi… Những loài ma này đều mang trong mình những đặc tính khác nhau, nhưng chung quy ra thì cái giống loài ma quỷ nếu đã còn trên nhân thế ắt hẳn đa phần sẽ quấy quả người sống theo cách của chúng. Quấy quả ở đây có thể hiểu theo nghĩa tốt, hoặc theo nghĩa xấu. Nghĩa tốt là dù chúng có chủ tâm hại người, nhưng sau cùng lại muốn thúc đẩy con người ta đi đến cái thiện để sửa đổi bản thân. Nghĩa xấu là chúng táng tận dùng thứ năng lực huyền bí để ám ảnh, để giết hại, hoặc chỉ là một thứ thói quen khi lúc chúng còn sống thường hay làm vậy, vô tình gây nên sự khó chịu cho người khác.

Nơi vùng cao tồn tại một loài ma quỷ thường xuyên gây nên sự khó chịu cho dân bản xứ. Chúng không có ác ý, nhưng đôi khi sự đùa nghịch một cách thái quá của chúng đã gây nên những tội ác đáng trách.



Bà Chắn dốc gánh củi địu lên lưng, rồi bàn chân bà nhanh thoăn thoắt đi theo lối đường mòn ở ven dốc đồi, chạy hì hục xuống dưới chân đồi để kịp về nhà trước khi trời tối.

Bà Chắn năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, vốn cũng đã nên nghỉ ngơi ở nhà với độ tuổi này. Bởi vì bà đã có con, có cháu. Con bà cũng ba mươi mấy tuổi đầu rồi, cháu bà thì cũng đã ngấp nghé sắp lớn cao bằng ngọn cỏ lau.

Nhưng bà không nghỉ ngơi, là bởi vì nhà bà nghèo. Con trai bà lấy vợ đã lâu mà chỉ sinh được đứa cháu gái, không có cháu trai khỏe mạnh để đi rừng thay bà. Con trai bà tên A Sinh, là một người đẹp trai khỏe mạnh trong bản.

A Sinh từ khi lấy vợ thì chẳng mấy khi ở nhà mà toàn xuống núi để đi làm thuê. Nhưng cũng chính vì A Sinh đi làm thuê, nên cuộc sống của gia đình bà mới không bị thiếu đói, không giống như hầu hết các hộ trong bản, chỉ quanh năm mùa rẫy nên không đủ ăn.

Sắc trời dần ngả sang màu vàng óng, rồi chuyển mỡ gà, lại đến đỏ au. Đấy chính là ánh hoàng hôn theo cách mặt trời lặn ở vùng này.

Ở đây người ta có tục thường tối kị không hay về muộn, đặc biệt là trời vào đêm thì họ sẽ không bao giờ băng qua rừng, lội qua suối. Họ cho rằng nếu họ làm như vậy là phải tội với thần rừng, sẽ bị ma rừng theo đuổi, phá hại.

Khi đêm xuống, nếu chưa kịp về bản, thì tốt nhất là nên tìm một cái chòi canh rẫy nào gần đấy, chui vào đó đốt lửa ngủ tạm. Nếu trốn trong chòi canh rẫy và có ánh lửa, lũ ma rừng sẽ không biết rốt cuộc trong chiếc chòi đó có bao nhiều người, vì vậy mà không dám giở trò trêu chọc.

Khi bà Chắn ở trên đỉnh đồi, cạnh mép rừng tre thì trời đã đổ mỡ gà. Và giờ đây khi bà xuống đến lưng chừng đồi, thì sắc mặt trời đã chuyển sang đỏ au. Vậy có nghĩa là đêm nay bà không còn kịp về nhà nữa. Vì từ lưng chừng đồi cho tới bản, đi cũng phải mất hơn một tiếng đồng hồ, có về kiểu gì cũng dính phải trời đêm.

Bà Chắn suy nghĩ hồi lâu, bèn gác bó củi để tạm qua một chỗ, rồi bắt đầu đảo mắt nhìn quanh tìm rẫy. Khu vực này đã là ở rất xa bản Cọ, vốn rất ít người sẽ tới đây để canh tác. Thế nhưng không hẳn là không có người làm nương ở đây. Qua sắc sáng nhá nhem của trời chiều muộn, bà Chắn có thể dễ dàng nom thấy cách đấy không xa, giữa một đám cây bụi um tùm có một cái chòi canh nương cũ kĩ. Cái chòi ấy ẩn nấp sau đám cây dại, rất khó mà nhìn thấy. Nhưng đối với một người đi rừng tinh tường như bà Chắn thì không khó để nhận ra nơi đó có một cái chòi.

Cái chòi cao độ đầu người, sàn cách mặt đất chỉ độ bảy mươi xen ti mét. Độ cao như thế chỉ để người canh nương tránh những loại dã thú nhỏ.

Bà Chắn không ngần ngại đi thẳng về phía ấy, dùng dao phát tạm đám cây bụi cho lộ ra một lối đường đi quang đãng. Cái chòi cũ kĩ dần lộ ra trước mắt bà. Gỗ chòi đã chuyển màu đen, trong chòi sực nức lên mùi nấm mốc rất khó chịu.

Cái chòi này hẳn là một cái chòi canh nương vào mùa, mà trước đây người chủ của nó đã dựng tạm lên. Chỉ có điều nhìn tình cảnh này thì bãi nương này đã bị bỏ hoang đến mấy mùa rẫy, bằng không đám cỏ dại cũng chẳng thể mọc tốt được đến như thế.

Giữa khu rừng vắng, lại có một căn chòi nghiễm nhiên đứng sừng sững, khiến cho người ta có cảm giác hơi u tịch. Cái màu đỏ au của bầu trời với cái sắc tối đen của không gian khiến người ta nhìn vào mà chỉ như muốn ngộp thở bởi những khung cảnh quá đỗi bí bách.

Bà Chắn mau lẹ mở cánh cửa gỗ, rồi chui tọt vào trong chòi. Lại đem mồi lửa ra nhóm tạm vài thanh củi. Gánh củi này vừa đủ để gia đình bà Chắn sống qua cái lạnh trong vòng một tuần. Vốn ra thì chỉ đi một hôm là có đủ củi, mà vẫn về kịp. Nhưng hôm nay cũng bởi vì bà Chắn vướng bận một chuyện nên thành ra mới về muộn như thế.

Chuyện là hồi chiều bà đi ngang qua con suối gần rừng nứa, bà phát hiện có một con nai đang bị mắc kẹt ở một cái khe đá dưới suối. Nó vùng vẫy cố thoát hồi lâu mà không được nên đã thấm mệt và nằm gục xuống mặt nước. Bà Chắn khi đi qua chỗ ấy thấy con nai bị mắc kẹt thì mừng lắm. Bà vụng về trèo ra chỗ khe đá nơi con nai bị mắc kẹt, tính lấy dây rừng buộc vào cổ nó. Rồi gỡ cho chân nó khỏi mắc kẹt. Lại đem nó về nhà thì cũng được một bữa thịt thơm ngon, còn có thể bán được chút tiền nữa.

Nhưng con nai đó quả thật là khôn lanh, ban đầu nó giả vờ ngoan ngoãn nằm im để bà Chắn gỡ cái chân bị mắc kẹt của nó ra khỏi khe đá. Rồi ngay sau đó, chỉ chờ khi thoát được cái chân ra là nó đã vùng lên lồng lộn chạy như bay. Bà Chắn cũng đã có tuổi, vốn sức khỏe cũng đã có phần giảm sút. Thế nhưng không chỉ vì lý do ấy mà bà làm vuột mất con nai. Mà lý do bà làm vuột mất con nai ấy là bởi vì quá đỗi bất ngờ trước hành động của nó. Nó vụt khỏi tay bà khiến cho bà ngã chới theo, đầu đập xuống mặt đá, máu chảy be bét. Cũng còn đỡ là trong cái rủi còn có cái may. Bà bị đập đầu vào đá nhưng không bị thương nặng, chỉ bị xước sát nhẹ sơ sơ.

Vì vừa vụt mất con nai đang tiến ngẩn tiếc ngơ nên bà Chắn cứ ngồi yên một chỗ như mất hồn một lúc lâu. Sau đó lại còn phải tốn thời gian đi tìm mớ lá nhai vụn đắp lên vết thương ở trán để cầm máu. Thành ra một buổi đi rừng lần này khiến bà Chắn bị lỡ mất giờ về sớm.

Giờ này ngồi trong căn chòi, bà chắn đem bã lá nhai vụn gỡ xuống để xem xét. Máu trên trán bà đã rịt hẳn không còn chảy nữa, nhưng vẫn còn rất đau. Bà Chắn ngồi tựa vào mép chòi làu bàu đi làu bàu lại trách cứ mình dại dột. Đáng lẽ ra bà phải nên cẩn trọng buộc một đầu dây vào một nơi chắc chắn, rồi mới gỡ cái chân bị mắc kẹt cho con nai.

Nghĩ đi nghĩ lại thì mọi sự dại dột cũng đã qua rồi, bà Chắn chỉ có thể ngồi đó than vãn mà thôi.

Bà Chắn rút từ đáy gánh gủi ra vài thanh củi nhỏ, chất thành đống cho ngay ngắn rồi cho mồi lửa đốt lên. Đêm tối ở nơi vắng vẻ, lại không chuẩn bị thêm đồ ăn để sẵn. Bà Chắn chỉ có thể ngồi ôm cái bụng đói đang sôi réo lên sùng sục, cố nhắm chặt mắt lại để ngủ. Mong sao giấc ngủ có thể xua tan đi được cái đói, cái lạnh.

Đêm vắng, tiếng động loẹt quẹt bên ngoài căn chòi cứ vang lên đều đều. Rồi dân dần chợt xuất hiện âm thanh như tiếng bước chân người tiến đến gần căn chòi. Nhưng những bước chân ấy lại chỉ dám lởn vởn ở bên ngoài chứ không dám tiến thêm. Tiếng thì thầm bàn tán xôn xao vang lên đều đặn như của người nói chuyện với nhau. Bà Chắn nghe thấy hết, nhưng vẫn giả vờ nằm im không hề phát ra một tiếng động, chỉ cố nhét thêm củi vào đám than để lửa cháy đượm thật to.

Một lúc sau, cái tiếng động thì thào ban nãy mới dần biến mất, tiếng bước chân cũng nhỏ hẳn và xa dần. Bà Chắn đoán rằng đó là lũ ma rừng, chúng đi tuần đêm và chỉ chờ có người nào lạc lõng là sẽ bắt mất hồn, đem hồn về xào huyệt của chúng ở trong núi để giết hại.

Lũ ma rừng ấy thường rất ác độc, chúng hành động tàn bạo và vi phạm những luân thường đạo lý của tự nhiên. Chúng là những kẻ chết oan uổng, những kẻ có tính cách lập dị vô tình chết, hoặc đôi khi cũng chỉ là những tay thợ săn chết bởi lũ lợn lòi hiện hồn lởn vởn xung quanh để dọa dẫm người.

Lũ ma rừng thường đi thành bầy thành lũ, chúng gặp kẻ bơ vơ thì sẽ dụ giỗ cho vào thác đá, cho tự u mê mà đập đầu vào đá chết đi để người sống nhập bọn với chúng. Còn khi gặp nhiều người đi cùng nhau, thì chúng không dám tiến lại gần. Vì khi ấy người ta có thể cảnh giác cho nhau, một kẻ u mê thì có thể sẽ được một kẻ khác cảnh tỉnh. Lũ ma rừng thường chỉ là những loại ma vất vưởng nên không có nhiều năng lực để có thể đem nhiều người cùng dụ giỗ. Vì lý do ấy, khi gặp một nhóm người đông ở lại rừng, chúng sẽ chỉ đi nhìn qua rồi bỏ đi. Giống như một cục xương khó gặm mà vẫn muốn nhìn ngắm một lần cho thỏa.

Lần này, chúng đi ngang qua căn chòi và có cảm giác là có người sống. Nhưng lại không rõ trong chòi có bao nhiêu người. Ánh lửa phát ra mạnh nên mắt của loài ma rừng bị lóa. Thế nên vì không đoán biết được, vừa rồi bọn chúng cũng chỉ dám lượn lờ một chốc quanh căn chòi rồi bỏ đi ngay.

Bà Chắn nghĩ lại, thường ngày bà vẫn hay đem những chuyện này kể lại cho đứa cháu gái nhỏ nghe. Nhưng bà cũng chỉ muốn dọa nạt nó, chứ đời bà chưa bao giờ gặp phải chuyện ấy. Vậy mà đêm nay chính tai bà đã nghe thấy lũ ma rừng bàn tán với nhau, lại còn ở trong chính cái tình cảnh mà lúc nào cũng có thể bị chúng bức hại.

Bà Chắn cố nhắm mắt lại, mong sao trời đêm có thể mau chóng trôi qua để bà còn có thể về nhà. Thi thoảng, ở bên ngoài căn chòi, lũ ma rừng lại có lượn lờ quay lại, nhưng cũng một chốc rồi lại bỏ đi ngay. Những khi ấy, bà Chắn phải nhanh trí dụi củi cho lửa cháy thật to để dọa cho chúng sợ, rồi mới dám ngủ tiếp.

Đến sáng, bà Chắn vẫn đang trong tình trạng mơ mơ màng màng. Khi tia nắng mai đầu tiên chiếu rọi xuống, là bà Chắn đã ngồi dây và thu lượm lại hết chỗ củi còn thừa lại đêm qua để đem về nhà. Chỉ qua một đêm thôi mà số lượng củi bà Chắn đốt mất đã kha khá. Bà đang nghĩ ngợi xem mình có nên quay lại rừng nứa một lần nữa để lấy thêm củi. Nhưng khi bà bước ra khỏi căn chòi, bước xuống mặt đất thì bà đã nom thấy có một gánh củi sẵn ở đó dựa sát vào mép chòi.

Bà Chắn reo lên:

- May mắn cho tôi rồi!

Bà không nghĩ ngợi liền đem bó củi đó hợp với bó củi của mình, tạo thành một bó lớn. Bà địu gánh củi trên lưng rồi phăm phăm bước theo lối đường mòn ở sườn đồi về bản.

Dẫu vậy, bà Chắn chẳng biết rằng, ngay từ cái lúc ấy, bà đã vô tình đem về nhà một thứ sinh vật huyền bí, một loài ma rừng ám ảnh gia đình bà trong suốt một thời gian dài.



Bóng dáng bà Chắn lẩn khuất ở đầu con đường mòn tiến vào bản Cọ. Một cái thân người nhỏ thó chạy nhanh thoăn thoắt từ trong một căn nhà gỗ, chạy về phía bà Chắn reo lên nói:

- A bà về, bà có bắt được con chim nào cho cháu không? Con chim rừng?

Thân người ấy chính là đứa cháu gái của bà Chắn, nó tên A Nụ. A Nụ nhiều lần cứ nhắc đi nhắc lại với bà Chắn, dặn bà đi rừng là nếu bắt được chim rừng ngủ gật thì phải đem về cho nó. Nó lần nào cũng vậy, chỉ cần bà Chắn đi về từ đầu bản là nó sẽ đem chuyện này ra để hỏi trước tiên. A Nụ thích mấy con chim cu gáy, mấy con sáo đá…

Bà Chắn mỉm cười, xoa đầu A Nụ rồi nói:

- Bà không bắt được con chim rừng nào cháu à, nhưng sâu nứa thì chắc có.

Bà Chắn nói xong thì liền trỏ vào một đám nứa còn non xanh, lẫn trong đám củi khô mà bà mang về. Ở trong đám nứa non xanh ấy, thường hay có một loài sâu trắng rất lành, có thể ăn được. Sâu trắng vừa bổ vừa ngậy nên ai cũng thích.

A Nụ đang buồn rầu vì bà Chắn nói không bắt được chim ngủ gật, mà nghe đến sâu nứa thì liền tươi tỉnh ngay. Nó reo lên:

- Thích quá, lần nào bà đi rừng về cháu cũng được ăn sâu nứa. Sâu nứa rừng bản cọ mình là tuyệt nhất!

Đứa trẻ tung hô liền hồi, bà Chắn cũng gật gù rồi lật đật chui vào nhà đặt gánh củi xuống đất. Rồi lọc ra những cây nứa xanh non mơn mởn. Bắt đầu chẻ nứa tách đốt nứa để tìm sâu. Những con sâu nứa trắng ngà, trốn trong hốc nứa, ngọ nguậy qua lại liên hồi. Chúng chỉ ăn nứa nên cũng có một mùi thơm rất đặc trưng. A Nụ chẳng chờ chế biến, mà vừa thấy một con sâu nứa được bóc tách ra từ tay bà Chắn là đã bỏ tót con sâu đó vào trong miệng, mắt lim dim như đang hưởng thụ một thứ cao lương mỹ vị nào đó vậy.

Đang trong lúc tách nứa lấy sâu cho A Nụ ăn, thì từ phía cánh cổng tre ngoài vườn, có tiếng huyên náo rộn quanh. Tiếng chó sủa râm ran nhiễu loạn như đang tức tối một điều gì đó cứ vang đều. Một cái dáng người cứ hao hao cao gầy dần xuất hiện, đi đứng loạng choạng, tay cầm cái tẩu thuốc đang không ngừng rít nhả ra khói trắng.

Người đó chính là A Sầu, là con rể của bà Chắn. Cả nhà A Sầu đã mất vì trận bệnh dịch, chỉ còn mỗi hắn còn sống. Nên sau khi lấy vợ thì hắn không ở nhà, mà cũng chuyển đến nhà vợ ở luôn.

Vợ A Sầu là Mủa Lý, cũng là con gái bà Chắn, là em gái A Sinh. Mủa Lý đảm người mà A Sầu ngày trước cũng nổi tiếng là người săn giỏi. Cả hai người vốn là một đôi tình lữ rất đẹp mà nhiều người đều ngưỡng mộ trong bản. Chỉ là sau này, A Sầu đi xa nhiều nên bị dụ dỗ vào thuốc phiện. Từ một người khỏe mạnh đầy sức vóc, A Sầu giờ này chỉ còn lại cái vóc người khô cong không còn sức sống.

A Sầu lúc nào cũng cầm chặt khư khư cái tẩu thuốc. Hắn giờ không đi trồng lúa nữa, mà chỉ trồng thuốc phiện để hút. Thi thoảng thì lên rẫy để trích lấy nhựa đem bán xong lại về. Tiền bán nhựa cây thuốc phiện, A Sầu để vào bài bạc với bọn lêu lổng trong bản hết.

Thế nhưng mặc dù A Sầu không bao giờ chăm lo đến gia đình, không làm nương làm rẫy cùng vợ, mà chỉ chăm chăm tối ngày hút thuốc phiện bài bạc. Hắn cũng không bao giờ lấy từ nhà một xu, cho dù là thứ đồ thứ đạc gì của nhà vợ hắn vẫn để nguyên vẹn, đủ thấy hắn vẫn còn nhân tính. Ngay cả cái đồng bạc trắng là lễ bà Chắn tặng hắn khi hắn về nhà vợ ở rể, vốn là của hắn, mà hắn bài bạc cũng không dám lấy đến.

Thấy A Sầu chếnh choáng bước về nhà, bà Chắn lập tức thúc giục A Nụ vào nhà lấy giúp hắn chút nước cho hắn uống. Giờ này Mủa Lý không có ở nhà, và đã lên nương, phải đến tối mới về.

A Nụ chạy ra đưa cho A Sầu cái gáo nước lạnh. A Sầu uống ực một hơi hết sạch, rồi lại chui vào trong nhà nằm lên giường ngủ say như chết.

Bà Chắn tách hết đám nứa non xong, lại đem củi xếp gần khoanh bếp. Rồi nhanh chóng đi làm những việc lặt vặt trong nhà, trưa đến thì nấu cơm cho A Nụ ăn.

Tối đến, khi trời mới nhá nhem mỡ gà là đã thấy cái bóng dáng Mủa Lý thoăn thoắt xuất hiện ở đầu bản.

Độ đâu năm phút sau, cả A Sinh cũng xuất hiện, sau lưng anh là vợ của mình. Vợ A Sinh là Mủa Tình, là người cùng bản Cọ. Mấy năm trước vì để cưới Mủa Tình, A Sinh đã phải bán con lợn duy nhất trong nhà để thách cưới mới lấy được Mủa Tình.

Mủa Tình đảm đang tháo vát lắm, lại hay buôn ở chợ huyện nên cũng có nhiều tiền. Mà A Sinh cũng đi làm thuê ở huyện, thành ra trong bản thì gia đình A Sinh là gia đình có nề nếp và tính ra là có của nhất.

Thấy bố mẹ và cô về, A Nụ vui lắm. Tối ấy cứ tíu tít như con chim họa mi nói suốt đêm. A Sinh nhìn con thì chỉ cười và xoa đầu, nhớ lại hồi bé A Sinh cũng ngây thơ như vậy. Nhưng lớn rồi thì có nhiều chuyện phải suy nghĩ, cũng không còn được hồn nhiên như con trẻ nữa.

Thấy A Sầu vẫn đang ngủ, A Sinh không tiện đánh thức hắn ta dậy. Cả nhà chỉ ăn cơm cho nhanh xong rồi đóng cửa cài then đi ngủ sớm.

Hôm nay đã bắt đầu vào mùa xuân, ngày mai trong bản sẽ tổ chức rất nhiều trò chơi vui để chào đón mùa xuân. Chính vì lý do ấy nên Mủa Tình và A Sinh mới đồng thời về nhà vào lúc này.

Khi đến giữa buổi đêm, những người trong nhà đều đã ngủ say hết thì A Sầu chợt tỉnh lại. Hắn bỗng khát nước, khát một cách ghê gớm và cảm thấy rất đói.

Biết hắn thường hay thức dậy vào lúc khuya, nên Mủa Lý đã để phần sẵn cơm nắm cho hắn ở dưới bếp. A Sầu theo thói quen lại chạy xuống bếp để ăn cơm, gã vừa uống nước vừa ăn cơm mà nhai nhóm nhém rất đắc ý.

Ăn xong, cơn thèm thuốc của hắn chợt ập đến. A Sầu nghĩ ngay đến cái tẩu hút thuốc của mình. Hắn mon men tới gần cái giường lúc trước hắn nằm, cái giường trơ trọi chẳng có một thứ gì mà chỉ có duy nhất một cái gối. A Sầu mò ở dưới gối cố tìm cái tẩu thuốc, nhưng lạ thay là hắn tìm mãi tìm mãi mà chẳng thấy cái tẩu thuốc của hắn đâu cả. Cái tẩu thuốc của hắn đã đi đâu mất rồi? Hắn tự hỏi mình như vậy.

A Sầu cố tìm đi tìm lại thêm một lần nữa. Sau cùng gã cũng chẳng tìm được, cơn thèm thuốc lại ập đến khiến A Sầu mụ mị, hắn gào rú kêu lên:

- Trời ơi, nó lấy mất cái tẩu của tôi rồi!

Tiếng A Sầu vang thất thanh giữa đêm, kêu gào thảm thiết cứ như ai đang đánh đập gã, miệng gã thì cứ trào ra thứ nước rãi mà không sao ngừng lại được.

Tiếng kêu gào rú của gã, dường như ngay lập tức đánh động khiến cho A Sinh, Mủa Tình, Mủa Lý đồng loạt thức dậy. Bà Chắn cũng cố dụi mắt nghển cổ lên nhìn xem có chuyện gì xảy ra.

A Sinh đi xuống giường, mở to mắt cho tỉnh táo, đi đến trước mặt A Sầu mà gặng hỏi:

- A Sầu, mày làm sao thế?

A Sầu khóc hết nước mắt rãi bày nói:

- Nó lấy mất cái tẩu của tôi rồi, cái tẩu tôi mất hai mùa nương trồng thuốc phiện thì mới mua được, giờ cũng đã mất rồi, quân ác độc.

A Sầu vừa nói vừa gào lên, còn gào thẳng vào mặt A Sinh cứ như khẳng định A Sinh chính là kẻ đã trộm mất cái tẩu thuốc của mình.

A Sinh hơi tỏ vẻ tức giận nhưng vẫn bình tĩnh nói:

- Mày im mồm đi, chắc nó chỉ ở quanh đây thôi. Mày tìm kĩ đi rồi sẽ thấy!

A Sầu lắc đầu nói:

- Không tìm thấy đâu, không tìm thấy đâu. Nhất định là con Mủa Lý nó muốn tôi bỏ thuốc phiện nên đốt mất cái tẩu của tôi rồi!

A Sầu nói xong liền vùng vằng đứng dậy, xông thẳng vào trong nhà túm lấy áo Mủa Lý rồi quát lên:

- Cô nói đi, có phải là cô đã đốt mất cái tẩu của tôi rồi hay không?

Mủa Lý hoảng sợ xua tay nước mắt rơi đầy mặt không nói được câu nào, cũng không biết trả lời sao cho vừa lòng A Sầu. Đang trong lúc A Sầu quát nạt tra hỏi vợ như thế, thì chợt một tiếng thét thất thanh khác kêu lên:

- Trời ơi, tiền của tôi!

A Sinh nghe ra đó chính là tiếng của Mủa Tình, liền chạy vào trong nhà đến nơi Mủa Tình nằm. Thì thấy nét mặt cho đang thảng thốt, vẻ mặt xám ngắt. Một tay cô sờ dưới gối, tay còn lại loạng choạng như đang muốn tìm thứ gì đó khắp nơi.

A Sinh vội vàng hỏi:

- Mủa Tình, tiền làm sao rồi?

Mủa Tình lúc này cũng rơi nước mắt nói:

- Hơn mười triệu em để dưới gối, để sang xuân nhà mình mua xe máy, giờ cũng mất rồi!

A Sinh khi này mặt cắt không còn giọt máu, nét mặt sa sầm quay sang nhìn A Sầu gào lên:

- Mày im ngay đi, tao cũng bị mất tiền đây. Cái tẩu thuốc của mày có bằng mười triệu của tao không?

Thế nhưng A Sầu vẫn không dừng lại, vẫn cứ tra hỏi Mủa Lý không dứt. Mủa Tình khóc nức nở, một lát sau vẻ mặt chợt chuyển oán độc nói với A Sinh:

- Thôi rồi, nhất định là thằng A Sầu nó lấy tiền, nó đem đi đánh bạc hết. Nó giả vờ làm mất cái tẩu thuốc để mình không nghi ngờ gì đấy thôi.

A Sinh nghe Mủa Tình nói như thế thì cũng cảm thấy có lý, anh liền đi tới gần A Sầu, xốc cổ áo hắn lên và quát:

- Tiền của tao đâu?

A Sầu sức yếu như con mèo hen, bắt nạt Mủa Lý thì còn được. Chứ còn như A Sinh làm việc nặng cả ngày lại cơ bắp cuồn cuộn thế kia thì gã không sao chống nổi. Bởi thế cho nên khi nãy gã nghi là có người trong nhà lấy cái tẩu của gã, nhưng cũng chẳng dám động nói đến là A Sinh, là Mủa Tình, mà chỉ dám động đến vợ gã là Mủa Lý mà thôi.

A Sầu khúm núm run giọng nói:

- Tiền nào, tôi nào có biết anh chị có tiền nào. Sao lại hỏi tôi? Tôi cũng đang chết giở vì bị mất cái tẩu thuốc đây!

A Sinh vung một cú đấm như trời giáng vào mặt A Sầu, rồi ném gã xuống đất nói:

- Lời của con nghiện mà cũng đáng tin hay sao? Nhất định là mày đã lấy trộm, rồi còn giả vờ làm mất tẩu. Giờ thì có đem tiền ra đây không, hay là chơi bạc hết rồi?

A Sầu suýt xoa thanh minh nói:

- Tôi vừa mới dậy, mà đêm nay anh chị mới về. Dù có biết là anh chị có tiền tôi cũng chẳng kịp tiêu, đời nào mà lấy trộm.

A Sinh khẳng định ngay:

- Thế thì nhất định là tiền vẫn còn ở trong nhà này rồi, mọi người tìm đi!

A Sinh nói xong liền hối thúc người nhà, lại đích thân xắn tay áo đi tìm khắp nhà. Mà đặc biệt là lại tìm kĩ chỗ mà A Sầu nằm, A Sinh khẳng định là chỉ có A Sầu lấy bọc tiền mà Mủa Tình giấu dưới gối. Mà tiền có hay để ở đâu thì chỉ có người trong nhà biết, A Sầu chính là kẻ đáng nghi nhất.

Mọi người hì hục lật tung khắp nhà lên, nhưng tìm mãi tìm mãi mà chẳng thấy gì cả. Mủa Tình thì từ lâu đã rũ hết cả người không còn thiết tha gì nữa. Mười triệu đó là số tiền cô tích góp cả năm trời để chờ đến dịp xuân này về bản, có thể sắm được xe máy cho chồng đi cho đỡ khổ, vậy mà giờ cũng mất.

A Sầu vì bị A Sinh quát nạt, nên trong chốc lát gã cũng quên ngay cái chuyện liên quan đến tẩu thuốc. Giờ này gã chỉ sợ A Sinh mà không tìm ra tiền, mọi chuyện sẽ trở thành như thế nào?

A Sinh sau cùng không tìm thấy tiền thật, anh quay sang lại túm lấy cổ A Sầu mà gào lên:

- Mày nói đi, mày giấu tiền của tao ở đâu?

A Sinh mặc dù quát A Sầu, nhưng chính anh cũng phải rơi nước mắt. Số tiền ấy là Mủa Tình vất vả tích góp cho anh mua xe máy đi làm, giờ đã không cánh mà bay. A Sinh không thể nghĩ được là có ai khác trong căn nhà này có thể lấy được tiền ngoài A Sầu, chỉ có A Sầu nghiện ngập, A Sầu bài bạc thì mới lầy tiền của A Sinh mà thôi.

A Sầu khóc hết nước mắt nói:

- Tôi trước nay dẫu có bài bạc, có thuốc phiện. Nhưng tiền của nhà tôi không động đến một đồng. Tiền đánh bạc là từ tôi trích nhựa thuốc phiện đem bán, thuốc phiện cũng là do tôi trồng. Tôi lấy tiền của anh làm gì?

Nói xong, A Sầu tay còn run run lôi ra từ trong áo ngực một đồng bạc trắng rồi thanh minh:

- Đây này, đồng bạc trắng mẹ cho tôi kể từ khi tôi về ở rể vẫn còn nguyên đây này, cũng đâu có mất vào bài bạc!

Nhưng A Sinh không tin, A Sinh không phải là một người thông mình, mà chỉ hành động theo cảm tính. Anh quát lên:

- Đủ rồi, nuôi mày trong nhà quả là một tai họa. Mày cút đi, từ giờ nhà họ Sùng không còn A Sầu. A Sầu cũng không còn là ma của nhà họ Sùng khi chết đi nữa!

Nói xong, Anh Sinh túm cổ ném A Sầu ra ngoài rồi đuổi đi không dứt. A Sầu loạng choạng chạy ở đầu đường không dám quay lại, miệng hắn vẫn liên tục chối cãi rằng không phải gã lấy tiền của nhà.

Bà Chắn thấy A Sinh tức giận như vậy thì cũng không tiện chen vào, chỉ chờ để ngày mai khi A Sinh nguôi giận rồi mới từ từ khuyên bảo.

Còn Mủa Lý thì ra đứng ở bậc thềm cửa, nhìn ra ngoài đường mòn, nhìn theo bóng A Sầu biến mất vào màn đêm mà cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ.

Bà Chắn lại đến gần vỗ về Mủa Lý:

- Đợi mai thằng Sinh nó nguôi giận, rồi con đi tìm chồng con về. Chắc nó lại bài bạc một vài hôm thôi, không sao đâu!

Mủa Lý rơm rớm nước mắt nói:

- Nhưng anh ấy đi giữa trời đêm thế này, con sợ anh ấy bị con ma rừng bắt mất!

Bà Chắn cười, vuốt tóc Mủa Lý nói:

- Mạng A Sầu lớn lắm, nhiều đêm toàn nửa khuya nó mới về mà đâu có bị ma rừng bắt, ma rừng kiêng nó rồi.

Kể ra thì bà Chắn cũng quả thật lo sợ A Sầu sẽ bị giống như những lời mà Mủa Lý nói, nhưng bà vẫn phải viện ra lý do để giúp cô bình tĩnh. Vì dù sao Mủa Lý có lo lắng cũng chẳng còn ích gì. A Sầu đã bị A Sinh đuổi ra khỏi nhà rồi.

A Sinh khi này cũng bớt giận, hòa hoãn ngồi xuống cạnh Mủa Tình hỏi:

- Thế tiền nhập hàng mới có còn đủ để bán không?

Mùa Tình gật đầu buồn rầu nói:

- Đủ bán, nhưng cũng hơi khó khăn.

A Sinh vỗ vỗ vai vợ rồi trấn an cô:

- Anh còn ít tiền vẫn chưa bị mất, nếu cố gắng làm mấy tháng nữa thì chắc vẫn mua được xe máy thôi. Nói xong, A Sinh lại rút ra một ít tiền độ khoảng vài triệu đưa cho Mủa Tình. Mủa Tình ngỡ ngàng nhận lấy, cũng dần dần cảm thấy vui vẻ vì ít ra cô vẫn chưa mất tất cả.

Mủa Tình cầm tiền rồi, lần này không dám để dưới gối nữa, mà cất hẳn vào trong người, lại để chỗ kín đáo để giữ tiền.

Mọi người trong nhà một lúc sau cũng dần tự động về giường của mình và ngủ tiếp. Riêng A Nụ thì vì còn bé nên ngủ say như chết, không biết những việc vừa mới trải qua.

Sớm hôm sau, mọi người thức dậy rất sớm để làm bánh dày đen. Loại bánh thơm ngon mà chỉ mỗi dịp xuân về thì A Sinh mới cất công đem giã cơm cho chuyễn mà thành. Loại bánh này làm rất kì công, phải làm mất cả ngày thì mới được bốn chiếc bánh.

Đến tối, thì mọi người ăn qua loa xong, nói chuyện một chút. Bà Chắn vừa đem bốn cái bánh dày đen đặt lên ban thờ tổ tiên vừa khấn vái. Còn A Nụ thì đang ngơ ngác ngồi dưới, liếm mép chờ đến giờ hương tàn là có thể được ăn bánh dày đen.

Khi này A Sinh ngồi ngay ngắn, đem một bọc tiền ra đặt trước mặt bà Chắn khẩn khoản nói:

- Đây là tiền công mùa này của con, cũng chỉ có vài trăm lẻ. Mẹ cầm lấy mua thóc mua gạo nuôi A Nụ lúc chúng con vắng nhà.

Bà Chắn xua tay nói:

- Thôi bọn con vừa mới mất tiền, bọn con cứ giữ lấy để mà làm vốn. Mẹ vẫn còn tiền từ mùa trước, các con không phải đưa đâu.

A Sinh cười, lại giở bọc tiền ra. Trong đó toàn là tờ mười nghìn, hai mươi nghìn. A Sinh chia ra làm đôi rồi lại nói tiếp:

- Vậy mẹ cầm lấy một nửa cho vợ chồng con vui.

A Sinh lại chìa bọc tiền đến trước mặt bà Chắn.

Đến lúc này bà Chắn không từ chối được đành phải cầm bọc tiền cất đi. Số tiền hơn trăm nghìn này không tính là nhiều, nhưng cũng đủ để mua gạo cho bà và A Nụ ăn suốt một mùa rẫy. Còn về thức ăn thì kiếm rau rừng, thú rừng mà bổ sung… Thi thoảng bà Chắn cũng có thể bắt được con dúi to, cũng đủ để hai bà cháu cải thiện. Thịt dúi không nấu hết trong canh thì có thể làm được thịt khô, cũng có thể ăn dè đến cả tháng trời.

Nhìn bà Chắn cầm tiền, A Sinh hạnh phúc không nói lên lời. Bếp lửa vẫn cứ lách tách kêu lên, mọi người trong nhà lại tiếp tục lên giường đi ngủ. Đêm nay sẽ là một đêm dài và mọi người trong nhà sẽ còn gặp phải nhiều điều tai ương đáng sợ.

Nửa đêm, trong gian bếp có tiếng động lạch cạch của xoong nồi, tiếng kêu tuy chỉ rất nhỏ thôi. Nhưng đối với một người thính tai như bà Chắn, không chuyện gì có thể thoát được trong căn nhà này.

Bà nhổm dậy, nhìn thấy Mủa Tình, A Sinh, A Nụ vẫn còn đang ngủ say. Mủa Lý cũng đang thiêm thiếp trên giường, mọi người trong nhà đều có mặt đủ cả. Vậy là ai đang ở dưới bếp gây ra những tiếng động kia? Không lẽ là A Sầu? A Sầu đã về rồi sao?

Bà Chắn nghĩ vậy, liền lập tức đi xuống bếp, cẩn trọng cố không phát ra tiếng động để nhìn xem là ai, là thứ gì đã gây ra thứ tiếng động mà bà nghe thấy.

Khi bà đi đến gian bếp, cái tiếng động sột soạt vẫn không ngừng vang lên, đều đặn dai dẳng, như một con chuột đang tỉ mẩn gặm nhấm một thứ gì đó.

Bà Chắn bước đến gần, càng đến gần thêm nữa cái cửa bếp. Tiếng âm thanh khi nãy còn nhỏ giờ này đã vang rõ mồn một.

Bà Chắn không chờ thêm nữa, đã trực tiếp quát to:

- Ai đấy?

Rồi xông thẳng vào trong gian bếp. Nhưng mà vào đến nơi, thì và chỉ còn thấy xoong nồi đang vương vãi đầy đất, hộc gạo cũng đã vơi quá nửa mà chẳng thấy bóng dáng một ai.

Khi này A Sinh từ trên nhà tỉnh giấc vì tiếng quát của bà Chắn, liền chạy xuống gian bếp. Nhìn thấy bà Chắn đứng chết lặng ở đó, A Sinh hỏi:

- Mẹ làm sao thế?

Bà Chắn cố gắng dụi mắt như không tin, gian bếp kín như thế thì cái người ngồi trong đó chạy đi đâu được. Bà níu lấy tay A Sinh rồi kể lể:

- Rõ ràng khi nãy mẹ còn nghe thấy tiếng động ở dưới này, như có người còn đang ăn vụng ở dưới bếp cơ mà, nhưng mà đến khi mẹ quát lên chạy vào thì không thấy có ai cả.

A Sinh nhìn quanh một lượt, thấy đồ trong bếp vương vãi thì liền khẳng định ngay:

- Thôi đúng rồi, là A Sầu về nhà rồi, chính nó làm ra chuyện này chứ không phải ai khác. Cái mâm bát rơi vãi kia, cũng là số thức ăn và cơm mà Mủa Lý thường chuẩn bị cho nó. Thằng này không tha được rồi, từ giờ cứ thấy mặt là con sẽ đánh nó ngay…

Nhưng bà Chắn gạt đi, bà nói:

- Mẹ nghĩ không phải là A Sầu đâu, vì A Sầu gầy gò ăn yếu lắm. Con nhìn xem đi, bát thức ăn nó ăn sạch bay, cơm cũng chẳng còn một hột. Mà hộc gạo cũng vơi đi quá nửa, người nào mà lại còn có thể ăn khỏe được như thế?

A Sinh nhất quyết nói:

- Thì nó trốn con cả ngày nên đâm ra đói mới ăn nhiều như thế, lại sợ con đánh nên nó tính lấy trộm nửa số gạo nhà mình đem lên rẫy để nấu ăn đấy thôi. Để mai con nói Mủa Lý lên rẫy tìm nó xác mình chuyện này là rõ ngay.

Bà Chắn gật đầu tạm cho là thật, bởi lẽ thì chỉ có sự suy đoán ấy của A Sinh mới hợp tình và hợp lý mà thôi. Chứ một người nào có thể ăn được nhiều đến như thế.

A Sinh quay lên nhà, lại vô ý liếc qua cái ban thờ một cái thì liền sửng sốt phát hiện, bốn chiếc bánh dày đen đã không cánh mà bay. A Sinh tức lắm, nghĩ nay chuyện này chỉ có thể là do A Sầu làm ra mà thôi. Nhưng thôi cũng chỉ là bốn chiếc bánh dày, A Sinh đành cố nén giận. Ngày mai A Nụ thức giấc không thấy bánh dày hẳn là sẽ khóc toáng lên cho mà xem.

Mà khi này Mủa Tình cũng chợt thức giấc vì tiếng động nói chuyện của A Sinh với bà Chắn. Theo thói quen cô lại sờ đến cái bọc tiền giấu trong người. Đang trong lúc nửa mơ nửa tỉnh, Mủa Tình cứ sờ mãi sờ mãi mà không thấy bọc tiền đâu. Cô lập tức phát hoảng bừng tỉnh hẳn, cũng quên hẳn cơn buồn ngủ. Toát mồ hôi sờ nắn khắp người. A Sinh vừa bước vào đã thấy Mủa Tình có hành động lạ như vậy thì liền hỏi:

- Mủa Tình, em sao thế?

Mủa Tình lại khóc hết nước mắt nói:

- Trời ơi cái số tiền cuối cùng của vợ chồng mình, tiền hôm qua anh đưa em, nó cũng không cánh mà bay rồi mình ơi!

Tiếng Mủa Tình kêu gào, đánh động cả Mủa Lý thức dậy, nhưng cô không dám ngồi dậy vì ngại. Vì không muốn đối diện với chị dâu, sợ chị dâu lại nhắc đến chồng mình.

Bà Chắn cũng vừa từ ngoài nhà bước vào, nghe thấy chuyện này thì liền hối thúc lại Mủa Tình nói:

- Con thử gắng tìm kĩ lại xem, làm sao mà lại mất được?

Mủa Tình thanh minh:

- Con đã cố giấu vào chỗ kín, vậy mà lần này vẫn mất được, tìm không thấy mẹ ơi!

A Sinh mặt đỏ bừng bừng, anh tức giận quay đầu đi ra khỏi nhà, chạy xuống gian bếp đốt đuốc.

Bà Chắn hoảng sợ liền hỏi:

- A Sinh, mày đi đâu?

A Sinh trả lời:

- Con lên rẫy, con phải tìm A Sầu, trước khi nó dùng hết số tiền đó của con nướng vào canh bạc. Con phải đánh chết nó, nó không còn mang tính người nữa rồi.

A Sinh nói xong phăm phăm bước đi. Bà Chắn cố gào nói theo:

- Trời đang đêm như thế này, mày không sợ ma rừng nó bắt à? Quay lại ngay cho mẹ…

Có tiếng A Sinh vang văng vẳng đáp lại ở cuối đường:

- Thằng A Sầu nó đi đêm được, không nhẽ con lại không đi đêm được. Mẹ đừng lo…

Rồi từ đó tiếng A Sinh im bặt hẳn, ánh đuốc cũng mờ dần ở cuối đường. Bà Chắn ngồi thụp xuống nghĩ ngợi, trong lòng lo ngay ngáy. Mủa Tình cũng bồn chồn không yên, cứ đi qua đi lại. Khi vừa nãy chính cô cũng tức giận, mà giờ này lại lo lắng cho A Sinh nhiều hơn. Bởi vì tiền thì còn có thể kiếm lại được, nhưng nếu người bị ma rừng bắt đi thì sẽ không bao giờ còn quay lại nữa. Mủa Tình hối hận không thôi, đáng lẽ ra lúc ấy chỉ cần cô nói một câu trấn an chồng. Thì A Sinh cũng không vì tức giận mà đâm đầu vào chỗ nguy hiểm như thế…



A Sinh chạy phăm phăm trong đêm, thi thoảng bên đường mòn leo đồi, có vài cái bóng đen lẩn khuất, có tiếng thì thào bàn tán không dứt. Có có những cái bóng đen đang tiến dần về phía A Sinh. Nhưng A Sinh không sợ, A Sin biết đó là lũ ma rừng, chúng nhìn thấy anh đi nghênh ngang đi vào rừng để lên rẫy nên mới muốn bắt anh.

A Sinh mặt đằng đằng sát khí, bước chân gõ xuống đất nặng như thép đá. Lâu dần khiến cho những cái bóng đen lẩn khuất trong những lùm cây sợ hãi không dám lại gần. Vì chúng biết tâm trí A Sinh kiên định, lại còn gan dạ nên không dám làm gì. Hơn nữa ánh đuốc quá chói, lại càng làm chúng lóa mắt không dám làm gì A Sinh.

A Sinh cứ đi như thế cho đến khi thoát khỏi bìa rừng, đi đến tầng rẫy đầu tiên. Tầng rẫy đầu tiên là của A Phì, là con trưởng bản, phải đến tầng rẫy tiếp theo mới là tầng rẫy mà A Sầu trồng thuốc phiện.

Đi ngang qua rẫy của A Phì, A Sinh thấy trong chòi canh rẫy có ánh sáng, thì liền tiến tới gần, gõ cửa hỏi han:

- A Phì, A Phì mở cửa đi!

Có tiếng của A Phì đáp lại làu bàu, lại có tiếng của Mủa Xuân vợ A Phì rên rỉ không ngớt. A Phì đáp:

- Đứa nào thế? Ma rừng à? Tao ở với vợ tao nên chúng mày không bắt được tao đâu, chúng mày cút đi!

A Sinh nói:

- Tôi là A Sinh đây, mở cửa ra cho tôi hỏi chuyện!

A Phì đáp lại:

- Con ma rừng này sao ngu thế, thằng A Sinh nó đi làm ở dưới huyện mấy năm nay, mày tính lừa tao như lợn thế à?

A Sinh hết sức kiên nhẫn nói:

- A Phì, tôi là A Sinh thật đây. Bây giờ là mùa xuân rồi, tôi về đón tết anh nhớ chứ!

A Sinh còn kiên nhẫn kể những kỉ niệm hồi bé để cho A Phì tin tưởng là thật. À Phì sau đó mới mở cửa chòi ra, ném cái chăn đắp che kín người Mủa Xuân. Trên người gã chỉ mặc một cái quần đùi. Gã thò đầu ra khỏi cái chòi rồi nhìn A Sinh với vẻ ngạc nhiên hỏi:

- A Sinh, là anh thật à? Anh đi giữa rừng vào ban đêm như thế mà không sợ ma rừng bắt mất sao?

A Sinh lắc đầu trả lời:

- Tôi không sợ!

Rồi lại hỏi:

- A Phì, đêm nay anh có nhìn thấy A Sầu không?

A Phì ngẫm nghĩ một lúc, gãi đầu gãi tai cố nhớ lại nói:

- Không, tôi không có gặp. Cả ngày nay không thấy A Sầu đi qua đây, nhưng hồi chiều tôi thấy ở nương của nó có bốc lên khói dữ dội lắm, khói trắng xóa hết cả ra. Hình như nó đốt nương rồi…

A Sinh mở to mắt đầy kinh ngạc hỏi:

- Đốt thuốc phiện ư? Tại sao A Sầu lại làm thế?

A Phì lắc đầu trả lời nói:

- Tôi không biết!

A Sinh lại hỏi:

- Vậy tối qua trên chiếu bạc, anh có gặp A Sầu không?

A Phì cũng là một con nghiện cờ bạc, hắn còn nghiện hơn cả A Sầu. Hầu như trong bản có tổ chức bài bạc gì là đều có mặt hắn, nhưng hắn chơi thì thường xuyên thắng nên giàu có. Còn A Sầu thì chơi thường xuyên thua nên nghèo kiết xác.

A Phì trả lời ngay:

- Tối hôm qua thì không có, nhưng tối hôm kia thì A Sầu có chơi. Nó bán được mấy trăm nghìn tiền thuốc phiện ấy, nhưng tối ấy cũng mất sạch, chắc phải lâu lâu nữa mới dám quay lại.

A Sinh lẩm nhẩm:

- Tối hôm kia à? Lại còn mấy trăm nghìn tiền thuốc phiện.

A Sinh nghĩ lại, tối qua thì vợ chồng anh mới mất tiền, nên không thể nói số tiền mà A Sầu tiêu vào chiếu bạc là của vợ chồng anh được. Mà nếu A Sầu lấy được tiền rồi, tại sao không đi chơi bạc vào tối hôm qua. Hay là vợ chồng anh đã hiểu lầm cho A Sầu thật. A Sầu không lấy tiền, vậy thì ai lấy?

A Sinh lại hỏi:

- Vậy chứ tối nay trên chiếu bạc cũng không có A Sầu hay sao?

A Phì quả quyết nói:

- Tôi đã nói với anh rồi, rằng hôm nay tôi không gặp A Sầu. Tối nay tôi cũng vừa mới từ chiếu bạc về, còn chưa qua rẫy A Sầu mua ít thuốc phiện đây. Nhưng tình hình này chắc nó đốt nương thuốc phiện rồi, sau này khó mà mua nổi thuốc phiện của nó.

Dừng lại một chút, A Phì lại nheo mắt hỏi A Sinh:

- Mà nhà anh làm cái gì, lại khiến thằng A Sầu thay đổi được nhanh thế? Nó tính đốt nương thuốc phiện, thì chắc là định cai nghiện, định bỏ bài bạc đây!

A Sinh đầu óc khi này hỗn loạn, một nửa vẫn một mực nghi ngờ A Sầu lấy cắp tiền. Một nửa lại cảm thấy A Sầu đốt nương thuốc phiện là để chứng minh hắn trong sạch.

A Sinh gật đầu chào hỏi A Phì một tiếng, rồi lại tiếp tục xông thẳng về phía tầng rẫy thứ hai, nơi mà trước đây A Sầu thường hay trồng thuốc phiện.

Dọc đường đi, lũ ma rừng lại nháo nhác khi thấy A Sinh đi qua. A Sinh vẫn can đảm bước tiếp cho đến khi đi vào tầng rẫy thứ hai. Đến nơi thì một khung cảnh hoang tàn lập tức đập vào mắt anh. Toàn bộ cây thuốc phiện đều đã cháy hết, chỉ còn lại mỗi trơ gốc. Tro tàn thuốc phiện bay khắp nơi. Nhiều con thú nhỏ đều ngất gục ở quanh rẫy vì say hơi thuốc phiện. Cái chòi canh rẫy của A Sầu tối đen không ánh đèn, chứng tỏ là A Sầu chẳng có ở đây nữa rồi.

A Sinh bước tiếp về phía căn chòi, mở cửa chòi ra tìm kĩ xem ở đây có thứ đồ gì mà A Sầu đã ăn trộm không. Nhưng không có. Cả căn chòi trống huơ trống hoác. Có mỗi cái gối để A Sầu canh rẫy nằm trơ trọi ở đó.

Không tìm được A Sầu, A Sinh đành quay trở về nhà. Về đến nơi thì mọi người trong nhà cũng đều đã ngủ say. A Sinh tính nằm xuống giường ngủ thiếp đi. Nhưng cứ nghĩ đến những việc mà A Sầu đã làm khiến anh càng thắc mắc không sao ngủ nổi. Tại sao A Sầu lại đốt nương thuốc phiện, tại sao A Sầu không có ở chiếu bạc và tại sao trong chòi canh rẫy của A Sầu không hề có gạo. Lẽ nào số gạo và số thức ăn đó đúng như bà Chắn nói, là nó không phải do A Sầu ăn mất.

Đang suy nghĩ miên man như thế, thì ở gian bếp lại có tiếng động loạch quạch vang lên rồi ngừng bặt. A Sinh nằm im, cố nín thở nghe xem tiếng động ấy có tiếp tục phát ra hay không. Nhưng không tiếng động ấy không tiếp tục phát ra nữa.

Một lúc sau, khi A Sinh đang chuẩn bị thiêm thiếp ngủ đi, thì lại nghe thấy tiếng sột soạt. Tiếng thanh chốt cửa bằng gỗ bị cậy ra. A Sinh nhẫn nại, miệng mím chắt, hai hàm răng anh nghiến lại, đôi mắt sắc lạnh chờ đợi. Và giờ đây rất có thể là thủ phạm đã xuất hiện.

Đúng như anh nghĩ, cái cửa gỗ của căn nhà mở bung ra, kẽo kẹt một cách khẽ khàng. Một đôi mắt to đỏ như máu, sáng như sao từ bên ngoài dõi vào trong nhà. Một thứ sinh vật đen nhẻm không rõ hình thù, gầy gò, dáng như người. Nhưng lại đi bằng bốn chi đang bò dưới đất. Nó tỉ mẩn nhanh thoăn thoắt đi tới gần từng người mò mẫm, sờ soạng tìm kiếm thứ đồ có giá trị. Miệng nó cười đầy vẻ thích thú. Vì trong đêm tối nên A Sinh không thể nhìn rõ được khuôn mặt của nó, mà chỉ nhìn rõ nhất đôi mắt sáng như sao của nó mà thôi.

Thứ sinh vật có hình thù kì lạ, mò mẫm từng người trong nhà, rồi lần lượt đến lượt A Sinh. Nó thò vào người anh, sờ soạng khắp người một cách nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng đến mức gần như A Sinh đã chủ động cảm nhận, mà cũng không cảm nhận được cảm giác gì. Đến khi này thì A Sinh mới sực hiểu, thì ra là anh đã trách nhầm A Sầu, rằng không phải A Sầu lấy mất đồ đạc, cũng như không phải A Sầu lấy mất nửa hũ gạo. Mà là do chính thứ sinh vật này gây ra, nó chính là một con ma rừng chứ không sai.

Nhưng tại sao ma rừng lại có thể lọt vào bản được? Trong bản có một vị thầy mo, đã làm phép trấn trụ quanh bản, lũ ma rừng không thể nào tiến vào phạm vi người sống được. Vậy tại sao con ma này lại có thể.

A Sinh cố nén lại sự hiếu kỳ, chờ đợi con ma lần sờ từng người trong nhà, rồi lẻn ra ngoài chạy đi. A Sinh rón rén bám theo cố gắng không phát ra tiếng động. Đi theo con ma rừng, anh thấy nó chạy xuống dưới bếp, đến gần đống củi khô thì liền lóe sáng một cái sau đó biến mất.

A Sinh cố gắng trấn tĩnh, không đem chuyện này đánh động mọi người, mà chỉ quay lại giường để đi ngủ.

Sáng hôm sau khi mọi người thức dậy. Mủa Tình thấy A Sinh đã nằm cạnh mình thì vui lắm, cả đêm hôm qua cô cứ lo ngay ngáy sợ A Sinh bị ma rừng bắt mất, nhưng giờ A Sinh đã về rồi.

Khi A Sinh thức dậy, anh tập hợp tất cả mọi người trong nhà lại và giải thích:

- Có thể là chúng ta đã nghi ngờ nhầm cho A Sầu rồi, A Sầu không lấy tiền của chúng ta.

Mủa Tình liền hỏi:

- Nếu không phải là A Sầu thì là ai được?

A Sinh trả lời:

- Là một con ma rừng, đêm qua, chính mắt anh đã nhìn thấy nó!

Bà Chắn lắc đầu quả quyết nói:

- Không thể nào, ma rừng làm sao có thể xuất hiện trong bản được, nó bị phép của mo giữ bên ngoài rồi.

A Sinh vẫn khẳng định, anh nói:

- Nó chính là con ma rừng, con ma rừng ấy là lấy cắp hết thứ đồ có giá trị của chúng ta, muốn chúng ta nghi ngờ lẫn nhau để hại lẫn nhau, mục đích của nó thật ác độc. Đêm nay nếu mọi người cùng thức, thì ắt hẳn là sẽ thấy nó.

Nói xong, A Sinh hối thúc mọi người chuẩn bị, chờ đến đêm cùng theo dõi và chứng thực lời anh nói là thật.

Tối đến, bốn người trong nhà đều thức trừ A Nụ. Bọn họ nằm trên giường, giả vờ ngủ để chờ xem thứ sinh vật như lời A Sinh nói có xuất hiện thật sự hay không. Và đúng như lời A Sinh nói, đến chừng nửa đêm, cái thân người đen nhẻm và đôi mắt sáng như sao của con ma rừng lại xuất hiện. Có cậy cửa và len lẻn đi vào trong nhà, lần sờ mọi ngóc ngách qua loa, rồi lại sờ mó tất cả những người trong nhà để tìm kiếm thứ đồ có giá trị.

Đến lượt bà Chắn, con ma rừng không ngừng tay sờ soạng. Bà Chắn biết trước được, cũng không nhịn được tri hô lên:

- Bắt lấy con ma rừng!

Con ma rừng kinh sợ khi thấy bà hô lên như vậy, nhanh thoăn thoắt nó quay đầu bỏ chạy ra ngoài cửa. Cái tóc nó xõa dài như tóc con cái, khuôn mặt xanh xao như người ốm bệnh, có vẻ mặt của người trẻ con. Đêm nay trời sáng trăng rõ, trong cái ánh sáng nhá nhem ấy, bà Chắn kinh sợ kêu lên:

- Trời ơi Mủa Giàng, con tôi!

Cái tên Mủa Giàng lọt vào tai A Sinh khiến anh càng khiếp sợ hơn. Vì Mủa Giàng chính là người chị gái của A Sinh. Năm A Sinh tám tuổi, Mủa Giàng mười hai tuổi vào rừng lấy củi, từ đó đã mất tích. Gia đình bà Chắn tìm mãi mà không thấy thân xác Mủa Giàng ở đâu. Thì ra Mủa Giàng đã chết và hóa thành ma rừng, quả là đáng thương tâm.

Bà Chắn khóc lóc dữ dội, Anh Sinh cũng buồn đến não người. Anh cố nhắm mắt lại, chờ đến sáng hôm sau liền đem mọi chuyện bàn tính với bà Chắn nói:

- Con tính mời mo về trừ con ma rừng!

Bà Chắn gạt ngay và nói:

- Không được, đó là chị của mày, mày tính hại chị mày chết hay sao?

A Sinh kiên quyết nói:

- Mẹ à, chị Mủa Giàng đã chết rồi, giờ chị ấy là con ma rừng, phải trừ chị ấy thì nhà này mới sống yên ổn được.

Bà Chắn nhất quyết không đồng ý.

Còn A Sinh thì vẫn quả quyết làm mọi việc theo ý mình, anh lập tức qua nhà thầy mo một chuyến, báo với ông ta tin tức nhà mình có ma rừng xuất hiện. Vị thầy mo này tên A Lì, đã gần tám mươi tuổi rất già nua. Vốn A Lì cũng ít đi lại, nhưng cứ nghe thấy ma rừng thì liền xông xáo lắm.

Thấy A Sinh dẫn lão A Lì về nhà, bà Chắn không nói lời nào mà còn bỏ luôn cả cơm. A Sinh thở dài biết không hợp ý mẹ, nhưng vẫn kiên quyết làm theo.

Lão A Lì bắt A Sinh phải làm thịt một con gà, để lão làm lễ cúng ma, hỏi ma xem là con ma rừng nào đang ở trong nhà này để tìm cách loại bỏ.

Lễ vừa mới làm, máu tiết con gà phun lên trời. Hương cháy rất đượm khói, lão A Lì lầm rầm khấn bái được một lúc thì liền trợn mắt nói:

- Thôi tao biết rồi, tao biết trong nhà mày có con ma gì rồi!

A Sinh vội vã hỏi ngay:

- Là con ma gì thưa thầy?

Lão A Lì trỏ tay xuống cái bát cơm cúng trịnh trọng nói:

- Nó là con ma hốc củi, loài ma này hiếm lắm!

Mủa Tình không hiểu ma hốc củi là ma gì, liền hỏi ngay:

- Xin mo kể cho chúng tôi nghe về nguồn gốc của con ma hốc củi này đi ạ?

Lão A Lì gật đầu và bắt đầu kể lại. Lão kể rằng ma hốc củi là một loài ma chết do bị ma rừng lôi kéo, chúng còn quyến luyến dương thế mà yếu quá nên không biết làm cách nào đành phải trốn tạm vào lõi củi khô để cho âm khi không bị bay đi mất, rồi từ đó từ từ tu luyện. Loài ma hốc củi tính ra trong các loài ma rừng thì không độc ác, nhưng chúng lại thường hay có cái sở thích đùa thái quá là lấy cắp đồ trong nhà của người bị hại. Thường thì những thứ đồ này sau một vài ngày là chúng sẽ trả lại. Chúng chỉ trêu đùa một cách vô thức, nhưng lại vô tình làm cho nội bộ gia đình người bị hại nghi ngờ lẫn nhau, gây chia rẽ.

Lão A Lì kể xong thì A Sinh liền lập tức hiểu được ngay, thì ra không phải trước nay chỉ có một mình gia đình A Sinh gặp phải chuyện này, mà còn rất nhiều người bị con ma này hại như vậy.

Khi này có giọng bà Chắn đột nhiên xuất hiện, bà nói:

- Nhưng tôi đã nhìn thấy mặt con ma hốc củi, nó chính là đứa con gái đầu lòng của tôi, nó là Mủa Giàng. Nó chết nhiều năm nay mà không tìm thấy xác, mo có thể gọi nó lên hỏi nó giúp tôi xác nó ở đâu được hay không?

Lão A Lì nói ngay:

- Xác con ma hốc củi, ở ngay chỗ có củi mà người ta vô tình đem về. Bà nhặt củi khô ở đâu thì cứ quay lại đó mà tìm.

Bà Chắn nước mắt giàn giụa nói:

- Nhưng củi khô tôi nhặt khắp rừng, thì biết đằng nào mà tìm bây giờ.

Lão A Lì nói ngay:

- Bà nhặt củi ở đâu có xuất hiện sự bất bình thường nhất thì là ở đó có ma hốc củi. Ví dụ như một gánh củi tự nhiên xuất hiện chẳng hạn, chắc chắn là do con ma hốc củi cố ý sắp xếp để cho người ta tưởng bở mà mang nó về nhà.

Bà Chắn nghe đến đây, đôi mắt liền sáng như sao nói ngay:

- Thôi đúng rồi, cái bó củi ấy, là hôm ấy tôi lấy ở ngay cạnh cái chòi hoang.

A Sinh hỏi ngay:

- Chòi hoang nào hả mẹ?

Bà Chắn nói:

- Chính là cái chòi hoang mà hôm mẹ đi rừng về muộn, phải nghỉ tạm qua đêm để tránh ma rừng. Chính cái chòi hoang bỏ nhiều mùa rẫy ấy, khi mẹ bước vào thì chẳng hề có bó củi nào ở cửa, mà sáng ra thì lại có bó củi ở đó chờ sẵn. Nhất định là chỗ đó rồi…

Lão À Lì gật gù nói ngay:

- Vậy thì đúng rồi, con ma hốc chủi ở chỗ đó đấy! Giờ mọi người mà đến cái chòi ấy đào đất lên, không những vừa tìm được xác của Mủa Giàng, mà còn tìm được cả đồ đạc đã mất nữa.

A Sinh gật đầu cảm ơn lão A Lì liên tục, lão A Lì lại nói tiếp:

- Còn về con ma hốc củi, tạm thời để cho nói không nghịch phá, thì phải đốt hết sạch những que củi đã mang về đi. Mọi người nghe tôi dặn, sau này nếu có đem nhầm phải củi có chứa ma hốc củi, mà thấy mất đồ đạc. Thì chỉ cần chờ vài ngày cho chúng trả lại đồ, sau đó đem hết củi trong nhà đốt đi là sẽ đuổi được chúng.

Lão A Lì nói xong thì liền đứng dậy ra về. A Sinh nghe lời lão A Lì, hôm sau cùng với bà Chắn quay lại chỗ căn chòi hoang ngay gần rừng nứa. Đến khi đào lên thì quả nhiên thấy một bộ xương người ở dưới đó, trong tay nó còn nắm chặt cái bọc tiền của Mủa Tình, cả túi gạo không sót thứ nào. Có cả những mớ thức ăn đã thối giữa cũng vẫn ở đó. Tất cả những thứ bị mất không sót một thứ nào đều đã tìm về được.

Mà đồ đã tìm về được rồi, ma hốc củi cũng đã trừ được, Mủa Giàng cũng được chôn cất thờ cúng tử tế. Nhưng A Sầu đã đi rồi, hắn đi không còn trở lại nữa. Hẳn là A Sầu phải uất ức lắm, tức lắm vì bị nghi ngờ. Chỉ vì cái tiếng là gã nghiện ngập mà cái gì cũng đều đổ lên đầu gã, đều nói là gã làm. Chính vì cái tiếng ấy mà A Sầu mới đốt nương thuốc phiện, mới bỏ bài bạc, mới bỏ đi. Chắc A Sầu khóc nhiều lắm.

Nhưng không chỉ A Sầu khóc, mà Mủa Lý cũng khóc. Cô khóc vì cảm thấy oan ức thay cho chồng, khóc vì nhớ chồng. A Sinh thì mỗi lần bắt gặp Mủa Lý khóc lại tránh mặt, vì xấu hổ, vì ngại ngùng với em gái. Mủa Tình cũng không còn mặt mũi nào nhìn em chồng, vì chính cô đã trực tiếp gán ghép tội danh cho A Sầu.

Một mùa rẫy nữa lại qua đi, người nhà cứ ngỡ là A Sầu sẽ chẳng bao giờ quay về nữa. Rằng A Sầu hận A Sinh lắm nên đã bỏ đi hẳn rồi. Nhìn lại đồng bạc trắng A Sầu để lại, mà chiều nào Mủa Lý cũng khóc thương. Lại nhìn cả cái tẩu thuốc của A Sầu, cũng được tìm thấy ở dưới mồ của Mủa Giàng. Chính cái tẩu thuốc này cũng bị ma hốc củi giấu đi, nó quả là một con ma xấu tính. Nhưng sự xấu tính của nó lại vô tình làm thay đổi một người, vô tình khiến người ta trưởng thành.

A Sầu đã trở về, hắn đã trở về sau một mùa rẫy. Người hắn giờ đã to béo hơn, nhìn cũng có sức sống hơn vì đã cai thuốc phiện. A Sầu đem một bóc tiền tới trả cho A Sinh nói:

- Tôi mang cái tiếng ăn trộm nên tôi ức lắm, tôi bỏ đi cũng chỉ là để kiếm ra tiền lương thiện để trả cho anh chị, để trả cho bớt cái tiếng xấu của tôi. Tôi nghiện ngập, nhưng tôi còn nhân cách…

A Sầu nói với vẻ không biểu tình, và vẫn còn giận chuyện năm xưa. A Sinh áy náy cầm bọc tiền dúi lại tay A Sầu nói:

- Anh xin lỗi chú, là anh chị đã hiểu nhầm. Chú cứ giữ lấy số tiền này để hai vợ chồng làm ăn. Tiền của anh chị đều đã tìm lại được.

A Sinh lại hỗi Mủa Lý kể cho A Sầu mọi chuyện. A Sầu hiểu ra liền không còn trách A Sinh nữa.

Từ đó A Sâu thay đổi hẳn, về với Mủa Lý được hai năm thì vợ chồng A Sầu có con, lại có được món tiền lớn trong thời gian A Sầu gắng sức đi làm kiếm tiền trả A Sinh, nên hai vợ chồng họ liền tách ra ở riêng.

Câu chuyện này một phần nào cho thấy, ma quỷ không phải lúc nào cũng làm điều tốt. Nhưng không có nghĩa chúng không làm điều tốt là sẽ có hại. Mà chỉ là một cách tự nhiên ban cho ta sự thay đổi đi tới chân thiện mỹ, cũng như ông trời cho chúng ta một con đường để thay đổi số phận của mình vậy.

Hết!

Ngạ Quỷ
 
Chương 4: Chăn đỏ oan nghiệt


(Truyện ngắn nằm trong series truyện ngắn kinh dị Lời Thề Huyệt Hoang của tác giả Ngạ Quỷ)

Mở mắt ra nhìn xung quanh, đầu Huân cảm thấy choáng váng, trước mặt một khung cảnh mờ mịt nhìn không rõ.

Huân chỉ nhìn thấy cái cây si cao vời vời chọc lên trên trời khuất toàn là bóng sương mù. Trước mắt anh sương mù bao phủ kín quanh, làn ánh sáng lờ mờ xuyên qua từng lớp sương mù ẩn hiện mới có thể làm anh nhìn thấy chính cơ thể mình.

Huân mường tượng nhớ lại khung cảnh lúc trước, đang hỏi mua tấm chăn đỏ của người phụ nữ dân tộc. Tấm chăn ấy Huân nom rất đẹp, thêu hình thổ cẩm đặc trưng của người dân tộc Thái. Huân dám chắc là trong đời mình chưa bao giờ từng được nhìn thấy một chiếc chăn đỏ đẹp đến như vậy.

Chất vải của nó mềm mịn trong mượt, vải sợi long lanh như giọt nước, lại có một màu rất tinh khôi đỏ lóng lánh. Từng họa tiết thêu dệt trên nó thật đến từng chi tiết, rồi họa tiết thêu trên tấm chăn ấy lại liên tưởng đến một chuyện tình bi thương thấm đẫm nước mắt, chính những họa tiết ấy khiến Huân quyết tâm phải mua bằng được nó.

Huân chỉ nhớ là mình đang nói chuyện với người đàn bà dân tộc, độ tuổi khoảng ngoài sáu mươi, da mặt khắc khổ nhăn nheo. Hai hàm răng của người đàn bà dân tộc này đen nhẻm, miệng nhóm nhém nhai một thứ gì đó đỏ tươi chảy ròng ròng trong miệng. Huân dám chắc cái thứ mà người đàn bà dân tộc ấy nhai không phải là thứ trầu cau mà người xuôi hay ăn trong dịp cưới hỏi. Mà đó là một thứ thịt của một con thú vật nào đó, có điều Huân không dám chắc đó là thịt của con vật gì. Huân chỉ cảm thấy một mùi tanh hôi khi đứng trước người đàn bà dân tộc để hỏi mua tấm chăn đỏ, một mùi khủng khiếp mà bất cứ ai cũng muốn tránh xa bà ta, và nó xuất phát từ thứ thịt tởm lợm mà bà ta đang nhai trong miệng.

Nếu không phải Huân đã động lòng thích thú với tấm chăn phơi ngoài cửa của nhà bà ta, thì chắc hẳn lúc ấy anh cũng không thể kiên nhẫn một lúc lâu như vậy để đứng là trước mặt người đàn bà ấy.

Tận cho đến khi người đàn bà ấy cất tiếng lầm bầm một cái gì đó trả lời, Huân liền cảm thấy rất mừng rỡ và chắc mẩm mình đã thành công trong vụ mua bán này.

Người đàn bà nói chuyện bằng thứ tiếng dân tộc mà anh không hiểu, chỉ đứng lên kéo lấy tấm chăn lôi vào nhà, ra hiệu cho Huân đi theo.

Huân rất sốt ruột, bởi lúc ấy đã là tối muộn, đoàn phượt lần này của Huân có mấy chục người đều đã rời xa cái bản hẻo lánh này để bắt đầu hành trình quay trở về tỉnh Điện Biên. Vậy mà anh vẫn cứ nấn ná ở đây mà tách xa đoàn đội của mình, nếu anh không nhanh chóng đuổi kịp, thì đêm nay anh sẽ phải ngủ một mình trong chiếc lều dã ngoại mang theo ở ven đường.

Nhưng vì lòng thích thú tấm chăn đỏ quá mức, anh vẫn kiên nhẫn bước theo sau lưng người đàn bà dân tộc đã lớn tuổi.

Bên ngoài mặt trời đã xuống bóng, khung cảnh nhá nhem phủ khắp bản làng hoang vu. Ban ngày thì nơi này thật đẹp, với những thửa ruộng bậc thang xanh mướt kéo dài, những khoảng rừng thi thoảng thổi ra từng cơn gió mát thơm mùi lá cây, tiếng chim kêu đượm tai người.

Ban đêm trời xuống, thì toàn bộ khung cảnh xung quanh bao trùm một mảnh âm u rợn vắng. Giữa đồi không mông quạnh chỉ có duy nhất một căn nhà trơ chọi của người đàn bà dân tộc, lối đường mòn ít người đi đến mức phải khó khăn lắm mới có thể nhận ra nó là đường mòn. Thậm chí nơi này còn hoang vu đến mức không có nổi một ánh sáng đèn điện.

Huân đi theo người phụ nữ dân tộc bước vào trong nhà, thấy trời đã tối mà cũng không thấy người phụ nữ dân tộc thắp đèn hay làm bất cứ thứ gì để nơi này có ánh sáng. Dường như bà ta từ trước đến này vẫn sống như vậy, đêm xuống cũng không hề thắp lên đèn, mà chỉ luôn luôn yên lặng trong bóng tối mịt mùng.

Căn nhà của người đàn bà dân tộc, là một căn nhà sàn kiểu cũ rất nhỏ, chỉ độ khoảng năm mét vuông. Một căn nhà sàn bé đến mức mà từ trước đến nay Huân chưa từng nhìn thấy bao giờ, bên ngoài nó cũng cắm đầy những cây cột cao chừng ba mét, trên đó gắn nhiều những xúc tua bằng vải thô đủ màu sắc tua dua trông rất lạ mắt.

Ngay từ khi đi qua đây, Huân đã có thể cảm giác được một bầu không khí âm u đến rợn người.

Căn nhà nằm trơ trên một ngọn đồi vắng, xung quanh là nương ngô rậm rạp, chỉ có duy nhất một lối mòn nhỏ cắt qua nương ngô qua đây, và ở cuối cái đường mòn lại chính là ngôi nhà của người đàn bà dân tộc. Nương ngô ở xung quanh rậm rạp và mọc cao đến mức, nhìn từ phía xa thì căn nhà đã bị che khuất.

Nếu không phải là Huân ham mê khám phá, tách ra khỏi đoàn đội của mình, hứng thú nhìn thấy một lối đường mòn nho nhỏ, đột nhiên nổi lên ý thích khám phá đến tận cuối con đường cho đến hết ngày. Thì có lẽ giờ này anh đã không ở nơi này để nói chuyện với người đàn bà dân tộc, và cũng không nhìn thấy tấm chăn đỏ kia mà động lòng thích thú.

Đường mòn kéo dài vào đây dài đến mức anh phải đi hết nửa ngày trời, và càng đi anh càng có một loại cảm giác cô quạnh giống như mình đã đi vào một thế giới hoàn toàn khác, không giống với thế giới mà mình đang sống.

- Bà ơi?

Huân hắng giọng nói to cố để gọi người đàn bà dân tộc, xung quanh anh giờ này đã tối đen, bước vào trong nhà anh đã không thể nhìn thấy bất cứ một thứ gì nữa. Chờ hồi lâu mà vẫn không thấy có tiếng đáp lại của người đàn bà dân tộc, Huân bắt đầu thiếu kiên nhẫn, và định quay đầu trở lại ra bên ngoài bật đèn xe máy rọi đèn chiếu vào bên trong cho sáng.

Nhưng anh mới quay đầu lại, thì lập tức mắt anh đã cảm thấy mờ mịt, đập vào mắt anh là đôi mắt đỏ to tròn, khuôn mặt lờ mờ trong bóng đêm, thứ mùi tanh hôi bốc lên. Huân giật mình kêu lên một tiếng: “Ôi!”

Chỉ kịp đến đấy thì Huân đã thấy đầu óc hoa lên một chốc rồi không còn biết gì nữa.

Khi Huân tỉnh lại, thì đã thấy mình đang đơn độc trong tình cảnh này, xung quanh anh toàn là sương mù bao phủ.

Huân nhìn kĩ lại, thì thấy trên người mình đã trùm một tấm chăn, tấm chăn ấy chính là tấm chăn đỏ mà Huân hỏi mua của người đàn bà dân tộc trước đó.

Huân sờ lên đỉnh đầu, chợt thấy có cảm giác đau điếng nhói lên, và cảm thấy đầu mình hình như đã bị thứ gì đó đập vào khiến nó sưng húp. Nhưng khi anh sờ vào đỉnh đầu thì chỉ cảm thấy nó nhẵn nhụi, và không có bất cú một cục u nào sưng nổi lên, dường như cái cảm giác đau đớn kia của anh chỉ là ảo giác vậy.

Huân loạng choạng đứng đậy, nhìn tấm chăn đỏ trong lòng, mặc dù có cảm giác đau đớn, nhưng vẫn không sao kìm được lòng thích thú, bởi vì cuối cùng anh cũng đã sở hữu được nó theo tâm nguyện của mình.

Huân sờ vào tấm chăn đỏ, vuốt nhè nhẹ và đắp lên mặt, anh chỉ cảm thấy sự trơn mềm và thỏa mãn đến cùng cực. Tấm chăn mềm mại như da thịt, mềm đến mức như anh đang áp mặt vào ngực của một người đàn bà nào đó vậy.

Huân không quan tâm đến cái cảm giác lạ kì mà tấm chăn này mang lại, và cũng không hề cảm thấy có gì khác biệt, chỉ là một sự quen thuộc đến thân thương. Cảm giác mà tấm chăn đỏ mang lại, không hề giống bất cứ một tấm chăn thông thường nào khác, chỉ toàn sự thô ráp. Mà cảm giác của nó đem lại, lại giống như sự trơn mịn mềm mại đàn hồi của bộ ngực một người đàn bà thanh xuân đậm lửa tình, đang cuồng nhiệt áp vào khuôn mặt của Huân.

Huân nắm trong tay cái chăn, chăm chú ngắm nghía nó.

Cái chăn đỏ này dài chừng hai mét, rộng độ mét tám, chất vải tuyệt hạng mà không có bất cứ công nghệ sản xuất vải hiện đại nào có thể sánh được. Mùi thơm của nó nhè nhẹ như mùi thơm của thiếu nữ thanh xuân khiến Huân động lòng.

Huân hít thở hồi lâu rồi chợt bừng tỉnh nhớ ra, anh phải sớm quay về thị trấn huyện thành Nậm Nhùn.

Huân không biết là mình đã ngất đi bao lâu, chỉ biết khi ý thức của anh mất đi thì trời đã tối, còn bây giờ thì quang cảnh xung quanh đã có chút sáng rõ, hẳn là đã trải qua ít nhất một đêm Huân bị bất tỉnh.

Sương mù che khuất tầm nhìn, trên người Huân lại không hề có thứ gì ngoài chiếc ba lô rỗng không với một ít lương khô. Anh chọn đại một hướng, hy vọng sẽ ra khỏi vùng sương mù, từ đó có thể tìm được một lối mòn nào đó đi ra khỏi nơi này.

Ban đầu, Huân không hề có một chút cảm giác lo lắng hay sợ hãi nào hết. Bởi lẽ anh có một niềm tin sắt đá của những người trẻ nhiệt huyết, không nơi đâu không phải là đường.

Anh bị ngất đi và xuất hiện ở nơi này, chứng tỏ là người đàn bà dân tộc kia đã đưa anh tới đây, thì cũng phải có một con đường nào đó để bà ta có thể trở về. Điều khiến Huân thắc mắc duy nhất, chính là vì sao người đàn bà dân tộc ấy lại làm Huân bất tỉnh và thả anh ở nơi này, hơn nữa lại đem tấm chăn đỏ mà anh hỏi mua, đặt lên người anh. Chứng tỏ bà ta lo lắng nơi này tiết trời lạnh, nên đem theo chiếc chăn này nhằm giữ thân nhiệt cho Huân, còn về mục đích tại sao bà ta lại làm như vậy thì Huân không hề rõ.

Hình ảnh cuối cùng Huân nhìn thấy là đôi mắt mở to đáng sợ, cái miệng hôi hám đang trào ra chất dịch đỏ lòm tanh hôi. Khuôn mặt đáng sợ ấy hiện lên thì cũng là lúc Huân ngất đi, và Huân cũng phần nào đoán được, khuôn mặt ấy không ai khác chính là của người đàn bà dân tộc mà lúc trước Huân hỏi mua tấm chăn đỏ.

Nhưng bây giờ, Huân càng đi, càng đi càng thấy hình như mình đã đâm vào một nơi rừng sâu. Sương mù đã dần tan, anh nhận ra rằng mình đã tới một nơi địa ngục. Nơi mà không dành cho cõi người mà nó chỉ dành cho… cõi quỷ.



Một cái vũng máu đỏ tươi đen kịt với những vẩn vẩn tích tụ lại thành một vệt dài nước nhớp nháp, nó giống như là nước rãi của một thứ sinh vật nào đó.

Huân chạm chân vào thứ nước rãi ấy mà thầm cảm thấy kinh tởm đến tột bực. Đó là thứ gì vậy? Anh tự hỏi.

Huân đem tấm chăn nhét vô cái ba lô đeo trên lưng, rồi nhanh chóng rút chân ra khỏi cái vũng nước đỏ lòm đầy nhớp nháp.

Đi tiếp thêm một chút nước, khung cảnh xung quanh bắt đầu dần biến đổi. Những thứ kinh dị mà trước nay Huân chưa từng nhìn thấy dần xuất hiện.

Ẩn sau lớp sương mù trải dài dằng dặc, giờ đây lại là một tòa lâu đài to lớn đồ sộ. Thứ kinh tởm nhất khiến Huân muốn lợm cổ họng, là tòa lâu đài này được xây dựng bằng những khúc xương, những khúc xương người trắng ởn.

Huân tự hỏi đây là nơi nào vậy? Không phải là anh đang ở một căn nhà ở cuối một lối đường mòn hay sao? Bà già người dân tộc kia đã ném Huân đến chỗ này, tột cùng là nơi nào? Đâu là con đường có thể khiến anh trở về chốn cũ.

Huân cố gắng kìm nén sự kinh tởm, bước tiếp về phía trước.

Anh bắt đầu đảo mắt dõi lên tòa lâu đài được xây dựng bằng xương cốt, bàn tay chậm rãi sờ vào một khúc xương. Lạ thay, khi đôi bàn tay anh chạm vào khúc xương ấy, thì nó liền tan ra thành một đống bụi vụn, giống như khúc xương ấy đã tồn tại ở đây vô tận năm tháng.

Tiếp theo đó, như một hiệu ứng domino, toàn bộ tòa lâu đài được xây dựng bằng thi cốt trực tiếp toái thành phấn vụn, bụi bay tung mù mịt. Chỉ một cái chạm tay nhè nhẹ của Huân, đã khiến cấu trúc đồ sộ của một tòa lâu đài hoàn toàn bị phá hỏng.

Anh không tin vào những gì mà mắt mình vừa mới nhìn thấy. Anh dụi mắt một lúc rồi gần như bừng tỉnh, vì tự lúc nào anh đã quay trở lại căn nhà cũ trên đỉnh đồi, và trong tay anh giờ này đang nắm tấm chăn đỏ. Chiếc xe máy vẫn còn đang ở bên, cứ như một cố sự vừa rồi xảy ra, hoàn toàn chỉ là do ảo giác vậy.

Huân tự hỏi chuyện gì đã xảy ra, anh ngơ ngác nhìn quanh thì đã thấy căn nhà của bà già dân tộc kinh tởm kia đã biến mất, tựa như chưa hề tồn tại. Cũng thật giống như tòa lâu đài xương cốt mà anh đã phá hỏng, rõ ràng đã nhìn thấy trước mắt, vậy mà cuối cùng nó lại không phải là thật.

Vậy căn nhà của bà già đó đã biến mất đi đâu? Cả bà ta cũng như vậy nữa, chắc chắn rằng không thể là việc anh tưởng tượng ra được, vì minh chứng vẫn còn rất rõ ràng. Tấm chăn đỏ ấy vẫn đang còn ở đây và Huân vẫn đang cầm nó trên tay.

Tìm kiếm thêm một lúc nữa, Huân không tìm thấy thêm một điểm khác biệt nào. Cuối cùng anh đành phải tự lắc đầu cho rằng những sự kiện mình vừa mới trải qua chỉ là một sự tưởng tượng vậy.

Chiếc ba lô còn vắt trên yên xe máy, đèn pha chiếu rọi về phía cuối đồi, bạt ngàn toàn là ngô.

Huân lên xe, quay trở lại đường cũ để đi ra đại lộ, trở về thị trấn Nậm Nhùn.

Khi vừa mới ra đến đại lộ, Huân thấy một chiếc xe phân khối lớn vùn vụn phóng qua, rồi đột nhiên chiếc xe ấy ngừng lại, quay đầu, chạy sát về phía Huân.

Một giọng nữ vang lên:

- Anh Huân, anh đi đâu mà làm cả đoàn lo sốt vó hết cả lên. Bọn em còn tưởng anh lạc đường chỗ nào nên chia nhau đi tìm…

Huân nhìn kĩ lại, liền phát hiện ra đó là Liên, cô em gái trẻ nhất trong đoàn phượt lần này. Huân cười nói:

- À, anh thấy cái đường mòn đẹp quá, nên rẽ vào thử xem. Để mọi người lo lắng rồi, chúng ta về thôi!

Liên hơi cảm thấy khó hiểu, nhưng cũng gật đầu. Rồi cô phóng xe đi trước dẫn đường.



Thị trấn huyện thành Nậm Nhùn của tỉnh Lai Châu, là đơn vị hành chính cấp huyện gần nhất với đất Trung Quốc trên toàn tỉnh, cũng là nơi có nhiều cảnh đẹp hoang sơ mà hiếm người biết đến.

Đoàn đội đi phượt lần này của Huân có tổng cộng mười hai người, đều hẹn nhau sau khi thăm thú hết các nơi của huyện thành Nậm Nhùn, sẽ họp mặt tại thị trấn huyện thành làm một bữa cơm cuối cùng. Sau đó bọn họ mới trở lại tỉnh Điện Biên thăm hầm tướng Christian de Castries hay theo tên gọi của người Việt thì chính là hầm tướng Đờ Cát, rồi kết thúc chuyến hành trình thăm thú vùng đất Tây Bắc nửa tháng để trở về Hà Nội.

Mất thêm ba mươi phút nữa, Huân cùng với Liên đã chỉ còn cách thị trấn Nậm Nhùn chưa đến mười lăm cây số.

Hai người gặp lại đoàn phượt của mình trên một khúc cua vắng người của đại lộ. Tại khúc cua này, trước đây đã có không ít người đã từng gặp tai nạn ở đây vì khuất tầm nhìn.

Đoàn trưởng của đoàn phượt lần này là Tiến, một vị Tiến sĩ trẻ tuổi ngành khảo cổ học. Tiến ngoài đam mê khảo cổ, lại còn rất mê phượt danh lam thắng cảnh.

Nghe tin Huân mất tích, Tiến trước đó đã cử bốn người đi dò tìm tung tích của Huân, đến Liên là người thứ năm thì cuối cùng cũng đã thu được kết quả.

Tiến nhìn thấy Huân trở về, liền thở phào nhẹ nhõm, anh nói:

- Tôi còn cứ tưởng là cậu chết ở chỗ nào rồi kia, rốt cuộc là cậu đi đâu thế hả?

Huân gãi đầu gãi tai tỏ ra áy náy, rồi chợt như sực nhớ ra điều gì đó anh nói:

- Mọi người, tôi vừa kiếm được một thứ này. Mọi người xem…

Huân nhớ đến tấm chăn đỏ, liền chìa ra cho Tiến, Liên và tám người trong đoàn đang có ở đây xem.

Nhìn thấy Huân rút ra một tấm chăn có màu đỏ, lại bóng bẩy óng ánh. Liên vừa nhìn đã cảm thấy thích, liền hứng thú reo lên:

- Ôi! Cái chăn đẹp quá, anh kiếm nó ở đâu vậy?

Tiến đứng bên cạnh Liên, thấy Huân lôi ra tấm chăn đỏ, thì chỉ liên tục nhíu mày như đang suy nghĩ đến điều gì đó.

Huân thấy mọi người hỏi về lại lịch của tấm chăn, liền không hề giấu giếm. Anh nói:

- Kể ra thì cũng lạ, tôi tìm thấy nó ở một căn nhà của một người phụ nữ dân tộc, tại chính điểm cuối đường mòn mà tôi đi vào. Thế nhưng không hiểu sao khi cầm xong tấm chăn này, là tôi lại bị ngất đi đến bất tỉnh. Khi tỉnh lại thì cái nhà của bà ta ở đâu tôi cũng không còn thấy nữa, chỉ thấy mình đang nằm giữa đường…

Huân kể xong, người nào người nấy đều cười, và cho rằng Huân đang nói đùa để dọa mọi người.

Riêng Tiến thì không nói gì đến vấn đề này, anh chỉ im lặng một chốc rồi chợt nói:

- Còn bốn người nữa đang quay lại tìm cậu, chúng ta phải chờ họ rồi mới có thể tiếp tục đi. Chắc đêm nay họ không về nhanh được ngay đâu, chúng ta tìm một chỗ trống trải gần đây rồi hạ trại nghỉ qua đêm thôi!

Huân áy náy, gãi đầu gãi tai nói:

- Em xin lỗi, vì em mà mọi người phải chịu khổ như vậy, không thì hôm nay cả đoàn được ngủ trong nhà nghỉ ấm áp rồi!

Tiến không nói gì, chỉ quay đầu đi tìm nơi hạ trại. Liên thấy vậy, liền quay sang khích lệ Huân:

- Đâu có gì đâu anh Huân, mọi người đi phượt chung với nhau, quan trọng nhất là tương trợ nhau những lúc như thế này. Anh có gì mà phải áy náy…

Liên nháy mắt với Huân một cái với vẻ đầy đáng yêu, rồi chợt chỉ tay vào tấm chăn đỏ mà Huân đang cầm trên tay rồi nói:

- Anh cho em mượn nó một chút được không, em thấy nó đẹp quá!

Huân ngẩn ra một chỗ, một lát sau mới hiểu ý Liên, liền gật đầu cười nói:

- Ừ, em cứ mượn đi! Rồi lát nữa trả anh sau nhé, anh đi hạ trại với anh Tiến đây!

Huân nói xong, liền quay lại xe lấy đồ đại hạ trại chằng ở yên xe. Rồi đi theo hướng mà Tiến vừa mới rời khỏi để tìm khu đất hạ trại nghỉ qua đêm.

Tại khúc cua vắng vẻ này, có một bãi đất trống rất rộng, gần ngay mép con vực sâu hun hút. Khu đất trống rộng đến cả trăm mét, phù hợp cho cả đoàn người cắm trại nghỉ qua đêm.

Mặc dù ở đây có cắm biển cảnh báo, khu vực thường có xe xảy ra tai nạn, nguy hiểm. Nhưng dân phượt đều bỏ qua cái biển cảnh báo ấy, và vẫn thường chọn chỗ này làm nơi nghỉ chân cắm trại, phần lớn là vì cảnh ở đây rất đẹp. Xa xa bên kia đường chân trời, là một cái thác trải trắng xóa, phía dưới là một cái vực xanh sâu thăm thẳm.

Trên triền ngọn thác, thì trời đêm đầy sao sáng rõ, trăng sáng vằng vặc trải khắp thung lũng tạo thành một nơi ngắm cảnh cực kỳ tuyệt đẹp. Hơn nữa, dù là có biển cảnh báo nguy hiểm, có nhiều tai nạn ở đây, nhưng đều là xe đâm xuống vực, chứ chưa từng có vụ nào lại lao vào bãi đất này mà gây thiệt mạng về người cả. Vì thế cho nên dân phượt mới cắm trại ở đây mãi mà không sợ…

Liên tiếp nhận tấm chăn đỏ từ tay Huân, liên áp sát nó vào khuôn mặt mình rồi nhắm mắt lim dim hưởng thụ. Liên thích đến mê mệt cái chăn này. Cô nghĩ đi nghĩ lại, rồi chợt nảy ra ý định muốn mua tấm chăn này lại của Huân.

Chờ cho Huân với Tiến cắm trại xong, là Liên đã lấn lấn đến gần Huân nói nhỏ vào tai anh:

- Anh Huân, cái chăn này đẹp quá, hay là anh để nó lại cho em đi. Bao nhiêu tiền em cũng mua…

Huân nhìn Liên rồi cười nói:

- Em cứ đùa, tấm chăn này thì có gì đâu mà em thích dữ vậy…

Liên thôi cười, cô nói thẳng một cách chắc nịch:

- Anh Huân, em nói thật đấy, em thích cái chăn này lắm, hay anh bán nó lại cho em đi…

Huân hơi sững người, anh không nghĩ là Liên lại có suy nghĩ ấy thật. Nhưng Liên thích tấm chăn ấy, thì Huân cũng rất thích, anh phải cố gắng lắm thì mới có được nó. Ít ra thì là trong cái sự tưởng tượng kia thì đúng là như vậy. Huân chưa từng nghĩ đến chuyện sẽ bán cái chăn này cho ai, nhưng giờ Liên lại gạ mua như vậy khiến Huân rất khó xử. Đang trong lúc anh lúng túng chưa biết trả lời như thế nào, thì có tiếng động cơ xe máy rú lớn lên. Một người đàn ông chọc đầu, có làn râu quai nón xồm xoàm xuất hiện ở cuối khúc cua con đường vắng. Mọi người trong đoàn phượt vừa mới nhìn thấy người ấy thì đã liền đoán ra đó là ai. Đó chính là Hùng, người đầu tiên được Tiến cử đi để tìm Huân.

Thấy Huân đã trở về, chiếc xe của anh dựng ở trong bãi đất trống, Hùng liền thở phào nhẹ nhõm.

Bước xuống xe, là anh đã đi đến chỗ Huân, trách giọng đùa cợt:

- Thằng em, mày làm anh vòng đi vòng lại cái đại lộ này đến mấy lần rồi đấy! Sóng điện thoại thì không có, anh còn sợ mày chết ở chỗ nào rồi kia…

Nghe Hùng khanh khách cười nói như vậy, Huân gãi đầu cười nói:

- Em xin lỗi, vì em mà mọi người khổ quá!

Hùng cười xòa không cho là đúng, nói:

- Mày lại coi anh là người ngoài rồi!

Rồi chợt Hùng quay sang nhìn Liên, thấy Liên cứ ôm khư khư tấm chăn đỏ. Anh thấy lạ liền hỏi:

- Liên, em làm gì mà cứ ôm chặt cái chăn ấy thế? Mà em kiếm nó ở đâu ra thế, sao anh chưa thấy nó bao giờ nhỉ? Hay em cho anh xem nó xem nào?

Hùng chìa tay về phía Liên, đột nhiên muốn mượn tấm chăn. Liên hơi sững sờ, nhưng cũng rụt rè đưa tấm chăn ấy về phía Hùng. Trong lúc đưa tấm chăn, cô còn có một chút cảm giác không nỡ.

Huân thấy Hùng thắc mắc liền giải thích:

- Chính vì cái chăn này, nên em mới để mọi người vất vả thế này đây. Em tìm thấy nó ở một lối đường mòn, trong một căn nhà của một người phụ nữ dân tộc!

Hùng tiếp lấy cái chăn từ trong tay Liên, nghe Huân giải thích thì liền gật đầu suýt xoa nói:

- Ừ, cái chăn này đẹp thật đấy! Trước nay anh không có hứng thú với mấy cái thứ đồ lòe loẹt này đâu, lại còn là chăn gối thì chẳng quan tâm. Nhưng mà cái chăn này đẹp quá, chắc bà xã anh ở nhà thích lắm. Hay chú mày để nó lại cho anh đi…

Hùng vừa cầm tấm chăn, vừa xoa qua xoa lại tấm tắc khen lấy khen để. Còn Liên thì chợt sững sờ, cô vội nói liên tục thanh minh như sợ Hùng lấy mất chiếc chăn của mình:

- Ơ anh Hùng, cái chăn này là em đang hỏi mua anh Huân trước, không được đâu nhé!

Hùng xoa xoa tấm chăn trong tay, càng xoa càng cảm thấy chất vải trơn mịn của nó mà càng thấy thích thú. Anh tặc lưỡi nói:

- Ui trời, thì nó vẫn là đồ của Huân cơ mà, Huân bán nó cho ai thì người đó mua. Mà nhà em thiếu gì chăn màn, phụ nữ là chúa lắm đồ. Thôi để anh mua nó lại cho vợ anh dùng, thằng Huân có một mình thì chắc không cần đâu, vì nó sặc sỡ thế này kia mà…

Huân thấy hai người tranh cướp nhau qua lại, thì bèn cười khổ không biết nói như thế nào. Đợi thêm một lúc nữa, thì ba người còn lại được cử đi tìm Huân cũng quay trở về. Bọn họ cũng theo vết xe đổ của Hùng, vừa mới về đã bị sức hấp dẫn của tấm chăn cuốn hút, nó giống như một thứ ma lực vậy.

Cuối cùng không ai tranh cướp mua được tấm chăn, mà Huân cũng không đồng ý bán. Nên trong lòng ai cũng hậm hực, quay trở về lều trại của mình mà vẫn tức nhau không thèm nói với nhau câu nào.

Tiến là trưởng đoàn, sau đó phải mấy lần đứng lên hòa giải thì mọi chuyện mới êm xuôi. Tuy vậy, tất thảy đều có những cái nhìn chòng chọc vào nhau với vẻ đầy khó chịu, và hơn hết, là cặp mắt ai nấy đều thèm thuồng đánh chủ ý lên cái chăn đỏ trong tay Huân.

Màn đêm trải dài khắp rặng núi, cảnh đẹp quét qua khu đất đẹp tuyệt. Nhưng trong đoàn, đa phần lúc này không mấy ai còn có tâm trạng mà ngắm cảnh đẹp đi phượt nữa cả. Tất cả diễn biến tâm lý của mọi người, dường như đều thay đổi một trời một vực từ khi tấm chăn đỏ kia xuất hiện. Nó chính là tâm điểm của mọi sự rắc rối.

Đêm hôm ấy, chính là một đêm dài dằng dặc, và cũng là một đêm đẫm máu kinh hoàng.

Khi ăn qua loa xong bữa tối, là toàn thể mỗi một cá nhân lại trở lại lều trại riêng của mình. Có người thì lén lút đi gặp Huân, đòi bàn bạc bí mật mua lại tấm chăn để nẫng tay trên người khác.

Những tâm hồn tham lam tính toán bắt đầu trỗi dậy, và Huân là người đứng ở giữa thì luôn phải chịu trận.

Người tìm đến là Toàn, một anh kĩ sư trẻ tuổi kém Huân hai tuổi. Toàn dùng bữa tối qua loa xong, là đã lẻn từ lều của mình chạy sang chỗ lều của Huân để trò chuyện.

Toàn ngồi ở mép lều, đòi Huân cho mượn tấm chăn đỏ để đắp cho đỡ lạnh.

Toàn năm nay mới có hai mươi tư tuổi, chưa vợ con, lại còn đang độc thân. Toàn luôn muốn có một người bầu bạn và sống trọn đời với mình. Khi Toàn sờ vào tấm chăn đỏ, anh luôn có cảm giác như mình đang sờ vào da thịt của một người phụ nữ, khó có sức cưỡng lại. Giống như chỉ cần có tấm chăn này, là Toàn có thể có một người đêm đêm chung gối ấm áp, thỏa sức bầu bạn. Chính vì vậy, mong muốn lớn nhất của Toàn lúc này là có thể mua được tấm chăn ấy từ tay Huân. Toàn thích tấm chăn đến mê mệt…

Toàn đắp tấm chăn ngang qua người, suýt xoa liên tục, ban đầu còn nói chuyện đều đều theo tư thế ứng phó với Huân. Nhưng sau cùng, Toàn lại chỉ chăm chăm đến việc xoa và sờ nắn chiếc chăn giống như đang mơn trớn một người phụ nữ mà chẳng để ý gì đến Huân nữa cả.

Thấy Toàn cứ ôm khư khư cái chăn, và còn đang định đứng lên đi về lều của mình. Huân liền cất tiếng đòi lại cái chăn:

- Ừ, chú về thì cho anh xin lại cái chăn có được không?

Toàn đang ngơ ngẩn vì chiếc chăn như người mất hồn, chợt bừng tỉnh, tỏ ra có chút áy náy nhưng vẫn tiếc nuối nói:

- Hay là anh cho em mượn nó qua đêm nay đi, qua đêm nay thì em mang trả lại anh sau nhé?

Huân lắc đầu cười nói:

- Chú cứ đùa, thôi đưa cái chăn đây để anh đi ngủ nào!

Toàn vùng vằng không đưa, khiến Huân đỏ mặt tía tai đứng lên giằng lại. Hai người ban đầu còn nói khách sáo qua lại, nhưng sau cùng Huân tức quá bắt đầu to tiếng với Toàn. Hai người nảy sinh cãi vã khiến cả đoàn đều chú ý. Khanh là người chạy đến đầu tiên, thấy Toàn đang giằng cái chăn với Huân thì liền quát to:

- Toàn, buông cái chăn ra trả cho cậu Huân, mày làm gì mà như quân ăn cướp thế hả?

Toàn sẵng giọng nói liến thoắng:

- Tôi chỉ mượn anh ta một đêm thôi mà anh ta cũng không cho tôi mượn nó, đã thế lại còn lớn tiếng chửi tôi. Tôi nhất định không trả, xem xem anh ta có thể làm gì được tôi!

Huân cũng lớn giọng chửi lại:

- Mẹ khiếp! Tao đã nhẹ giọng với mày bao nhiêu lần rồi mà mày không biết ý. Không biết nhục thì để tao đấm cho mày biết thế nào là nhục!

Huân lao tới, bổ một cú đấm như trời giáng vào đầu của Toàn. Toàn tức mình, cũng liền ném tấm chăn qua một bên, lao vào quần đả với Huân đấm tới tấp.

Cả đoàn hỗn loạn một bầu, người hô hào khích động, người nhảy vào can ngăn. Trong cái lúc cháy nhà mới ra mặt chuột ấy, có kẻ hôi của cũng không có gì là lạ.

Huân với Toàn đánh nhau xong, cũng dần hòa hoãn rồi hai người làm hòa với nhau. Nhưng khi Huân quay trở lại lều thì thấy tấm chăn đỏ đã biến mất, bèn đi hỏi khắp nơi mà không ai nhận là mình đã lấy nó. Toàn thì vừa bị Huân đấm xưng cả mặt, nhất định không phải là người lấy rồi. Huân hậm hực lắm vì bị người ta thó mất. Mọi người trong đoàn cũng bắt đầu nảy sinh nghi ngờ lẫn nhau. Nhất là những người đã từng có ý định hỏi mua tấm chăn ấy của Huân thì lại càng tiếc, quay sang chất vấn nhau ra trò.

Đầu tiên là Hùng tìm Liên rồi nói:

- Liên, em nói thật đi, có phải là em nhân lúc cậu Toàn với cậu Huân đánh nhau, nên đã trộm mất cái chăn của cậu ấy không? Em là người thích cái chăn ấy nhất, không phải em thì không còn là ai khác…

Liên tức mình giở máu đàn bà, chua ngoa nói:

- Anh Hùng, anh nói cái gì, anh bảo ai ăn trộm. Tôi thấy anh mới chính là người như vậy, anh xem, anh râu ria xồm xoàm tướng như trộm cướp. Anh là đàn ông, anh khỏe như vậy, trong lúc hai người hùng hục đánh nhau thì anh lao vào thó mất cái chăn có phải không? Anh nói thật đi, đừng có vừa ăn cướp vừa la làng!

Hùng trợn trừng mắt đầy tức giận, trước nay anh chúa ghét người nào nói mình tướng trộm cướp. Bởi vì vóc dáng bẩm sinh đã là như vậy, không thể thay đổi, tính cách con người không thể dựa vào vóc dáng mà đoán biết. Vậy mà Liên lại nói Hùng là kẻ trộm, lại còn có tướng kẻ cướp thì Hùng càng cảm thấy cay hơn, giống như một mồi lửa bị đổ thêm dầu vào vậy.

Bốp!

Hùng lao tới túm tóc Liên tát vào má cô một nhát như trời giáng.

Cùng lúc ấy, Khanh cũng hùng hổ đi lùng sục khắp trại để tìm kiếm dấu vết tấm chăn đỏ mà không thấy. Khanh tức mình, quay ngược lại chỗ Huân nói to:

- Huân, có phải là chính cậu đã giấu cái chăn ấy đi, để mọi người không hỏi mua nữa có phải không? Cậu làm như vậy mà được à, làm mọi người mất đoàn kết nội bộ vì nghi ngờ lẫn nhau trộm cắp. Tôi đã khám hết lượt, chỉ còn cái lều của cậu là tôi chưa vào. Vậy thì nhất định là nó ở trong ấy chứ không sai!

Nghe Khanh nói vậy, Huân đang mất cái chăn nên buồn bã. Liền tức mình nổi máu điên, lao ra túm lấy cổ Khanh đấm bùm bụp vào mặt anh ta rồi liên tục gào lên:

- Mẹ khiếp, tôi còn cái chăn ấy thì đâu cần gì phải nói như vậy. Nó là đồ của tôi, tôi muốn bán cho ai thì bán, không bán thì sao? Liên quan gì mà tôi phải giấu đi…

Thấy cả đoàn nháo nhác tán loạn, chỉ vì một cái chăn. Tiến thân là trưởng đoàn, lại phải lao vào can ngăn từng nhóm một.

Đầu tiên là cuộc cãi vã của Hùng với Liên, Tiến phải ngăn cuộc cãi vã này sớm nhất. Vì Hùng đã đánh cho Liên đến bê bết máu, tóc cô xõa xuống rụng lả tả.

Sau đó là đến lượt can Huân một chặp, vì Huân cũng đã đánh cho Khanh đến bất tỉnh.

Tiến hòa giải mãi đến tận nửa đêm, thì mọi chuyện mới tạm êm xuôi. Ai nấy đều cảm thấy hậm hực rồi chui vào lều mà đi ngủ…

Nhưng mọi chuyện chưa dừng lại ở đó, đúng vào lúc nửa đêm. Một âm thanh rú tợn kinh hoàng vang lên, tiếng thét khùng khục như cổ họng của ai đó sặc nước.

Mọi người choàng tỉnh dậy thấy Liên đang từ trong lều của Hùng chui ra, mặt cô ta đẫm máu. Trong tay đang ôm khư khư cái chăn đỏ, cô ta gào lên:

- Chính là anh ta đã lấy nó, tôi đã tìm thấy nó trong lều của anh ta. Quân khốn nạn, anh ta đáng phải chết như vậy!

Liên nói xong liền hoảng sợ nhìn khắp tứ phía, rồi cô ta như sợ rằng có ai đó sẽ tranh cướp tấm chăn của mình. Nên đã lao ra nhảy lên chiếc xe máy, mà phóng xe chạy đi mất cùng với tấm chăn đỏ.

Khanh và Toàn đồng thời gào lên:

- Mẹ khiếp, con ả đó vừa giết người xong còn cướp lấy cái chăn chạy đi mất rồi. Tôi phải đuổi theo ả ta để dành nó lại!

Rồi cả hai người đều lần lượt lên chiếc xe của mình, phóng xe đuổi theo Liên.

Những người còn lại trong đoàn, thì đều sững sờ trước cái chết kinh hoàng của Hùng, và hành động man rợ quá khích của Liên vì một mâu thuẫn nhỏ. Không ai lại ngờ rằng chỉ vì một cái chăn mà lại xảy ra nhiều chuyện như vậy.

Mọi người bước vào trong lều của Hùng, thì thấy cổ của anh ta đã bị cắt đứt yết hầu, máu chảy lênh láng. Cặp râu quai nón của anh ta vương vãi đầy nước rãi chảy ra bám vào, vì trước khi chết anh ta đã sặc sụa nôn mửa toàn nước rãi và máu pha tạp. Hai cặp mắt đáng sợ của Hùng trợn trừng lên đầy kinh hãi vì không ngờ rằng Liên lại có thể làm việc ấy như vậy với anh ta.

Chưa hết, khi mọi người vừa kéo xác Hùng ra khỏi lều được không lâu, mong là có thể chạy chữa được gì cho anh ta không. Thì một tiếng nổ lớn vang lên, cuốn hút toàn bộ sự chú ý của đoàn người về phía ấy.

Bên kia đoạn đường, nhìn xuyên qua khoảng không của đoạn cua mép vực. Một chiếc xe máy cháy rừng rực lửa kèm theo một tiếng thét kinh hoảng kêu trong đêm, một người bay ra từ chiếc xe máy mà rơi xuống vực.

Tiếp đến, sau một lúc nữa thì mọi người lại thấy ở cuối khúc cua lại sáng đèn xe máy. Khanh trong trạng thái mệt mỏi, tóc tai bù xù phóng xe quay trở lại ôm khư khư cái chăn đỏ trong tay.

Anh ta dừng xe lại, dựng ở một chỗ rồi đi về phía khu đất trống. Đứng ở giữa đại lộ, anh ta chợt dừng lại hét lớn khoe với mọi người chiến tích của mình. Anh ta nói:

- Khốn khiếp thật, con ả đó ép chết cậu Toàn, khiến cậu ta phải lao xuống vực. Tôi đuổi theo mãi mới dành lại được cái chăn, nhưng lại để ả ta chạy thoát. Ả ta sẽ không thoát khỏi số phận lao tù đâu…

Khanh nói xong liền cười thích chí, cực kỳ đắc ý tung hứng tấm chăn rồi thản nhiên đi về phía khu đất trống.

Nhưng đúng lúc ấy, từ trên dốc đoạn cua, đột ngột xuất hiện một chiếc xe tải đi trong đêm với tốc độ rất cao.

Bíp…

Tiếng còi xe bất chợt kéo dài, người lái xe thảng thốt sợ hãi phanh gấp nhưng không kịp. Cả thân người Khanh chợt bị chiếc xe tải cán qua, bánh xe tải cán nát đầu Khanh khiến óc bắn phun ra ngoài. Cái đầu anh ta nát bét không còn có thể nhận dạng được nữa.

Mọi người thảng thốt kinh hoàng vì sự việc xảy ra quá gấp. Tai nạn xảy ra chỉ còn cách cái biển cảnh báo đúng vài mét…

Tấm chăn đỏ bị vung qua một bên, cùng với xác Khanh nằm ở dưới bánh xe cách đó chỉ độ chưa đầy nửa mét.

Từng tiếng kêu gào rú, tiếng khóc ảo não rợn người vang lên khiến ai nấy đều kinh hồn táng đảm. Còi xe tải vẫn rú mà không cách nào tắt đi nổi, chính người lái xe tải cũng hãi hùng vì không biết tại sao lại có một người đứng ở giữa đại lộ vào ban đêm như vậy. Chính vì trời đêm như vậy anh ta chủ quan nơi đường vắng không có người, nên mới phóng xe chạy nhanh đi qua đây, nhưng không ngờ lại gây ra tai nạn.

Từng thảm họa kinh hoàng xuất hiện, từ lúc tấm chăn đỏ này được Huân mang về.

Đến khi này Tiến đã không thể im hơi lặng tiếng, anh liền họp mọi người lại một chỗ rồi nhìn Huân phân tích nói:

- Khi mới ban đầu nhìn thấy cái chăn, lại cộng thêm sự miêu tả của cậu về cách cậu lấy được nó. Tôi đã biết được rằng rất có khả năng nó chính là tấm chăn trong một đoạn tư liệu truyền thuyết. Chỉ có điều tôi không cho rằng đó là sự thật, vì chỉ tin rằng nó là truyền thuyết, nhưng thật không ngờ…

Huân từ lúc nào đã chạy ra đại lộ lấy lại cái chăn đỏ, và lúc này anh đang ôm khư khư cái chăn trong tay nghe Tiến trình bày. Nghe thấy Tiến nói đến đây, không ít người liền hiếu kỳ. Một người phụ nữ khá đứng tuổi, tên Hòa cất giọng hỏi:

- Chú nói vậy là sao hả chú Tiến, cái truyền thuyết ấy là gì, chú có thể kể lại rõ ràng được không?

Tiến gật đầu hắng giọng nói:

- Tất nhiên là được! Nhưng chỉ có điều trước khi kể, tôi có một lời đề nghị nho nhỏ. Là cậu Huân có thể đem tấm chăn ấy đi đốt bỏ được không?

Huân lắc đầu, vẫn cứ ôm khư khư lấy cái chăn, nhất định không đồng ý với cách làm của Tiến. Tiến thở dài bất đắc dĩ, không còn cách nào khác bèn kể lể lại tường tận.

Đoạn tư liệu ấy có trong một cuốn sách của Nga, là một đoàn thám hiểm của bọn họ thời cuối kỳ dân quốc của Trung quốc đã đến thám hiểm quốc gia này. Và cũng phát hiện ra một tấm chăn tương tự như vậy của một phụ nữ người Miêu ở Vân Nam. Đoàn thám hiểm này sau cùng gần như chết toàn bộ, người duy nhất sống sót kể lại câu chuyện rằng anh ta đã lạc vào một thế giới của những con quỷ. Thế giới ấy được người Miêu cổ miêu tả lại là một vương triều của quỷ. Vương triều này tồn tại song song với thế giới thực, cứ mỗi một trăm năm thì lại có một tấm chăn đỏ xuất thế, lấy mạng người để nuốt đủ số máu, khiến cho cổng vương triều được mở ra. Sau đó sinh ra chiến loạn và thu thập đủ thi cốt xây dựng thành một tòa lâu đài xương người. Khi tòa lâu đài này xây dựng xong, cũng là lúc nữ chúa quỷ hồi sinh. Khi ấy sẽ là điểm kết thúc của một dân tộc… Truyền thuyết này được người Miêu kể lại, và câu chuyện xác thực được đoàn thám hiểm kia cũng xác nhận. Sự việc ấy chỉ khiến cho người khác chê cười, khiến nó thành một đoạn tư liệu bị lãng quên mà không mấy người cho là thật.

Tiến chép miệng rồi nói:

- Thật không ngờ, những thứ chỉ có trong truyền thuyết của người Miêu, lại có thể một lần xuất hiện trước mắt tôi. Chính tích truyện ấy là nguyên nhân sâu xa hơn giải thích vì sao dân tộc Miêu lại bị tan vỡ, và lưu lạc khắp các quốc gia. Âu cũng chính là do nữ chúa quỷ đó đã hồi sinh một lần…

Huân nghe Tiền kể xong, liền trầm trồ nói:

- Anh Tiến, nếu những điều mà anh nói là thật, thì quả thực là tôi đã nhìn thấy tòa lâu đài bằng xương người đó!

Tiến chợt hoảng sợ đứng phắt dậy, anh ta chợt hỏi dồn:

- Cậu nói cậu đã từng nhìn thấy tòa lâu đài bằng xương người? Vậy thì hỏng rồi!

Khuôn mặt Tiến dần chuyển sang tái mét, Hòa liền cất giọng hỏi Tiến:

- Sao vậy?

Tiến nói:

- Nếu như quả thực là cậu ta nhìn thấy tòa lâu đài bằng xương người, thì hẳn là nữ chúa quỷ phải được hồi sinh rồi mới đúng. Nếu vậy thì sẽ có không ít người chết đâu!

Nhưng Huân lại cười:

- Anh Tiến đừng sợ, em nói nhìn thấy, là hình như trong ảo giác thì phải, khi trong lúc ảo giác ấy. Hình như chính tay em đã phá hỏng nó, bởi vì khi em vừa mới chạm vào, thì tòa lâu đài ấy đã bị vỡ vụn ra thành bụi…

Tiến lắc đầu nói:

- Ảo giác cũng không thể xem thường, vì nếu là ảo giác ấy đã mở ra thì chứng tỏ là cánh cổng dẫn đến vương triều của quỷ đích thực thật tồn tại. Nếu điều đó là thực, thì đốt bỏ tấm chăn cũng không ích gì. Vì khi cậu đốt bỏ nó, theo như lời đoàn thám hiểm kia, nó sẽ lại hiện lên. Cách duy nhất là chỉ có thể đem tấm chăn này đặt lại y nguyên chỗ cũ. Hay chính xác hơn là đem nó ném lại vào cánh cổng ấy, để cho cánh cổng vĩnh viễn đóng lại. Chúng ta phải làm điều này thật nhanh, nếu không tất cả sẽ chết hết!

Hiếu, một thanh niên trong đoàn chợt cất giọng cười nói:

- Ôi bác Tiến cứ đùa, những chuyện tai nạn như vậy chỉ là trùng hợp, bác cũng không nên vì mấy việc này mà căng thẳng quá như vậy. Theo tôi thấy, trước hết chúng ta cần phải trình báo những chuyện này cho cơ quan chức năng biết. Chết hẳn ba mạng người thì không phải là chuyện đơn giản đâu. Còn phải báo sớm cho công an để bắt Liên lại, cô ta điên rồi… Không biết còn sẽ làm ra những hành động dại dột gì!

Nghe Hiếu nói như vậy. Tiến không cho là đúng, anh nói:

- Được rồi, nếu cậu không tin, thì đoàn chúng ta tách làm hai nhóm. Một nhóm về thị trấn Nậm Nhùn báo cho lực lượng chức năng biết để đến giải quyết. Một nhóm còn lại theo tôi và cậu Huân tới nơi mà cậu ta phát hiện ra tấm chăn này, và trả về chỗ cũ. Mọi việc cần phải giải quyết nhanh chóng trước khi trời sáng.

Nghe Tiến phân tích, hơn một nửa số người trong đoàn đồng ý, và bọn họ chia đôi số người ra. Một nhóm thì đi theo Hiếu, nhóm còn lại đi theo Tiến. Nhóm của Tiến gồm có Huân, Hòa và Đức. Nhóm của Hiếu thì có Lương, Triều và Nghĩa.

Hai nhóm chia đôi mỗi nhóm chọn một hướng ngược nhau từ khúc cua mà phóng xe đi thẳng.

Từ lúc này đến khi trời sáng còn khoảng ba tiếng đồng hồ nữa. Mọi chuyện cần phải làm thật nhanh trước khi trời sáng, hơn nữa theo như lời Tiến nói. Nếu không giải quyết nhanh chóng tấm chăn đỏ, thì số lượng người chết sẽ tiếp tục tăng lên.

Theo lời kể của Huân, bọn họ nhanh chóng tìm được lối đường mòn mà Huân đã đi lạc, sau ba mươi phút đi đường.

Con đường nhỏ ấy phải khuất sau một cái gốc cây bạch đàn thật lớn. Xa xa có thể dõi theo là những nương ngô xanh mơn mởn. Trời đêm tối đen, nên nhóm người không thể nhìn rõ quang cảnh của nương ngô, chỉ có thể nghe thấy tiếng gió xào xạc kêu loạt xoạt bên những rặng ngô kéo dài.

Còn đường mòn nhỏ đâm sâu vào trong thâm cùng ngõ hẻm của những ngọn núi heo hút nhất.

Mới đầu còn thấy một vài làng bản, vào sâu trong nữa thì chỉ còn thấy những ngôi nhà lác đác thưa thớt trống chọi duy nhất bên sườn đồi để canh nương ngô.

Vào sâu thêm trong nữa thì chỉ còn lại những căn chòi canh nương xiêu vẹo lệch lạc như đã từ lâu không có người ở.

Cuối cùng, nhóm người của Tiến cũng đã tìm ra điểm kết thúc của con đường. Và quả đúng như lời Huân miêu tả, ở đoạn cuối con đường quả thực là có một ngôi nhà nhỏ xíu như ngôi nhà ma vậy. Ngôi nhà nằm chính diện ở cuối con đường mòn, và ở phía sau nó thì không còn bất cứ một lối đi nào nữa cả.

Nhóm người đồng loạt dừng lại trước cửa ngôi nhà. Tiến dựng xe một bên, rồi quay sang hỏi Huân:

- Cậu chắc chắn là mình đã lấy tấm chăn này ở đây có đúng không?

Huân gật đầu chắc chắn, rồi chỉ tay nói:

- Em chắc chắn, cái chăn này chính xác là được treo ở cái bờ rào kia. Chính tay em đã lấy nó xuống và đã vào trong căn nhà ấy, và gặp một người đàn bà dân tộc, hỏi mua bà ta tấm chăn này.

Tiến nhíu mày cảm thấy kì lạ, nếu tấm chăn này được lấy một cách đơn giản như vậy. Vậy thì cánh cổng địa ngục kia ở đâu ra?

Cuối cùng Tiến gật đầu nói:

- Được rồi, chúng ta đều tiến vào trong hỏi thăm một chút xem sao! Một người ở lại trông xe…

Huân cùng với Tiến với Hòa bước vào trong căn nhà nhỏ xíu. Vẫn một cái quang cảnh như vậy, trong nhà đèn không hề thắp, và vẫn có một người đàn bà dân tộc ngồi lui cui một góc, đang nhóp nhép nhai một thứ gì đó trong miệng. Thứ đó nhễu xuống như một thứ chất nhầy nhớp nháp nhầy nhụa tanh hôi.

Người phụ nữ đó có cái khăn che nửa khuôn mặt, chỉ hở ra một cái miệng đỏ lòm đang nhai một khúc thịt đầy xương xẩu.

Hòa không chịu được, nôn thốc nôn tháo ra tại chỗ. Chỉ có Tiến là bình tĩnh, rọi cái đèn pin vô phía người phụ nữ mà cất giọng hỏi:

- Bà có phải là chủ nhân của tấm chăn này không?

Tiến chỉ về phía cái chăn mà Huân đang cầm trên tay. Người đàn bà đó bắt đầu mở miệng nói, bà ta nói tới đâu là mùi hôi thối bắt đầu bay lên khủng khiếp tới đó. Thứ ngôn ngữ của bà ta bằng tiếng dân tộc đáp lại mà toàn bộ đều không ai có thể hiểu được ngoài Tiến.

Tiến vừa nghe vừa nhíu mày phân trần. Một lúc sau Huân liền quay sang hỏi:

- Bà ta nói cái gì vậy anh?

Tiến giải thích nói:

- Đại thể thì tôi không hiểu nhiều cho lắm, nhưng ý của bà ta chính là muốn nói, kẻ nào đã lấy trộm cái chăn vì không được sự đồng ý của ba ta, sẽ phải bán linh hồn cho quỷ.

Huân liền nói:

- Tôi không hề lấy trộm nó, tôi đã hỏi mua bà ta nhưng bà ta không hề bán. Sau cùng khi tôi tỉnh lại thì không hề thấy bà ta nữa, nên cũng không trả lại được, nên đâu phải tôi làm chuyện đó.

Tiến cũng gật đầu nói:

- Phải, bà ta cũng nói anh không phải là kẻ ăn trộm, vì chính bà ta đã cố tình trao nó cho anh. Kẻ bán linh hồn cho quỷ thực sự, chính là kẻ đã ăn trộm tấm chăn từ tay anh kia…

Huân sững sờ, một lúc sau mới lắp bắp nói:

- Kẻ ăn trộm cái chăn này của tôi ư? Không phải là anh Hùng sao? Anh ta giờ đã chết…

Tiến gật đầu, liền quay sang nói với người phụ nữ dân tộc kia giải thích. Người phụ nữ đó lắc đầu, và trả lời lại bằng tiếng dân tộc. Tiến nghe xong liền phân tích cho Huân:

- Bà ta nói kẻ bán linh hồn cho quỷ chưa thực sự chết. Phải khi nào kẻ đó chết rồi anh mới có thể đem tấm chăn trả lại bà ta và kết thúc mọi chuyện…

Huân nhíu mày, suy nghĩ một lúc, chợt có một thắc mắc:

- Mà anh có hỏi được xem bà ta là ai, mà lại có thể biết được chuyện này rõ như vậy?

Tiến nói:

- Bà ta là một trong những hậu nhân cuối cùng của vị Mo già người Miêu. Có nhiệm vụ canh giữ tấm chăn đỏ này… Nhưng khi anh lấy nó, bà ta đã biết mình không ngăn cấm được, vì đã có lời tiên tri từ trước đó. Người lấy được tấm chăn sẽ có cách để chấm dứt lời nguyền tấm chăn đỏ.

Huân gật đầu nói:

- Được rồi, vậy anh thử suy nghĩ xem, nếu như theo lời bà ta nói, quả thực là có kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ. Vậy kẻ đó là ai mới đúng…

Tiền trầm ngâm một lúc, cuối cùng gằn giọng nói:

- Có thể là Liên, cũng có thể là Toàn!

Cả ba người trong phòng đăm chiêu, Hòa nói:

- Nhưng Toàn đã chết ở dưới vực rồi cơ mà! Chính Khanh đã nói việc ấy!

Tiến lắc đầu nói:

- Chưa chắc, Khanh lúc ấy đã bị quỷ nhập, gã ta chỉ bịa đặt ra mà thôi. Chưa biết chừng người rơi xuống khi ấy là Liên chứ không phải là Toàn.

Hòa kinh ngạc trước suy đoán của Tiến, liền hỏi:

- Vậy Toàn đã đi đâu?

Tiến lại lắc đầu nói:

- Tôi không biết, nhưng tôi chắc chắn rằng bây giờ chúng ta phải đi tìm kiếm tung tích của cả hai người đó.

Chợt người phụ nữ dân tộc cũng liền cất giọng nói một chặp. Tiến liền càng cho rằng suy đoán của mình là đúng. Anh ta nói:

- Bà ta lưu ý rằng kẻ bán linh hồn cho quỷ, thực sự lại chính là đàn ông!

Cả ba người đều đồng tình người đó rất có thể là Toàn. Rồi họ bắt đầu quay đầu trở ra xe muốn quay về chỗ khu vực cắm trại cũ để tìm kiếm tung tích của Toàn.

Nhưng khi quay trở lại chỗ những chiếc xe, bọn họ lạ thấy Đức đã mất tích, bèn chia nhau đi tìm. Nhưng tìm mãi, tìm mãi mà chẳng thấy Đức đâu cả. Cuối cùng thì Tiến lựa chọn ở lại tìm kiếm tung tích của Đức, còn để Huân với Hòa trở về khu lều cắm trại để tìm Toàn.

Huân với Hòa đồng ý, cả hai người phóng xe như điên dại về chỗ cũ. Một tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ khi họ đến đây, chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa là trời sáng. Huân với Hòa phải nhanh chóng trở về khu lều trại, và xác định xem anh ta có phải thật sự là kẻ đã bán linh hồn cho quỷ dữ hay không, nếu thực sự là như vậy, thì họ phải giết anh ta ngay.

Khi họ về đến khu lều trại, thì quả nhiên thấy Toàn đang ở đó thật. Mặt anh ta xước xát bê bết toàn máu, mắt anh ta chợn trừng và trông như một kẻ mất hồn.

Huân tiến tới gần Toàn, kêu lên:

- Toàn, cậu thực sự không chết?

Toàn sửng sốt, quay sang hỏi Huân:

- Mọi người đi đâu hết cả vậy, tại sao ở đây không còn ai. Kia có phải là xác Khanh không, vì sao cậu ta lại chết thương tâm như vậy?

Huân không giải thích, mà chỉ tiếp tục hỏi Toàn:

- Toàn, Liên đâu? Có phải là câu đã giết cô ta rồi không?

Toàn lắc đầu nói:

- Thực sự tôi không có giết cô ta. Cô ta đẩy tôi ngã xe xuống vực, may mà không chết. Rồi chạy xe thoát ngược trở lại, phi xe về phía trại. Chẳng lẽ mọi người không nhìn thấy!

Huân sửng sốt, liền quay sang hỏi Hòa:

- Cô ta đã phi ngược trở lại con đường này? Vì sao tôi lại không nhìn hay nghe thấy tiếng xe của cô ta nhỉ?

Toàn nhếch mép cười nhạt nhẽo:

- Anh không biết ư? Loại xe của cô ta rất hiện đại, có thể tắt được cả tiếng động cơ khi cần. Cô ta chỉ cần tắt đèn và tắt động cơ khi phi qua chỗ này là xong. Chẳng lẽ Khanh trước khi chết không nói điều này cho các người à? Rằng cô ta đã quay trở lại?

Hòa nói:

- Không hề!

Huân gật đầu phân tích:

- Có thể là khi chúng ta vào đem xác anh Hùng trong lều, không còn ai chú ý tới ngoài đường đại lộ nên mới để cô ta chạy thoát. Hơn nữa Khanh chết nhanh quá, nên không kịp đem chuyện ấy nói cho chúng ta biết!

Hòa gật đầu nói:

- Có lẽ đúng là như vậy, nhưng mà…

Nói đến đây, hai người dường như đều không nói mà nhất loạt hiểu ý nhau. Cả hai đồng thanh hoảng sợ kêu lên:

- Hỏng rồi, người đàn bà trong căn nhà đó…

- Rất có thể chính là ả ta…

Cả hai người đều hãi hùng kinh sợ, và đột nhiên sợ hãi lo cho tính mạng của Tiến và của Đức lúc này.

Toàn ngạc nhiên hiếu kỳ quay sang hỏi hai người:

- Hai người làm sao vậy?

Huân liền giải thích:

- Liên, ả ta đã lừa chúng tôi. Ả ta hóa trang thành một mụ già người dân tộc, rồi lừa chúng tôi rằng anh chính là kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ. Ả ta muốn tách tất cả chúng ta ra riêng lẻ, rồi giết từng người một!

Toàn đột nhiên đứng phắt dậy, tức giận nói:

- Ả ta ở đâu? Tôi phải băm vằm ả ra cho hả giận, chính ả đã giết chết anh Hùng, gián tiếp hại chết Khanh. Còn suýt giết chết tôi vì đã đẩy tôi xuống vực nữa…

Huân nhìn đồng hồ, cau mày rồi khẩn trương nói:

- Còn hai giờ đồng hồ nữa là trời sáng. Nghe anh Tiến nói, trời sáng là sẽ không thể tìm ra được căn nhà đó nữa đâu!

Nghe Huân phân tích xong, cả ba người đều gấp rút lên xe máy phóng ngược trở lại nơi mà Huân nói rằng rất có khả năng là Liên đang ở đó.

Ba người phóng xe thêm một lúc thì đã quay trở lại vị trí tọa lạc căn nhà đó. Và tại vị trí đó lúc này. Ba người bàng hoàng nhận ra một sự thật kinh khủng. Tử lúc nào đã có một cái đầu lâu treo lủng lẳng ở cái thanh xà lan của căn nhà gỗ. Và gió đang đung đưa cái đầu lâu có cái lưỡi lè ra nhẹ nhàng du dương như một bản hòa nhạc kinh dị trong nhà thờ vậy. Chiếc đầu lâu đó, không ai khác lại chính là của Đức…

Huân gật đầu khẳng định nói:

- Chúng ta suy đoán không sai, ả ta thực sự ở đây!

Hòa thở dốc một lúc sau khi nôn xong, mới bình tĩnh lại được, chợt hỏi:

- Vậy Tiến đâu?

Huân nhíu mày khoát tay nói:

- Đi, chúng ta vào trong đó tìm kĩ thử xem!

Ba người dè chừng chậm rãi tiến vào trong căn nhà.

Bước vào trong căn nhà, cả ba người đều không nhìn thấy người phụ nữ dân tộc, mà trước đó đã ngồi ở đó như thường lệ ở đâu. Chỉ thấy một người đàn ông đang bị trói chặt, rồi bị nhét rẻ vào miệng kêu rên ư ử ở một góc, người đó chính là Tiến…

Cả ba hoảng sợ, Toàn toan chạy đến giải cứu cho Tiến, nhưng Tiến cứ lắc đầu rên ư ử ra hiệu cho Toàn đừng lại gần.

Toàn không nghe, vẫn cư bước lại gần. Ngay sau đó, chỉ chưa được ba bước, cả thân hình Toàn đơ cứng khựng lại, đứng như đá tại một chỗ. Toàn đã chết…

Một cái cọc gỗ xuyên qua đầu anh ta, dưới chân anh ta là một cái bẫy dập bằng gỗ. Chỉ cần anh ta dẫm vào đó, một cái cọc gỗ sẽ được bắn ra xuyên qua đầu anh ta, cho dù nó có lệch và xuyên xuống dưới thì Toàn cũng chết. Chính Đức đã cố ngăn cản Toàn, nhưng Toàn vẫn cứ bước đến và cuối cùng phải nhận lại hậu quả là chính tính mạng của mình.

Khanh khách!

Bất chợt có tiếng cười lanh lảnh vang lên trong đêm.

Huân và Hòa đồng loạt quay đồng ngược trở lại nơi có tiếng cười phát ra. Huân phát hiện, ở phía sau rặng ngô có dáng người con gái xõa tóc đang lẩn khuất, thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây ngô.

Hòa mặc kệ cái bóng người ấy, cô quay sang nhìn Tiến hỏi:

- Làm thế nào để cứu anh? Bây giờ chúng tôi qua được chưa?

Tiến liên tục gật đầu, Huân và Hòa đoán chừng không còn có nguy hiểm gì nữa, liền đi qua cởi trói giải cứu cho Tiến.

Được một lúc, dây thừng buộc Tiến đã được tháo hết ra. Anh ta thở hổn hển ngớp lấy từng ngụm khí, rồi nói lấy nói để như chưa từng được nói:

- Đó là Liên, cô ta chưa có chết!

Huân với Hòa gật đầu tỏ vẻ đã biết, Huân hỏi:

- Vậy bây giờ chúng ta nên làm gì, giết cô ta là xong ư?

Tiến nói:

- Cô ta chính là chìa khóa, chỉ cần bắt được cô ta, quấn tấm chăn đỏ chung với cô ta rồi đốt đi, ngay tại nơi này. Là chúng ta có thể kết thúc được ác mộng này!

Huân gật đầu, rồi chợt hiếu kỳ hỏi:

- Anh làm gì mà lại để cô ta bắt được vậy? Còn người đàn bà dân tộc đó đâu? Liệu người đàn bà đó có phải chính cô ta hóa trang thành?

Tiến lắc đầu, anh ta nói:

- Chuyện kể ra rất dài dòng. Trước hết cứ phải bắt được cô ta đã…

Huân gật đầu rồi nói với Hòa:

- Cô với anh Tiến cứ ở lại đây nghỉ ngơi trông chừng những cái xe đi. Để tôi đuổi bắt cô ta…

Tiến gàn:

- Không được, để tôi đi với cậu!

Huân nói:

- Có mình chị Hòa ở đây tôi không yên tâm, để tôi đi bắt cô ta là được rồi!

Nói xong, Huân lao ra bên ngoài lùng vào những lùm cây. Anh lùng theo dấu vết những cây ngô đổ rạp, cuối cùng anh lùng mãi thì cũng thấy bóng Liên thấp thoáng ở sau một đám cây ngô. Huân rình rập như hổ, chờ đợi một chút rồi vồ lấy một cú chắc nịch.

Cả thân người anh đổ rạp về phía ấy, tóm gọn được Liên ôm chặt. Liên vùng vặng giãy dụa muốn chạy. Nhưng thân người cô ta yếu ớt vô lực, cô ta ú ớ gì đó nhưng không nói được.

Huân cứ thế ôm chặt cô ta rồi kéo cô ta quay ngược trở lại căn nhà. Trên đường quay ngược trở lại căn nhà, Huân thấy Liên cứ rơi nước mắt liên tục, cô ta đang khóc, Huân cảm thấy hơi khó hiểu.

Bắt được Liên, Huân áp giải cô ta vào trong căn nhà gỗ, rồi nói với Tiến:

- Tôi bắt được cô ta rồi, nhưng tấm chăn đỏ ấy đâu? Phải nhanh lên, không thì trời sáng mất!

Tiến gật đầu rồi nói:

- Được rồi, để tôi quay ra xe lấy, tôi vẫn còn để trên xe. Cậu giữ cô ta nguyên đó…

Nói rồi Tiến quay đầu chạy ra ngoài. Huân thở dốc sau cuộc truy đuổi Liên, lúc này anh mới để ý kĩ, thì ra Liên đã bị thương ở chân, thảo nào mà anh lại có thể bắt cô ta dễ dàng như vậy. Suy nghĩ một lúc, anh chợt nhớ tới Hòa, không thấy Hòa đâu, anh dáo dác đảo mắt đi tìm. Thì liền trợn mắt kinh hãi, vì Hòa từ lúc nào đã bị treo cổ lủng lẳng trong một góc khuất tối của căn nhà.

Đến lúc này, anh chợt nhận ra một sự thật cực kỳ kinh hãi. Anh hét lên:

- Tiến, mày chính là kẻ đã bán linh hồn cho quỷ sao?

Huân bàng hoàng buông Liên ra toan quay đầu lại, thì đúng lúc này một vật nặng như trời giáng gõ vào đầu anh. Huân chết hộc máu ngay tại chỗ, còn lúc ấy, hình bóng kẻ sát nhân hiện ra. Tiến khục khặc cười nói:

- Phải, chính tao đã trộm cái chăn đỏ ấy, và vu cáo cho thằng Hùng. Đồ ngu, mày không nghe thấy mụ già ấy nói rằng kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ, chính là đàn ông sao?

Giờ đây chỉ còn Liên và Tiến là hai người còn sống sót. Liên nhìn Tiến với vẻ đầy hoảng sợ, cô đã bị Tiến cắt lưỡi từ lúc nào…

Tiến tiến tới gần Liên, xoa đầu vuốt ve cô rồi nói:

- Màn kịch đã kết thúc, chúng mày cũng chỉ là vật tế cho tấm chăn mà thôi. Còn vài người nữa thôi là nghi lễ sẽ kết thúc…

Giọng cười của Tiến vang lanh lảnh trong đêm, một bà già dân tộc lùi lũi đi lên từ căn buồng dưới lòng đất. Bà ta chậm rãi kéo từng cái xác xuống hầm, rồi chậm rãi chặt từng khúc thịt phân loại để ăn dần.

Còn Tiến thì rút từ túi áo ngực ra một tấm thẻ chứng mình thư, xé bỏ nó…

Gã quay sang nhìn Liên với vẻ đầy lạnh lùng.

Một tiếng kêu khản đặc vang lên như lợn bị cắt tiết giữa màn đêm, hình bóng người con gái gục xuống. Liên đã bị Tiến chết…



Ba tháng sau.

Ờ đầu lối đường mòn nhỏ, một người đàn ông ngơ ngác phi xe phóng vào lối đường nhỏ. Anh ta như bị ma xui quỷ khiến, tự động kì quái muốn khám phá con đường.

Khitới điểm cuối con đường mòn nhỏ, anh ta chợt phát hiện ra tấm chăn đỏ đang vắt ở trên bờ rào bọc quanh căn nhà nhỏ ấy. Anh ta liền thích thú reo lên:

- Ôi! Tấm chăn đẹp thật, mình phải vào đó hỏi xem có thể mua được nó hay không mới được…

Hết!

Ngạ Quỷ
 
Chương 5: Dưới mồ Huyệt hoang


(Truyện ngắn nằm trong series truyện ngắn kinh dị Lời Thề Huyệt Hoang của tác giả Ngạ Quỷ)

Trên bầu trời, từng đợt mưa sao băng có màu sắc kì lạ quét qua, từng vệt sáng nhàn nhạt màu xanh lá cây thẫm trông rất kì dị.

Trên Biển sóng vỗ gầm gào, như con dã thú miền viễn cổ bị đè ép vô vàn năm tháng đang muốn trỗi dậy.

Theo vĩ tuyến 16, cách thành phố Đà Nẵng 40 hải lý. Xuất hiện một cái lỗ đen sâu hoăm hoắm, giống như một vòng xoáy hút cạn mọi thứ xung quanh. Nếu một ai đó đam mê khoa học, hẳn sẽ phát hiện ra nó trông giống như một cái lỗ đen vũ trụ được hình thành giống dải thiên hà, cách xa Trái Đất của chúng ta hàng triệu năm ánh sáng.

Cái xoáy lỗ đen cứ mở rộng dần, mở rộng dần. Sau cùng trồi lên một ụ đất rất lớn, rồi hình thành một hòn đảo nhân tạo.

Tại trạm kiểm soát không lưu, tiếng radio bỗng nhiên bị ngắt đứt quãng. Hàng loạt chuyến bay không thể liên lạc với sân bay. Bầu trời đầy bão tố nổi lên và những mảng sao băng kéo theo dày đặc, và kì lạ thêm ở một điểm là chúng chỉ mang toàn màu xanh lá cây.

- TKS, chuyến bay Jetstar BL 220 xin phép được hạ cánh…

Âm thanh của cơ trưởng vang lên đều đặn dồn dập, nhưng không có tiếng đáp lại từ trạm không lưu. Cơn bão ngày càng mạnh, và họ chẳng thể nhận ra được những gì mà mình đang gặp phải vào lúc này.

Máy bay chao đảo, vật lộn giữa không trung. Hành khách bay lên và trùng xuống, nếu không nhờ dây an toàn thì có lẽ thân người họ đã bị đập vào sàn vô số lần.

Mồ hôi cơ trưởng ướt đẫm, vẫn liên tục bấm tín hiệu truyền về trạm kiểm soát hòng cầu cứu. Nhưng vẫn không thể liên lạc được, mọi tín hiệu sóng vô tuyến đều bị chấm dứt.

Rất lâu sau, máy bay ngừng trao đảo. Bầu trời chuyển sang yên tĩnh lạ thường. Cơ trưởng gạt mồ hôi thở phào nhẹ nhõm, cứ ngỡ cơn ác mộng đã qua.

Nhưng điều đó chẳng được bao lâu, vì khi mà chiếc máy bay vừa thoát ra khỏi đám mây phủ kín dày đặc. Thì đôi mắt người cơ trưởng đã mở to đầy kinh hãi và kêu lên thất thanh:

- Ôi…



Tại trạm kiểm soát không lưu, tín hiệu rada mập mờ trong phút chốc lại có thể liên lạc được.

Người ta nghe thấy qua sóng radio vang lên tiếng âm thanh thất thanh của vị cơ trưởng. Sau đó, tín hiệu lại lâm vào tình trạng ngắt quãng, từng tiếng tút tút vang lên dày đặc.

Trưởng bộ phận kiểm soát không lưu Đỗ Hào Quyền lập tức ngồi bệt xuống ghế, đôi mắt thẫn thờ đầy vẻ kinh sợ.

Thấy Quyền có hành động lạ như vậy, một nhân viên trạm không lưu lên tiếng hỏi:

- Trạm trưởng, có chuyện gì xảy ra vậy?

Quyền dùng đôi mắt đờ đẫn, cực kỳ hoảng sợ quay sang nhìn anh ta và nói:

- Xong rồi, đây chính là lần đầu tiên trong lịch sử, là thảm họa, là tai họa. Ngành hàng không Việt Nam đã phải hứng chịu một tai họa lớn…

Người nhân viên không hiểu, anh ta hỏi lại:

- Trạm trưởng, anh nói gì kia?

Quyền run run giọng nói:

- Toàn bộ 236 người, trên chuyến bay BL 220 đều đã tử nạn. Lập tức báo cáo cấp trên…

Quyền vừa nói ra lời này, tất cả những tiếng động, tiếng gõ bàn phím, tiếng hô hào trong trạm kiểm soát không lưu đều ngừng bặt. Từng đôi mắt với vẻ kinh khủng dần xuất hiện, họ chậm rãi ngước lên nhìn màn hình địa đồ ra đa.

Một chấm đỏ khi nãy còn hoàn toàn ngắt quãng, bây giờ đã hoàn toàn biến mất.



Năm phút sau.

Một sĩ quan quân đội khá trung tuổi đeo hàm thiếu tướng. Dẫn theo một đám sĩ quan quân đội bước vào đài kiểm soát không lưu.

Quyền nhanh chóng đứng lên nghiêm người chào hỏi.

Thiếu tướng kia trên ngực có đeo biển tên Hoàng Trung Kiên, gạt tay ra hiệu cho Quyền ngồi xuống.

Thiếu tướng Kiên nhìn chằm chằm vào bản đồ rada rồi trầm giọng hỏi:

- Sự việc nhiễu rada xảy ra cách đây đã lâu chưa?

Quyền nghiêm người báo cáo:

- Thưa thủ trưởng, rada mất sóng vào chín giờ tối hôm qua, nhưng chỉ chập chờn không rõ ràng. Khi ấy trời chưa có mưa bão. Chỉ mới đây khoảng một giờ đồng hồ mới bắt đầu có tình hình xấu xuất hiện…

Thiếu tướng Kiên nghiêm giọng lại hỏi:

- Tại sao đồng chí lại chắc chắn rằng chuyến bay đó đã gặp nạn, mà không phải chỉ vì mất sóng rada thông thường?

Quyền nhanh chóng nói:

- Xin phép thủ trưởng!

Thiếu tướng Kiên gật đầu đồng ý.

Quyền tiến tới gần bản đồ rada, dùng một chiếc bút ăng ten kéo dài trỏ vào màn hình giải thích nói:

- Cách trạm kiểm soát không lưu khoảng độ 40 hải lý, xuất hiện một vùng nhiễu từ trường, nơi này rada không thể hoạt động. Có thể đây là một vụ thử hạt nhân của Triều Tiên, gặp đúng thời tiết mưa bão nên bị bắn đến vùng này. Khiến cường độ phóng xạ dày đặc làm xuất hiện tình trạng nhiễu rada tạm thời. Nếu suy đoán này là đúng, thì chuyến bay đó chắc chắn đã gặp tai nạn vì bị tên lửa bắn hạ. Và còn một sự suy đoán thứ hai…

Quyền dừng lại một chút, dường như vấn đề đến đây thì liền có điều khó nói. Thiếu tướng Kiên thiếu nhẫn nại, thúc giục:

- Vấn đề thứ hai là gì?

Quyền ngẫm nghĩ một hồi rất lâu sau mới dám trả lời:

- Thưa thủ trưởng, hộp đen liên kết với máy bay đã bị nổ tung. Suy đoán không chút thực tế nên tôi không dám nói…

Thiếu tướng Kiên lại hỏi:

- Vì sao đồng chí biết là nó bị nổ tung?

Quyền trả lời:

- Là vì nó có một đoạn mã liên kết với trạm không lưu, khi nó bị nổ đúng lúc thì còn có thể liên lạc lại được. Một dòng mã sẽ được gửi về để báo động…

Quyền nói lời này, vô số người đứng phía sau anh cũng xôn xao nghị luận:

- Đúng vậy, khi ấy thật trùng hợp ở chỗ đúng lúc có tin báo tử. Thì rada lúc đó lại liên lạc được…

Thiếu tướng Kiên vỗ bàn quát lên:

- Đề nghị mọi người trật tự…

Rồi lại nhìn Quyền nhấn mạnh nói:

- Còn điều đồng chí cho rằng không thực tế thì sao? Nói ra rõ ràng, không được giấu giếm. Không thực tế cũng phải nói…

Quyền tỏ vẻ gian nan, khó xử, một lúc sau mới bấm bụng nói liều:

- Khả năng biến cố nữa. Là không phải máy bay gặp nạn vì thử hạt nhân của Triều Tiên, cũng không phải gặp nạn vì bão tố. Mà là vì, mưa sao băng… Có giấu hiệu của nhân loại, ngoài hành tinh.

Chữ nhân loại ngoài hành tinh được Quyền nhấn mạnh. Thiếu tướng Kiên sửng sốt khi nghe tới đây liền cau mày nói:

- Điều đồng chí nói quả là thật sự rất viển vông. Nhưng tôi cho rằng nếu đồng chí đã nói ra như vậy thì hẳn là phải có căn cứ chứ hả. Căn cứ vào đâu?

Quyền nhanh nhảu, chạy đến bàn vi tính, bật một đoạn thu âm sóng radio phát lên rồi nói:

- Mời thủ trưởng nghe kĩ phân đoạn ghi âm này…

Tiếng âm thanh phát lên, một loạt những thứ tiếng nhì nhằng không rõ là nói gì. Xen lẫn trong đó là tiếng kêu gào hoảng loạn của phi hành đoàn. Cuối cùng là một tiếng thét của cơ trưởng chuyến bay và một dòng mã lệnh đọc tự động được truyền đến trạm kiểm soát.

Thiếu tướng Kiên mặt mày nhăn nhó, lại hỏi tiếp:

- Đúng là có tiếng động lạ, nhưng chưa đủ căn cứ.

Quyền lại tiếp tục giải thích:

- Cách đó ba mươi phút, tôi cũng bắt được một tín hiệu tương tự, không phải từ phi hành đoàn, nhưng cũng có âm thanh y như vậy. Chỉ có điều nơi mà nó xuất hiện, chính là vị trí mà hiện giờ sóng rada bị mất!

Quyền lại chạy tới một chiếc máy vi tính khác, một tràng âm thanh nghe có vẻ tương tự được anh bật lên. Anh tiếp tục giảng giải nói:

- Thưa thủ trưởng, tần số âm thanh này hệt như âm thanh của loài cá voi, có điều nó cao cấp hơn nhiều. Để xem chuyện này có chắc chắn hay không. Tôi đã liên hệ thêm với một tiến sĩ nghiên cứu ngành sinh vật biển. Một lát nữa anh ta sẽ có mặt…

Thiếu tướng Kiên mặc dù vẫn không tin tưởng vào chuyện này cho lắm, vì nó hết sức viển vông. Nhưng theo lời khuyên của Quyền, ông ta vẫn hết sức nhẫn nại chờ đợi.

Khoảng đúng nửa tiếng sau. Một nhóm người ăn mặc sang trọng, dẫn đầu là một người trẻ tuổi đeo kính, tiến vào đài kiểm soát không lưu. Khi đám người vừa xuất hiện, Quyền đã lập tức chạy tới bên cạnh họ và giới thiệu với Thiếu tướng Kiên:

- Báo cáo thủ trưởng, đây là tiến sĩ Trần Việt Anh. Là tiến sĩ du học nghành sinh vật biển từ Mỹ về…

Thiếu tướng Kiên gật đầu chào hỏi:

- Chào cậu.

Trần Việt Anh cũng hết sức lịch sự, gật đầu chào hỏi lại:

- Chào Thiếu tướng…

Rồi cậu ta chẳng chờ đợi ai mời, đã lập tức đến bên bàn vi tính, nhìn vào biểu đồ phân tích âm thanh của hai đoạn ghi âm rồi chau mày.

Thiếu tướng Kiên bước lại gần cậu ta và hỏi:

- Cậu có thể phân tích được điều gì trong này không?

Việt Anh gật đầu, cậu ta trầm giọng nói:

- Tất nhiên, không những tôi có thể phân tích được, mà còn cảm thấy sửng sốt là đường khác.

Thiếu tướng Kiên hiếu kỳ nói:

- Vậy sao? Vậy cậu có thể giải thích cho tôi nghe một chút được không?

Việt Anh gật đầu, trỏ tay lần lượt qua lại giữa hai cái màn hình máy tính, phân tích điểm khác biệt nói:

- Hai đoạn âm thanh này, một đoạn là tiếng âm thanh giao tiếp của loài cá voi. Tần số bên này là của một con cá voi đực trưởng thành. Còn bên này, âm thanh gần giống đến sáu mươi phần trăm so với loài cá voi. Nhưng xen lẫn trong số đó, có ba mươi bảy phần trăm lại giống loài người…

Tiến sĩ Việt Anh vừa nói, vừa nhấn mạnh đến ba từ giống loài người, khiến toàn bộ không gian trạm kiểm soát không lưu đều tỏ ra trấn động.

Thiếu tướng Kiên nuốt nước bọt thúc giục:

- Cậu giải thích rõ ràng hơn một chút nữa đi?

Việt Anh nghiêng đầu, chợt rút ra từ trong cặp một tập tài liệu hồ sơ gì đó. Bên trong in ra cũng toàn là tín hiệu rada tần số âm thanh. Rồi đặt lên bàn cho tất cả mọi người cùng xem, bắt đầu giảng giải:

- Đây chính là hai loại tín hiệu rada lần lượt thu được từ Nga và Trung Quốc. Cách đây hai mươi năm… Một đoạn đầu tiên được đưa ra công bố trước giới nghiên cứu Nga đều cho rằng đây có thể là một loại liên hệ đến từ ngoài trái đất, tuy nhiên điều này vẫn còn bỏ ngỏ. Một đoạn còn lại từ Trung quốc, đã được Mỹ mua lại, sau đó giao cho một nhóm tiến sĩ nghiên cứu…

Nói đến đây Việt Anh liền ngừng lại, tỏ vẻ trầm trọng. Thiếu tướng Kiên càng hiếu kỳ hối thúc:

- Rồi sao nữa, cậu mau nói đi?

Việt Anh không nhanh không chậm, nhấn nhá từng từ:

- Nhóm tiến sĩ nghiên cứu này sau đó đều đã chết, trước báo chí họ đều biến mất một cách bí ẩn. Là toàn bộ, đoạn thông tin này cũng bị NASA cho vào dạng thông tin tuyệt mật, và từ đó bảo mật rất nghiêm ngặt!

Thiếu tướng Kiên lắp bắp nói:

- Nói như vậy… đây thực sự là thông tin liên quan đến người ngoài hành tinh sao?

Việt Anh gật đầu. Thiếu tướng Kiên vẫn nuốt nước bọt nghi ngờ hỏi tiếp:

- Tôi hỏi một câu hơi khiếm nhã, nhưng nếu nó đã là tuyệt mật của NASA, vì sao lại có thể nằm trong tay của cậu?

Việt Anh nhếch mép cười nói:

- Vì sao ư? Bởi vì một điều rất đơn giản, tôi chính là một người nằm trong nhóm tiến sĩ bị mất tích đó…

Việt Anh nói xong từ này, toàn trường lập tức há hốc miệng mở to mắt kinh ngạc. Việt Anh không dừng lại liền tiếp tục kể:

- Toàn bộ đồng nghiệp của tôi đều đã chết, bởi một tổ chức bí mật của Mỹ. Tôi may mắn trốn thoát được, và dựa theo đường biển để trốn về Việt Nam, với việc ngụy tạo một cái chết giả. Cái tên của tôi tại Mỹ là John Trần…

Việt Anh nói xong, liền lùi lại, tiến về phía đám người phía sau anh. Đám người mà đã đi cùng anh ta từ đầu khi tới đây. Trong đám người này, ai nấy đều ăn mặc kiểu già nua, có người còn mặc bộ quần áo lụng thụng như đồ ngủ ở nhà. Xen lẫn trong đám người ấy, là một nhân vật ăn mặc com lê sang trọng, có khuôn mặt béo tròn. Người đó chính là người mà Việt Anh bước tới bên cạnh. Việt Anh sau khi đứng cạnh ông ta, liền nhìn Thiếu tướng Kiên giơ tay lên giới thiệu nói:

- Giới thiệu với Thiếu tướng, đây là ông Phùng Lê Long. Là người gần đây chuyên tài trợ cho tôi những công trình nghiên cứu. Lần này ông ta muốn theo tôi đến đây, là vì muốn được ra mắt thiếu tướng, cũng muốn được thiếu tướng hỗ trợ.

Thiếu tướng Kiên gật đầu. Người đàn ông tên Phùng Lê Long bước lên trên, ông ta cao giọng nói:

- Chào thiếu tướng, rất vui được gặp thiếu tướng.

Rồi tay bắt mặt mừng, chạy đến bắt tay với thiếu tướng Kiên. Thiếu tướng Kiên hơi sững sờ, nhưng cũng vội nở một nụ cười khách sáo đáp lại:

- Vâng, chào ông.

Phùng Lê Long bắt tay xong, liền lập tức bắt vấn đề, ông ta nói ngay:

- Không giấu gì thiếu tướng, tôi bình sinh luôn có sở thích kỳ lạ với những hiện tượng bí ẩn. Nghe tin vùng biển Đà Nẵng có xuất hiện một nơi như vậy. Tôi liền không ngại cất công, bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra đây để muốn gặp mặt thiếu tướng, để xin thiếu tướng cho phép chúng tôi được cử một nhóm người đi vào trong đó thám hiểm. Mọi chi phí tôi đều sẽ lo tất, chỉ xin thiếu tướng chấp thuận là được. Đồng thời qua việc này, chúng tôi cũng sẽ hỗ trợ điều tra về vị trí máy bay gặp nạn, để cung cấp thông tin sớm nhất!

Thiếu tướng Kiên nghe đến đây, liền chau mày tỏ vẻ khó xử, có vẻ như không muốn nói gì thêm.

Việt Anh thấy như vậy, liền bước tới gần rồi dùng giọng giải thích nói:

- Việc máy bay mất tích, lại xuất hiện thêm một vùng nhiễu. Chắc chắn sẽ phải có một lực lượng quân đội tiến vào đó thăm dò. Nhân đó, chúng tôi chỉ xin thiếu tướng cho phép chúng tôi đi theo là được, không có gì khó khăn trong việc này. Ngoài ra, về chi phí bay, và thuê máy bay từ phi trường, chúng tôi sẽ lo từ A đến Z.

Thiếu tướng Kiên vẫn cau mày không nói gì. Việt Anh thấy ông ta không xuôi, thì liền nói:

- Về vấn đề nhiễu rada và sự xuất hiện của đoạn băng ghi âm có tần số âm thanh lạ. Chắc chắn ông phải cần có sự hỗ trợ của chúng tôi để phân tích nó. Với lý do này, về tình về lý thì đều có thể chấp nhận được…

Mấy người trong nhóm của Việt Anh, liên tục thúc giục. Khiến cho Thiếu tướng Kiên đầu óc rối như tơ vò. Ông ta vẫn chưa dám tự ý quyết định chuyện này nếu chưa có sự chấp thuận từ trung ương.

Ngay lúc đó, tiếng công điện vang lên. Một nhân viên trạm không lưu nhấc máy. Lát sau, liền có tiếng âm thanh hối hả vang lại:

- Báo cáo thiếu tướng, có bức công điện khẩn từ trung ương. Một bức công điện vừa được gửi tới từ phía Trung quốc. Họ có một đề nghị là muốn tiến vào khu vực nhiễu rada…

Lời người này chưa kịp dứt lời, thì liên tiếp hai tiếng âm thanh nữa lại vang lên. Tiếng công điện phát ra dồn dập. Lại có hai âm thanh báo cáo:

- Từ phía Nga có điện đàm thưa thiếu tướng, họ muốn được tiến vào vùng nhiễu.

- Từ Mỹ cũng có một bức điện đàm, họ yêu cầu tương tự…

Ngay sau đó là các nước Úc, Nhật, Đức và Anh cũng lần lượt xuất hiện công điện.

Việt Anh nhân đó lên tiếng thúc giục nói:

- Sự việc bây giờ đã chuyển sang thành vấn đề quốc tế rồi. Nếu như chỉ có một nước đơn phương đề nghị, chúng ta có thể thẳng thừng từ chối. Nhưng giờ đây là nhiều quốc gia, hơn nữa còn đều là cường quốc. Trung ương cũng không chống lại nổi bọn họ đâu. Chắc chắn sẽ phải đồng ý cho bọn họ tới thám hiểm. Thiếu tướng không phê chuẩn việc này nhanh, thì chúng ta sẽ lỡ mất những thời cơ quý giá nhất để nắm lấy thông tin quan trọng…

Việt Anh càng nói, càng khiến thiếu tướng Kiên trong lòng nóng như lửa đốt. Cuối cùng ông ta liền gật đầu nói:

- Được rồi, vậy ngay đêm nay, một đội bay sẽ được chuẩn bị để tiến vào vùng nhiễu.

Thiếu tướng Kiên lại quay đầu, bước tới gần bản đồ rada, cầm gậy Ăng ten chỉ huy, trỏ vào vùng nhiễu loạn rada trên vĩ tuyến 16 và nói:

- Nó nằm trên vĩ tuyến 16, vậy từ giờ chúng ta đặt tên nó là vùng 16. Từ giờ phải cấm tất cả các chuyến bay bay qua vùng 16, cho dù là nội địa hay quốc tế. Mọi người nghe rõ chưa?

Toàn bộ nhân viên trạm không lưu và Quyền đều nghiêm người hô to dõng dạc nói:

- Rõ thưa thủ trưởng!

Thiếu tướng Kiên chợt quay sang nhìn Quyền rồi ra lệnh:

- Trong chuyến bay đêm nay tiến vào thám hiểm vùng 16, cậu cũng cần phải có mặt. Cậu là trạm trưởng kiểm soát không lưu, về vấn đề kiểm soát lưu thông và tình hình vùng này cậu rõ ràng nhất, nên rất cần phải đi theo để hỗ trợ.

Quyền lập tức đáp lại:

- Tuân lệnh thưa thủ trưởng.

Thiếu tướng Kiên nói xong, liền xoay người cùng đoàn sĩ quan, rời khỏi đài kiểm soát.

Đám người Việt Anh cùng với Quyền, sau đó ở lại bàn bạc một chút. Rồi cũng rời khỏi đài kiểm soát để chuẩn bị cho chuyến hành trình sắp tới.



Đúng tám giờ tối.

Một đội bay gồm hai mươi sĩ quan và ba chiếc máy bay trực thăng cỡ lớn đã chờ sẵn tại phi trường Đà Nẵng. Nhóm người Việt Anh sớm đã có mặt. Sau lưng anh ta, đám người Phùng Lê Long mỗi người đều có sắc mặt căng thẳng, nhìn lên máy bay. Trong tay bọn họ, tất cả đều cầm theo một chiếc vali rất lớn. Cũng không biết là rốt cục ở bên trong những chiếc vali đó của bọn họ có ẩn chưa thứ gì.

Mười phút sau, một chiếc xe jeep tiến vào phi trường xuất hiện trước đội bay. Thiếu tướng Kiên từ trên xe bước xuống, sau lưng ông ta là một viên sĩ quan trẻ tuổi, có khuôn mặt điển trai đầy góc cạnh, một vẻ lạnh lùng luôn luôn xuất hiện trên khuôn mặt anh ta.

Thiếu tướng và viên sĩ quan đi đến gần đám người Việt Anh và giới thiệu:

- Đây là Trần Vũ Bình, là một lính đặc công giỏi nhất của tôi. Nhiệm vụ lần này sẽ do cậu ta chỉ huy, các người tuyệt đối phải phục tùng chỉ thị của cậu ta, và trước khi hành động điều gì, cũng cần phải báo cáo lại qua cậu ta để cậu ta cho tôi biết.

Việt Anh gật đầu, cẩn trọng nói:

- Được rồi, chúng tôi sẽ làm theo lời Thiếu tướng.

Nói xong, Việt Anh khách sáo bước tới trước mặt viên sĩ quan trẻ tuổi, giơ bàn tay ra định bắt tay và nói:

- Chào cậu!

Nhưng Trần Vũ Bình làm ngơ, anh ta không hề trả lời, đứng yên bất động như một tảng đá.

Thiếu tướng Kiên thấy vậy thì liền cười nhạt nói:

- Các cậu đừng để ý, lính đặc công cứng rắn như sắt thép. Tâm lý cậu ta cũng giống như tảng đá, không thích giao tiếp…

Việt Anh cũng gật đầu cười nhạt, hơi miễn cưỡng rút bàn tay vừa giơ ra lại.

Một lát sau, người cuối cùng trong đội bay lần này là Quyền cũng đã xuất hiện. Quyền chạy hớt ha hớt hải tới giữa phi trường thở dốc. Thiếu tướng Kiên xác nhận mọi người đã có mặt đầy đủ thì liền hạ lệnh:

- Được rồi! Xuất phát đi…

Nhanh như chớp, quân lệnh như núi đổ. Cả đoàn sĩ quan nhảy lên máy bay ngồi yên vị vào vị trí, thắt dây an toàn. Trần Vũ Bình cũng nhảy lên một chiếc máy bay gần nhất, đeo tai nghe nhắm mắt chờ đợi.

Đám người Việt Anh cũng lục tục kéo lên trên máy bay. Quyền chạy theo sau bọn họ, ngồi vào một chiếc ghế trên máy bay rồi thắt dây an toàn.

Khi tất cả mọi người đã đều yên vị trong vị trí. Tiếng quạt trực thăng ngày một nhanh và mạnh, ba chiếc máy bay nối đuôi nhau bay lên bầu trời. Tiến vào trong màn đêm sâu thẳm.

Thiếu tướng Kiên thở dài một hơi, rồi quay đầu lại ngồi lên xe jeep, hối thúc anh lái xe cho xe rời khỏi phi trường.



Ba chiếc trực thăng tiến về vùng 16, nơi đó sóng rada đều bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Chỉ có thể dùng phương thức thô thiển nhất là dùng miệng hoặc ánh sáng ám hiệu để liên lạc.

Mỗi một sĩ quan được trang bị trong chuyến đi này, đều kèm theo pháo sáng, cùng loạt đạn pháo nổ lớn để làm tín hiệu.

Sau khoảng ba mươi phút bay, ba chiếc máy bay chầm chậm tiến vào vùng 16. Và khung cảnh kỳ bí dần xuất hiện trước mắt bọn họ.

Một hòn đảo khổng lồ tự lúc nào đã nghiễm nhiên nằm sẵn ở đó. Cộng thêm là có những thứ âm thanh réo rắt, len lỏi vào trong tâm trí của mỗi người khiến cho bọn họ phải ôm đầu tỏ ra khó chịu. Đến gần đây, máy bay gần như trao đảo sắp rụng. Một giọng nói hốt hoảng vang lên từ trong khoang lái, một viên phi công nói:

- Không ổn rồi, không thể tiến vào thêm bên trong được nữa. Tất cả phải thả thang dây để xuống biển bơi vào đó thôi. Nếu đi thêm là quạt máy bay sẽ ngừng chạy, từ trường ở đây quá mạnh!

Chưa chờ viên phi công nói xong, nhanh như chớp. Trần Vũ Bình đã tháo một chiếc thang dây ở gần cửa thả xuống rồi đu dây nhảy xuống biển.

Tiếp theo đó, lần lượt các sĩ quan ở trên cả ba chiếc máy bay cũng có hành động tương tự anh ta. Bọn họ lao xuống biển mà không một chút sợ hãi, cũng không nói một lời nào.

Quyền là người hành động nhanh nhất trong đám người còn đang ngẩn ngơ còn lại, anh ta lao thẳng xuống biển với một tiếng rú kéo dài.

Đám người Việt Anh lần chần nhìn nhau, mấy lão già xanh mặt nói:

- Chúng tôi không biết bơi…

Chưa kịp đáp lại, thì đã có tiếng viên phi công thúc giục:

- Nhanh lên, còn không nhảy nữa là máy bay sẽ bị hút sâu về phía hòn đảo và rụng xuống đấy. Đến khi đó tất cả đều chết hết…

Việt Anh nghe tới đây, liền gào lên:

- Cơ hội cuối cùng rồi, mấy lão còn không nhảy nhanh lên là coi như công toi.

Mấy lão già run lập cập bước dần về phía cửa. Thì bị Việt Anh đạp cho mỗi người một nhát vào mông và rớt xuống biển. Chỉ còn lại Phùng Lê Long và anh ta. Không chờ anh ta nhắc, Phùng Lê Long đã lạnh lùng nhảy xuống biển mà chẳng cần đu dây.

Việt Anh cũng hít thở sâu thêm một hơi rồi lao theo.

Khi đám người vừa rời khỏi, thì ba chiếc trực thăng trên bầu trời cũng phải trao đảo, vật vã mất một lúc thì mới có thể quay ngược trở lại và thoát ra khỏi vùng 16.

Mấy lão già đi theo Việt Anh sặc sụa ho khan, đám sĩ quan mỗi người thấy vậy, lại bơi tới gần mấy lão lôi mấy lão ta theo bơi cùng.

Việt Anh trong cả đám ấy không tính là bơi giỏi, nhưng cũng là dẫn đầu trong đám người tiến lên hòn đảo bí ẩn, chỉ sau Trần Vũ Bình.

Khi mọi người lên được đến bờ, toàn bộ quần áo của bọn họ đều ướt sũng. Trần Vũ Bình chợt đi tới gần Quyền, cất giọng hỏi:

- Đảo này tên là gì?

Quyền cũng tỏ ra hơi cảm thấy ngạc nhiên, vì từ đầu tới cuối Trần Vũ Bình luôn câm như hến, mà lúc này lại hỏi anh ta như vậy. Chỉ có điều, anh ta cũng rất nhanh gạt đi những dòng suy nghĩ linh tinh đó và trả lời:

- Tôi không biết, trước đây tại khu vực này không có bất cứ hòn đảo nào cả…

Chưa kịp chờ Quyền trả lời xong, đã có tiếng của Việt Anh xen ngang:

- Anh ta không biết thì cũng đúng thôi, tại vì hòn đảo này vừa mới được tạo dựng.

Trần Vũ Bình nheo mày, lạnh lùng hỏi:

- Vừa mới được tạo dựng ư? Làm sao anh biết?

Việt Anh gật đầu, rồi cúi người bốc lên một nắm đất giải thích:

- Mọi người xem, đất ở đây vẫn còn rất nóng, nếu tôi đoán không nhầm, thì vài giờ trước thậm chí nó còn chảy thành dung nham. Chỉ có điều vì sao thời gian ngắn như vậy mà đất ở đây lại có thể nguội nhanh đến như thế thì quả thật là kì lạ.

Trần Vũ Bình nhếch miệng cười, khinh thường Việt Anh nói:

- Dung nham ư? Lũ mọt sách các anh quả thật là một bọn có tư tưởng hết sức viển vông.

Việt Anh chỉ hơi cau mày, cũng không thèm giải thích với đám người Trần Vũ Bình. Mà chỉ quay lưng lại, dùng giọng hối thúc với mấy lão già sau lưng anh ta:

- Mấy lão nhanh lấy đồ ra xác nhận đi, xem đây có phải chính là hòn đảo đó hay không?

Trần Vũ Bình cùng với Quyền, tỏ ra rất hiếu kỳ trước hành động của Việt Anh. Bọn họ chỉ chăm chú nhìn đám người Việt Anh xem xem bọn họ đang làm cái gì.

Mấy lão già kia gồm có bốn người, quần áo đều ướt nhẹp như lông chuột dính mưa. Đang run lẩy bẩy mở ra va li, trong đó là rất nhiều cái cọc gỗ.

Mấy lão lấy cọc gỗ ra rồi, thì lại lần lượt cắm xuống mặt đất, thành một bãi cọc gỗ hết sức lộn xộn. Thoạt nhìn theo đó, có thể mơ hồ tưởng tượng ra đó là một hình thù gì rất giống với vẻ ngoài của hòn đảo này.

Rồi mấy lão ta lại lần lượt mắc những sợi dây có màu đỏ như máu, buộc vào hết lượt những cái cọc gỗ, tạo thành một vòng tròn.

Trần Vũ Bình không nhịn được, liền lạnh giọng hỏi:

- Mấy người làm cái trò gì thế hả? Có định đi tìm máy bay hay không đây?

Việt Anh cũng trừng mắt nhìn lại Trần Vũ Bình nói:

- Còn cần phải xác nhận thêm một chuyện đã, nếu anh muốn tự tiện đâm đầu vào chỗ chết thì cứ việc.

Ngay khi đó, bốn lão già kia khuôn mặt kinh khủng hô lên:

- Phát sáng rồi!

Việt Anh cũng tỏ ra cực kỳ sửng sốt, anh ta chết lặng đứng một chỗ hồi lâu.

Trần Vũ Bình không thể chịu nổi thêm nữa bởi hành động kỳ lạ của đám người này, liền lên tiếng hỏi dồn:

- Lũ điên các người mắc bệnh thần kinh hết cả lũ hay sao vậy?

Nhưng Phùng Lê Long ngay đó đã lập tức giải đáp thắc mắc chô anh ta:

- Có thể cậu không tin, nhưng đúng là chúng ta đã gặp chuyện lớn rồi đấy! Đây chính là hòn đảo đó…

Quyền hiếu kỳ hỏi:

- Hòn đảo gì kia? Sao các ông giống mấy thằng thầy bói làng tôi thế?

Phùng Lê Long trừng mắt nhìn Quyền nói:

- Tôi không hề đùa với cậu đâu. Hòn đảo này chính là Huyệt Hoang… Nó là nơi liên kết với Âm giới…

Phùng Lê Long sắc mặt nghiêm trọng, còn Trần Vũ Bình lại bật cười nói:

- Mấy người này điên rồi!

Rồi quay sang nhìn đám sĩ quan hạ lệnh nói:

- Tất cả đều kệ bọn họ hết cho tôi, từ giờ chúng ta sẽ bắt đầu chia nhóm ra để tìm kiếm dấu vết chiếc máy bay bị rơi, tìm kiếm người bị nạn. Tất cả nghe rõ chưa?

Cả đám sĩ quan đều hét to:

- Rõ thưa thủ trưởng!

Rồi họ lần lượt phân tách làm sáu nhóm người. Trong đó có hai nhóm bốn người. Một nhóm bốn người do Quyền phụ trách, một nhóm còn lại do Trần Vũ Bình phụ trách, tản ra xung quanh khắp hòn đảo để tìm kiếm giấu vết máy bay rơi.

Đám người Việt Anh thấy Trần Vũ Bình không quan tâm đến chuyện này thì cũng chẳng thèm để ý. Chỉ tiến tới gần Quyền và nói:

- Nhóm người của các anh đi theo chúng tôi đi, sẽ nhanh hơn đấy!

Khi này, bóng dáng của Trần Vũ Bình đã đi khuất. Quyền cũng không nể nang gì, anh ta cũng rất hiếu kỳ với công việc mà nhóm người của Việt Anh đang làm nên ngay sau đó đã nhanh chóng đồng ý với Việt Anh.

Nhóm người của Quyền và Việt Anh, đi vòng qua phía bên trái hòn đảo khoảng hai cây số, rồi mới từ hướng đó tiến vào giữa trung tâm hòn đảo.

Khi đi được thêm một cây số nữa, thì bọn họ liền phát hiện ra rất nhiều mảnh vụn từ vụ máy bay rơi vãi. Quyền mừng rỡ nói:

- Không ngờ chúng ta lại là nhóm tìm được bọn họ sớm nhất rồi, mau đi nhanh thôi.

Việt Anh thì không cho là vậy, anh chỉ chau mày nói với đám lão già:

- Đúng như điển tịch, vị trí này chính là nơi tiến vào lối vào huyệt hoang rồi. Đây là mồ chôn những thần ma cổ đại như trong truyền thuyết đã nói hay sao?

Phùng Lê Long gật đầu khẳng định nói:

- Đúng là huyệt hoang của thần ma. Chỉ có điều không biết là huyệt này là của một vị thần, hay là chúng ta vô tình đen đủi tiến vào huyệt của một con quỷ hay không thôi.

Việt Anh khẩn trương nói:

- Không cần phải biết đây là thần hay ma, tóm lại đây nhất định là con đường duy nhất tiến tới âm giới. Một cánh cổng không gian xuyên qua tỉ năm ánh sáng, tiến tới đại lục âm phủ, cõi thần ma.

Phùng Lê Long cũng nhanh chóng lên tiếng thúc giục nói:

- Mọi người đi nhanh lên, chúng ta phải đi đến cửa vào huyệt hoang, trước khi bầu trời hồng xuất hiện.

Ông ta nói xong liền dẫn đầu đi trước, đám sĩ quan còn lại cũng ngơ ngác đi theo sau. Quyền không hiểu chuyện gì đang diễn ra, liền đi sát bên cạnh Việt anh cất giọng hỏi:

- Bầu trời hồng mà mấy người nói là cái gì thế?

Việt Anh cười và giải thích:

- Theo như kinh thánh của đạo thiên chúa, bầu trời hồng xuất hiện, là báo hiệu cho sự diệt thế…

Quyền mở to mắt kinh ngạc. Việt Anh lại tiếp tục giải thích:

- Trước khi bầu trời hồng xuất hiện, sẽ có bầu trời màu xanh và bầu trời màu đỏ. Để ý kĩ hiện tượng thiên văn lần thứ hai, khi sao băng rơi trên trời thêm một lần nữa. Từ huyệt hoang nhất định sẽ xuất hiện dị tượng.

Quyền hỏi:

- Dị tượng gì?

Việt Anh chỉ lẳng lặng nói một câu:

- Quỷ…

Rồi đi thẳng không tiếp tục nói chuyện.

Tiếp đó, trên hành trình tiến vào trung tâm hòn đảo mới xuất hiện này. Có thể phát hiện trên chặng đường đi, xác những con mòng biển nằm chết la liệt, tạo thành một giấu hiệu hình thù hết sức kỳ lạ. Thêm nữa, là những con quạ không hiểu tại sao lại có thể xuất hiện tại đây. Chúng bay thành đàn dày đặc xuất hiện trên bầu trời, la ó ầm ĩ hết sức ồn ào.

Đi thêm được chừng một cây số, một cái ụ đất khổng lồ đỏ như máu xuất hiện trước mắt đoàn người. Một cái hốc sâu hoăm hoắm đâm thẳng vào lòng đất tối đen kìn kịt.

Phùng Lê Long cao giọng quát lên cho bốn lão già phía sau lưng:

- Lấy đồ nghề ra đi!

Mấy lão già kia nhanh chóng gật đầu, rồi rút ra từ trong vali một đám bùa chú màu vàng, trên đó toàn là những hình thù kỳ quái. Bọn họ đi tới gần những viên sĩ quan, phát cho mỗi người một tấm bùa rồi giải thích:

- Các cậu phải nắm chặt những lá bùa này trong tay, cố gắng tỉnh táo để bảo vệ chúng tôi. Sau khi tiến vào huyệt hoang, sẽ có nhiều thứ kinh khủng hơn nữa xuất hiện đấy!

Quyền nghe tới đây thì liền lớn tiếng ngăn lại:

- Khoan đã, việc của chúng ta chỉ là tìm kiếm chiếc máy bay bị rơi. Tôi nghĩ không nhất thiết mạo hiểm đi vào trong đó. Nhỡ đâu trong đó toàn là dung nham thì sao? Mọi người nhìn xem, đất ở đây vẫn còn rất nóng. So với rìa ngoài hòn đảo thì nó nóng hơn rất nhiều lần…

Phùng Lê Long nhấn mạnh nói:

- Một công đôi việc cả thôi, nếu muốn tìm chiếc máy bay đó và những người còn sống sót. Chúng ta vẫn phải vào trong huyệt hoang. Cậu nhìn xem…

Phùng Lê Long nói xong liền trỏ tay về phía miệng huyệt. Cái miệng huyệt rộng lớn như một hang động tự nhiên. Bên trong đó có lấp ló một vật gì đó rất quen thuộc đối với Quyền. Rồi một lát sau, anh ta liền há hốc miệng kêu lên:

- Đó không phải là chiếc máy bay hay sao? Thật không ngờ nó chỉ bị xước sát một chút mà thôi, không hề bị vỡ nát.

Một viên sĩ quan cũng đồng tình nói:

- Đúng vậy, thật không nghĩ chúng ta mới đầu phát hiện một vài bộ phận máy bay thì nó chắc chắn không còn nguyên vẹn. Nhưng bây giờ xem ra những người trên đó không sao. Thật may mắn…

Nhưng Việt Anh khi này lại cười nắc lẻ nói:

- Mấy người thật ấu trĩ, cho dù chiếc máy bay đó không bị phá hủy thì sao chứ. Đâu có gì chắc chắn là những người ở trong đó vẫn còn sống sót?

Quyền không cho là vậy, anh ta cố giải thích:

- Máy bay nguyên vẹn có thể chịu được một loại áp lực rất lớn. Cho dù là nhiệt độ hay áp suất bên ngoài có ảnh hưởng thì cũng không ảnh hưởng đến quá nhiều. Qua tình hình quan sát thì tôi lại càng khẳng định, những người ở trong đó chỉ bị ngất một lúc rồi sẽ tỉnh lại nhanh thôi.

Việt Anh vỗ vỗ vai anh ta rồi nói:

- Anh tin tôi đi.

Sau đó anh ta tiếp tục đi về phía cửa động huyệt hoang. Đám người phía sau không nói gì cũng đi theo anh ta.

Một viên sĩ quan đi đầu tiên bất chợt bỗng hét lên:

- Mọi người, mọi người nhìn xem này! Ở đây có một vệt máu, rất dài…

Ở một phía khác, một viên sĩ quan khác lại hét lên:

- Cơ trưởng!

Cả đoàn người đều quay lại nhìn sâu về phía đó. Người đàn ông gọi là cơ trưởng, lúc này đang ngồi bệt xuống dưới đất hình như không còn sức sống.

Mọi người định tiến lại gần thì Phùng Lê Long chợt hét lớn:

- Mọi người chờ đã, đừng vội. Anh ta không còn là người nữa đâu!

Một viên sĩ quan không cho là vậy, anh ta quát lên:

- Mấy người các ông nói nhăng nói cuội cái gì thế hả? Thật vớ vẩn.

Rồi anh ta chẳng thèm nghe lời Phùng Lê Long, vẫn đi về phía viên cơ trưởng.

Khi này, viên cơ trưởng chợt quay đầu lại. Khuôn mặt anh ta nổi đầy những gân máu màu đen đen kịt. Một nụ cười hiểm hóc xuất hiện trên khuôn mặt anh ta rồi mau chóng tắt ngấm. Anh ta chuyển sang tỏ vẻ đáng thương kêu lên:

- Cứu tôi với, tôi sắp chết rồi!

Anh ta bò lăn trên đất, với vẻ quằn quại. Viên sĩ quan nhanh chóng chạy tới, túm lấy người anh ta và định kéo anh ta lên. Viên sĩ quan hỏi:

- Anh bị làm sao thế…

Nhưng chưa kịp hỏi xong câu hỏi, thì chợt đôi con ngươi của viên sĩ quan đã bị móc lồi ra. Hai con mắt anh ta đỏ tươi, rồi lăn lông lốc khỏi tròng mắt như những viên bi ve. Máu từ hốc mắt của anh ta phun ra ngoài. Một giọng cười khành khạch vang lên từ viên cơ trưởng. Gã ta miệng trào ra những tơ máu đỏ lòm, đang há miệng cho những dòng máu đỏ tươi từ hốc mắt của viên sĩ quan chảy vào miệng mình.

Từng từng cười khục khặc vang lên, cảnh tượng ghê rợn đó rơi vào mắt đoàn người phía sau khiến tất cả đều trùn chân.

Đúng lúc này, một loạt đạn bắn văng ta. Một viên đan găm xuyên qua đầu của viên sĩ quan có đôi mắt bị móc.

Người bắn ra loạt đạn đó chính là Việt Anh. Quyền gào lên:

- Chết tiệt, anh làm cái trò gì vậy?

Việt Anh lạnh lùng nói:

- Viên sĩ quan đó chết rồi, không thể cứu được anh ta nữa đâu. Cho anh ta một nhát súng để giải thoát cho anh ta khỏi đau đớn.

Quyền lao tới túm lấy vạt áo của Việt Anh định đấm cho anh ta một trận. Thì đúng lúc này giọng của gã cơ trưởng vang lên. Thân người gã quằn quại, gã kêu gào nói:

- Cứu tôi, máu, cho tôi máu…

Gã bò về phía đám người đứng phía sau, da thịt gã chẳng hiểu sao cứ rụng ra thành từng mảng từng mảng. Cho đến khi gã sắp đến trước mặt đoàn người, thì thịt trên người gã đều đã rụng gần hết. Chỉ còn dính lại một chút cơ trên xương. Giờ gã đã trở thành một bộ xương, và vẫn kêu gào trên mặt đất.

Phùng Lê Long không nhịn được thêm nữa, trong tay ông ta xuất hiện một thanh kiếm gỗ. Ông ta chạy đến nhanh thoăn thoắt, chém một nhát vào giữa cái đầu lâu của bộ xương cơ trưởng. Cái đầu lâu rụng xuống, nhưng miệng nó thì vẫn mấp máy và bò lăn trên mặt đất.

Cảnh tượng này rơi vào mắt Quyền và mấy viên sĩ quan sau lưng của anh ta, đều khiến cho bọn họ nôn thốc nôn tháo trên mặt đất.

Rốt cuộc là đã có chuyện gì xảy ra, chuyện gì xảy ra mà lại khiến một người biến thành như vậy.

Phùng Lê Long nhảy lui lại một chút, quay sang hai viên sĩ quan còn lại hối thúc:

- Mau cho tôi mượn một quả lựu đạn đi.

Hai viên sĩ quan lắp bắp:

- Cái này…

Nhưng đã bị Phùng Lê Long lao tới cướp lấy một quả lựu đạn, rồi ông ta lại phóng về phía cái đầu lâu. Dùng kiếm gỗ nhanh gọn banh miệng cái đầu lâu đang lập cập rồi nhét quả lựu đạn vào đó rút chốt nổ.

Ông ta chạy ngược lại rồi gào lên:

- Chạy mau!

Đùng đoàng!

Cả đoàn người mặt xanh như tàu lá chuối, vắt chân lên cổ mà chạy. Một lát sau thì tiếng lựu đạn nổ vang, mảnh sọ não của viên cơ trưởng bắn tung tóe khắp nơi.

Quyền thở hổn hển một lúc rồi một mới lạnh giọng hỏi Việt Anh:

- Tại sao lại phải dùng lựu đạn?

Việt Anh trả lời:

- Vì nếu để thêm một lúc nữa, những người phía sau đi vào đây nhất định sẽ bất cẩn mà bị nó sát hại. Nó hút đủ máu người thì lúc đó sẽ tiến hóa thành một loại hình thù hết sức kỳ quái, một con quái vật cực kỳ nguy hiểm…



Đám người Việt Anh và Quyền tiến sâu vào bên trong huyệt hoang thêm một chút nữa. Đi vòng qua chiếc máy bay đã bị móp hết quá nửa. Quyền chợt lên tiếng hỏi:

- Vì sao chúng ta không đi vào bên trong chiếc máy bay này xem xét thử một chút. Nhỡ đâu bên trong đó còn người sống thì sao?

Phùng Lê Long lắc đầu trả lời nói:

- Chắc chắn là không còn người sống đâu. Nếu như còn có người trong đó, thì sẽ giống hệt viên cơ trưởng kia. Vì vậy, tốt nhất là chúng ta không nên mạo hiểm.

Quyền lại hỏi:

- Vậy tiếp theo chúng ta nên đi đâu?

Phùng Lê Long trả lời:

- Tiếp theo ư? Chúng ta phải vào tới giao giới, lấy viên đá huyệt hoang rồi phá hủy nấm mồ này. Trước khi bọn người Trung quốc tới…

Quyền vẫn ngơ ngẩn không hiểu chuyện gì thì Việt Anh đã vỗ vai anh và nói:

- Cố gắng giữ cho chắc cái lá bùa trong tay anh, nó là thứ giữ mạng cho anh đấy. Vào sâu thêm bên trong chúng ta sẽ gặp hai loài quỷ nữa. Thứ nhất là quỷ hút hồn, loài quỷ này có thể khiến anh trong nháy mắt mất mạng. Loài quỷ thứ hai là quỷ ẩn thân, cũng là loài quỷ đáng sợ nhất, rất khó để phát hiện ra chúng.

Việt Anh dừng lại một chút rồi lại nói tiếp:

- Viên cơ trưởng vừa rồi mà anh gặp, là con quỷ đầu tiên canh giữ huyệt hoang. Nó là loài quỷ ăn mòn, ba con quỷ đều thực hiện cho lời nguyền huyệt hoang được tái hiện.

Việt Anh chợt hơi nghiêng đầu lại hỏi tiếp:

- Vậy cậu đã tin là thế gian này thực sự có ma quỷ hay chưa? Từ viên cơ trưởng vừa rồi?

Quyền gật đầu, hơi run giọng lại hỏi tiếp:

- Mà làm sao anh biết được những chuyện này?

Việt Anh vừa đi vừa trả lời, anh ta nói:

- Để tôi kể anh nghe một câu chuyện. Cách đây hai mươi năm khi tôi bắt đầu nghiên cứu đoạn sóng âm thanh kì dị kia, tôi đã phát hiện ra trong đó có ẩn chứa một thông điệp. Một thông điệp đến từ ngoài vũ trụ thông báo rằng. Sẽ có ba cỗ quan tài từ không gian được chuyển tới đây từ một hành tinh cách đó cả tỉ năm ánh sáng. Hành tinh đó chính là cõi âm nơi linh hồn của chúng ta khi chết sẽ trở về đó. Thực ra nếu tương lại chúng ta có công nghệ phát triển hơn, có một loại phi thuyền tạo ra được bước nhảy ánh sáng, thì theo cách thủ công chúng ta vẫn có thể tiến tới hành tinh cõi âm trong truyền thuyết đó.

Quyền nuốt nước bọt nói:

- Hành tinh cõi âm? Lại còn có ba cỗ quan tài?

Việt Anh gật đầu kể tiếp:

- Ba cỗ quan tài lần lượt xuất hiện trên biển Nga và Trung quốc và nước ta. Hai cỗ quan tài trước đó được gửi tới trước, tạo ra những huyệt hoang đầu tiên. Ban đầu thì người ta không phát hiện ra chúng có nguy hiểm gì. Nhưng rồi đã có rất nhiều người phải chết. Người ta đành quyết định phải phá hủy chúng, phá hoại cổng liên kết duy nhất tới một thế giới cách xa chúng ta hàng tỉ năm ánh sáng. Tới cỗ quan tài thứ ba, thì chính là mồ huyệt hoang khổng lồ này. Chúng ta phải nhanh chóng phá hủy nó.

Quyền lại hỏi:

- Vậy chứ cái thứ mà ông Lê Long vừa nói là thứ gì, mà lại hấp dẫn bọn người ngoại quốc đến như vậy?

Việt Anh chau mày, dùng giọng cực kỳ nghiêm trọng nói:

- Là thứ gì ư? Cách đây hai mươi năm, sau khi phá hủy huyệt hoang, người ta phát hiện ra loại đá ở nơi giao giới có thể bẻ cong được không gian. Nhưng số lượng những viên đá này rất ít, mà bọn họ thì lại vô tình phá hủy những huyệt hoang trước đó, vậy cho nên lần này xuất hiện huyệt hoang mới, nhất định sẽ là miếng mồi ngon mà bọn chúng muốn tranh cướp.

Quyền làu bàu lẩm nhẩm:

- Bẻ cong không gian là cái quái gì mà nhiều người thèm muốn đến thế?

Việt Anh cười đầy vẻ thích thú, anh ta nói:

- Thèm muốn ư? Phải, còn là thèm nhỏ rãi. Anh không biết ư, nếu chúng ta có thể bẻ cong không gian, tức là nắm trong tay bước nhảy ánh sáng, có thể vượt qua những không gian đến hàng tỉ năm ánh sáng để khám phá những thế giới. Không những vậy, đá huyệt hoang còn nắm giữ bí mật của sự bất tử, đóng băng thời gian sinh trưởng của tế bào thoái hóa…

Việt Anh vừa giảng giải, Quyền càng mở to mắt kinh ngạc nhiều hơn. Lúc này anh nghĩ lại viên đá huyệt hoang kia, quả thật là một thứ đồ hết sức có giá trị.

Vào sâu bên trong huyệt hoang, ánh sáng dần biến mất. Và thay vào đó là màn đêm tối tăm bao phủ.

Phùng Lê Long chợt dừng lại, nơi này máu thịt vương vãi khắp chốn. Ông ta chợt hạ lệnh:

- Mọi người dừng lại ở đây một chút, bên trong nhất định là nơi giao giới. Cũng là nơi hành quyết.

Một viên sĩ quan trẻ tuổi bước lên hỏi:

- Sao lại là nơi hành quyết?

Phùng Lê Long hứng thú trả lời ngược lại, ông ta nói:

- Các cậu không hứng thú biết số phận của những người trên chuyến bay đó ra sao ư?

Nhất loạt đều im lặng. Phùng Lê Long giải thích:

- 236 mạng người, nhất định đại đa số đều đang chờ ở trong này. Sẽ có một tên đại đồ tể xuất hiện dùng máu của bọn họ để mở ra cánh cổng của giao giới. Chỉ không biết là tên đồ tể này rốt cuộc là ai thôi. Sẽ là một bất ngờ thú vị cho tất cả chúng ta. Nếu nhanh chân thì chúng ta có thể cứu được phần lớn bọn họ, còn chậm chân thì tất cả đều chỉ có con đường chết.

Rầm rầm rầm!

Bất chợt trên những bức vách của hang huyệt, đất đá rơi rụng lả tả. Có không ít những tiếng kêu gào thảm thiết từ bên trong vang ra.

Một lão già hoảng sợ kêu lên:

- Hỏng rồi, là bầu trời đỏ!

Phùng Lê Long lập tức quát lên:

- Nhanh lên, tất cả đều phải đi nép sát vào nhau, đừng đi cách xa nhau quá. Nếu không rất khó bảo vệ được tính mạng.

Đoàn người bắt đầu khẩn trương, tăng tốc độ chạy thẳng vào sâu bên trong hoang huyệt tối đen.

Chợt một viên sĩ quan kêu lên:

- Tôi nhìn thấy một bóng người, hắn ta đứng ở bên mép tường.

Viên sĩ quan còn lại cũng xác nhận:

- Đúng thật, mắt hắn ta đỏ máu và sáng như sao!

Phùng Lê Long nói:

- Không cần để ý, tiếp tục chạy nhanh lên. Bầu trời đỏ xuất hiện thì kém diệt thế không xa đâu. Chỉ còn nửa nén hương thời gian…

Những viên sĩ quan không dám trái lời. Bọn họ bám sát theo sau đám người Phùng Lê Long, trên người cầm chắc súng Ak 47 đạn đã lên nòng. Tất cả bọn họ đều trong tình trạng cực kỳ khẩn trương và đôi bàn chân nhanh thoăn thoắt.

Ầm!

Đột ngột bỗng từ trên trần huyệt rớt xuống một tảng đá, đè trúng một viên sĩ quan. Viên sĩ quan kêu gào thảm thiết, một nửa thân người anh ta bị xẻ làm đôi, toàn bộ nội tạng trong người trào ra bên ngoài.

Tất cả đều dừng lại, dùng đôi mắt khiếp sợ nhìn viên sĩ quan và tình cảnh của anh ta. Phùng Lê Long vẫn khẩn trương nói:

- Không còn thời gian nữa đâu, mặc kệ cậu ta. Với vết thương như thế thì cậu ta chết chắc rồi!

Phùng Lê Long hối thúc rất gấp, mọi người không dám dừng lại. Quyền chạy nhanh đến trước mặt viên sĩ quan bị tảng đá đè, nhặt lại vũ khí trên người cậu ta cầm theo, rồi cũng bám theo sau đám người Việt Anh.

Viên sĩ quan bị xẻ đôi người thì một lúc sau cũng tắt thở và chết. Nhưng cũng chẳng có ai ngờ rằng, ngay sau đó một thứ sinh vật gầy gò gớm ghiếc đầy lông đen từ trong màn đêm tối tăm lao ra bên ngoài. Đem toàn bộ nội tạng và máu thịt của viên sĩ quan cho vào miệng nhai ngấu nghiến.

Nó có hình thù như một con người, lại có hàm răng rắc nhọn như của loài dơi hút máu. Miệng nó đỏ lòm nhễu nhão những thứ chất nhầy nhụa rớt xuống đầy mùi hôi. Đôi mắt nó tinh ranh lạ thường, và tiếp đó sau khi ăn xong sạch sẽ mớ thịt vương vãi trên đất của viên sĩ quan. Nó lại lẳng lặng bám theo đoàn người như để chờ đợi điều gì đó. Nó muốn rình lấy con mồi của mình và lặng lẽ ăn thịt.

Đám người Phùng Lê Long tiến thêm được hai trăm mét nữa, thì liền lọt thỏm vào một khoảng không gian rộng lớn dạng vòm. Trong đó có không ít những tiếng âm thanh u u rất ghê rợn.

Còn lại một viên sĩ quan sống sót, anh ta đem đạn pháo sáng bắn lên vòm trời.

Gần như ngay tức khắc, một khung cảnh khủng bố xuất hiện trước mắt đoàn người. Có khoảng gần một trăm cái xác người đang quỳ gục xuống đất, đầu nghiêng sang một bên. Và trên cổ bọn họ đều có những nhát cắt sâu khiến cho máu chảy ra, rớt xuống mặt sàn.

Hơn một trăm người chết đều quỳ gục trên mặt đất với cùng một tư thế giống hệt nhau. Mặt đất nhuốm đỏ lênh láng máu, thêm nữa là ruột và nội tạng cũng bị móc ra rỗng đến sạch sẽ.

Những dòng máu chảy dài lênh láng tụ tập vào một cái khe rãnh, đi về phía cuối động huyệt.

Việt Anh liền hô lên:

- Sắp thấy quan tài rồi!

Mấy người bọn họ cực kỳ nhanh chân, bỏ qua hơn một trăm cái xác đang quỳ gục tiếp tục chạy vào bên trong.

Nhưng khi bọn họ chạy được khoảng hơn chục mét nữa thì liền lập tức dựng lại. Bởi vì lối đi tiếp theo đã bị chặn đứng bởi một đoàn người. Ước chừng là khoảng sáu đến bảy người đứng sẵn ở đó. Trong đó có một người với vẻ mặt lạnh lùng, hết sức quen thuộc, chính là Trần Vũ Bình.

Quyền hơi ngạc nhiên kêu lên:

- Trần Vũ Bình, làm sao anh lại xuất hiện ở đây?

Viên sĩ quan còn lại trong đoàn của Quyền nhanh chóng chạy tới trước mặt Trần Vũ Vũ. Giơ tay nghiêm chuẩn bị làm tư thế chào. Nhưng anh ta chưa kịp làm điều đó, thì ngay lập tức cái đã cứng đơ toàn bộ thân người.

Miệng anh ta lắp bắp kêu lên:

- Thủ… thủ trưởng?

Anh ta thảng thốt không tin rằng, Trần Vũ Bình lại đem một con dao đâm xuyên qua lồng ngực của anh ta. Rồi dần dần khoét từ trong lồng ngực của anh ta sờ nắn quả tim của anh ta.

Viên sĩ quan khuôn mặt chuyển sang trắng bệch, dần dần gục xuống. Một thứ đỏ lòm từ trong lồng ngực anh ta bị lôi ra ngoài. Trần Vũ Bình đưa quả tim đó lên miệng, nhai nuốt ngấu nghiến một cách thản nhiên như thú vật. Những người còn lại thì quá kinh hãi trước thủ đoạn của Trần Vũ Bình nên không còn biết nói lời nào.

Nhưng chưa hết, họ chưa hết bàng hoàng từ sự việc này thì sự việc khác đã lại ập tới. Viên sĩ quan vừa rồi bị móc mất quả tim không ngờ lại chỉ gục xuống một lúc rồi lại đứng lên. Khuôn mặt anh ta đờ đẫn như một cái xác không hồn, rồi chầm chậm bước đi ra nhập hàng ngũ sĩ quan đứng sau lưng Trần Vũ Bình.

Phùng Lê Long lập tức hiểu ra mọi chuyện, liền giải thích:

- Đây chính là gã đồ tể trong cuốn điển tịch đã từng nhắc tới. Huyệt hoang này do hắn làm chủ, chúng ta không đấu nổi đâu, rút lui thôi!

Quyền nói:

- Trần Vũ Bình, tại sao anh ta lại xuất hiện ở đây được? Không phải anh ta lựa chọn con đường khác chúng ta hay sao?

Phùng Lê Long giải thích:

- Trên hòn đảo này cũng không nhất định chỉ có một lối vào chỗ này. Chỉ có điều lối vào đó là cửa sinh hay là cửa tử hay không thôi. Trần Vũ Bình coi như đen đủi, anh ta quá nôn nóng nên mới bị nhận lấy hậu quả như vậy.

Quyền lại hỏi:

- Vậy còn những người trên chuyến bay thì sao? Có phải là họ đã chết hết rồi không?

Việt Anh lắc đầu nói:

- Họ chưa chết hết đâu, họ chỉ bị nhốt ở một chỗ. Trần Vũ Bình vẫn chưa chặt đầu bọn họ, tạm thời chúng ta lui lại thôi. Không thể đấu lại anh ta được.

Quyền không cho là đúng, anh rút súng ra bắn thẳng hai nhát vào giữa cái đầu lâu xương sọ của Trần Vũ Bình, nhưng không ngờ Trần Vũ Binh trơ ra như đá, không động đậy cũng không nhúc nhích một chút nào.

Anh ta lẳng lặng nhìn đám người, chợt giơ súng lên nhe răng cười đầy thích thú. Việt Anh lập tức tri hô:

- Chạy!

Rồi anh ta quay đầu về phía sau chạy trối chết, bốn lão già đi lục tục phía sau không dừng được loạt đạn. Bị những sĩ quan xác sống lao tới như thú vật kéo chân bọn họ.

Những viên sĩ quan kia không ngờ sau khi chết đi lại cực kỳ khỏe khoắn. Bọn họ chỉ vừa mới tóm được một người, thì liền dùng tay bẻ đôi cái cổ của người đó cho máu thịt tóe loe bắn ra ngoài. Rồi uống máu gặm tim, ăn xong lại tiếp tục đuổi.

Quyền vừa chạy vừa gào rú lên:

- Chúng ta làm gì bây giờ? Chẳng phải các người nói chúng ta không còn thời gian hay sao?

Phùng Lê Long kêu lên:

- Chờ đi, giờ này thì không chiếm trước được thời cơ nữa rồi. Chạy thoát giữ được cái mạng cái đã, chờ bọn người các quốc gia khác đến. Nhất định bọn họ nhất định có sự chuẩn bị kĩ càng hơn chúng ta, có thể vào được động huyệt.

Và quả thật Phùng Lê Long nói không hề sai. Ngay khi bọn họ chạy ra đến bên ngoài động huyệt, thì cũng dần xuất hiện những nhóm người của các nước khác lục tục kéo về phía này.

Đám người đông nhất khoảng vài chục người là của Trung quốc. Bọn họ kéo theo một cỗ quan tài gỗ cực kỳ lớn. Theo sau là Mỹ và Anh, tất cả những nhóm người này đều có một điểm chung, đều có quan tài đi theo bên cạnh.

Dẫn đầu đám người Trung quốc là một đám đạo sĩ. Dẫn đầu đám người các quốc gia phương Tây đều là các cha sứ cầm thánh giá trước ngực.

Chạy ra khỏi động huyệt, nguy hiểm vẫn chưa dừng lại. Nhưng rất nhanh đã có người chạy đến ứng cứu. Đám người Phùng Lê Long chạy lẫn vào trong đám người đó rồi thở dốc. Quyền lại hỏi:

- Sao bọn họ nhóm nào cũng đi kèm một cái quan tài thế? Có phải là chúng ta đã quá lạc hậu rồi không?

Phùng Lê Long bất đắc dĩ thở dài nói:

- Cậu có biết trong cỗ quan tài đó chứa đựng những thứ gì không? Xem ra đám người phương tây và bọn Trung Quốc này thật biết chuẩn bị.

Việt Anh cũng gật đầu tiếp lời:

- Phải, bọn chúng còn đem theo cả cương thi và ma cà rồng tới nữa. Quả thật là cực phẩm trong các loài tà ma. Xem ra lần này bọn họ nhất định đòi hủy động huyệt này rồi.

Một lão già khác không cho là đúng bước lên nói:

- Cho dù có hủy động huyệt đi chăng nữa, thì chúng ta cũng cần phải nhân đó là cướp lấy viên đá huyệt hoang. Phải cháy nhà hôi của…

Những người còn lại gật đầu đồng tình. Đám người lại quay ngược đầu trở lại, theo những nhóm thám hiểm của các nước kia tiến vào trong động huyệt.

Chưa đi được nửa bước, thì chợt trong động huyệt vang ra những âm thanh gào rú hết sức kinh tởm. Phùng Lê Long nói:

- Đám người Trung quốc thả cương thi ra rồi, xem ra Ma cà rồng cũng rất nhanh sẽ xuất hiện. Chúng ta đi vòng qua bọn họ một chút, đi vào bên trong, nơi quan tài được đặt rồi lấy trộm viên đá huyệt hoang. Càng nhiều càng tốt, sau đó lập tức rời khỏi đây. Việc phá hủy huyệt hoang để cho bọn họ làm đi…

Tất cả đều gật đầu đồng tình. Khi bọn họ vừa mới tiến vào sâu bên trong huyệt hoang không lâu, thì liền bắt gặp quang cảnh hỗn loạn quần đả bên trong đó. Đầu người bay lên trời hỗn loạn, những tiếng gầm rú kêu gào.

Bọn họ nhìn thầy một con cương thi cực kỳ to lớn, cao chừng hai mét rưỡi đang nhe răng lanh nhảy chồm tới, vớ lấy một viên sĩ quan của Trần Vũ Bình rồi xé toạc anh ta làm đôi, đôi mắt cương thi long sòng sọc.

Đám đạo sĩ của Trung quốc thì chỉ lùi ở phía sau, chăm chăm múa kiếm gỗ đọc pháp.

Còn đám người phương Tây lúc này cũng đồng loạt mở ra quan tài. Người Nga và người Mỹ thì quả thật là đều có ma cà rồng chú ngụ.

Nhưng có điều những con ma cà rồng này thật kỳ lạ, chúng lai nửa người nửa dơi, với khuôn mặt người và thân xác dơi to không lồ, duỗi cánh bay lên không trung lao về phía đám sĩ quan kia.

Cuộc chiến có vẻ như đang nghiêng về phe nhân loại, mà cũng chẳng được lâu. Bởi vì từ sâu trong động huyệt, ngay sau đó bỗng tràn ra một lượng lớn thứ sinh thật quái đản, đôi mắt tinh ranh, thân mình như một đứa trẻ mười tuổi gầy gò, bộ lông xù xì. Chúng đông đến cả trăm con lao vào đám người các quốc gia kia.

Từng loạt súng liên thanh, súng máy nã đạn nhưng cũng không dừng được bước chân của chúng.

Chỗ mà đám người đó đang đứng, máu loang lổ đỏ lòm. Lúc này một bên góc tường động huyệt, có một đám người da trắng mặc quân phục lính Nga đang bàn luận. Bọn họ không mang tới một chiếc quan tài, mà lại là một cỗ xe cực kỳ khổng lồ. Bên trong là một cái hòm cực lớn, không biết là chứa đựng cái gì.

Còn Việt Anh vừa trông thấy cỗ xe ấy đã trực tiếp hét lên:

- Quỷ cô-zắc…

Anh ta kêu lên xong liền lập tức lý giải ngay. Quỷ cô zắc chính là một loài quỷ sinh ra trong chiến trường, nó tiền thân là một kỵ binh cô zắc của Nga. Cực kỳ khát máu và thứ vị đứng trong các loài ma quỷ không hề kém cương thi và ma cà rồng của phương tây.

Khi này, cánh cửa hòm cỗ xe mở ra. Một thân hình lùi lũi cưỡi ngựa từ bên trong cỗ xe thúc con ngựa chỉ là những bộ xương, đang mặc giáp xông thẳng về phía trước.

Thân người trên con ngựa rất to lớn, nếu không nói là khổng lồ. Nó phải cao đến hai mét rưỡi và cánh tay lướt dài.

Quỷ cô zắc xông thẳng về phía trước không kể địch hay ta mà chỉ giơ cao cái xà mâu cực dài trong nó càn quét giết chóc. Trong mắt nó không hề có con ngươi, mà chỉ bốc ra những thứ khói màu đen dày đặc.

Chợt những giáo sĩ của Nga đứng sau lưng nó đọc một loại kinh thánh gì đó khiến quỷ cô zắc hòa hoãn trở lại. Nó điềm tĩnh xông tới phía trước chỉ giết đúng mục tiêu là quân địch.

- Thôi đủ rồi, chúng ta đừng xem nữa. Nhân lúc mà bọn họ đánh nhau thì chúng ta phải đi nhanh tới chỗ cô quan tài thôi.

Phùng Lê Long lên tiếng.

Tất cả những người còn lại nhất trí, họ lại tiếp tục tiến lên vào sâu bên trong.

Khi này, một quang cảnh kỳ vĩ dần xuất hiện trước mắt bọn họ. Một cỗ quan tài đá cực kỳ khổng lồ xuất hiện chắn giữa mộ huyệt. Sau lưng nó chính một cái lốc xoáy đen ngòm giống như lỗ đen vũ trụ.

Phùng Lê Long lại trỏ vào chỗ đó rồi nói:

- Bên trong quan tài đó, nhất định có đá huyệt hoang. Tới đó…

Bọn họ tiến lên phía trước, bước tới rất gần cỗ quan tài. Một quang cảnh liền xuất hiện ngay sau khi họ tới gần, phía sau lớp quan tài. Trần Vũ Bình đang bắt ép khoảng hơn sáu mươi người quỳ gục ở dưới đất. Bọn họ hãi hùng kêu vào. Nhưng hắn vẫn dẫn từng người tới trước cái lỗ xoáy rồi cầm vào tóc họ. Luồn sâu con dao qua cổ họ, cắt cổ họ cho máu trào ra. Rồi sâu thêm nữa vào trong cuống họng, sâu thêm nữa đến khớp xương, sâu thêm nữa vào hệ dây chằng. Cái xương cứng rắn bị hắn cắt lìa rồi đến phần da thịt mềm cuối cùng của cổ người, cả cái đầu đứt lìa rời khỏi cổ. Hắn nhanh tay ném cái đầu đó vào bên trong lỗ xoáy.

Tiếp đến lại thêm một người phụ nữ nữa, cô ta lắc đầu kêu khóc, chảy nước mắt. Những hắn vẫn cứ túm lấy tóc cô ta, luồn con dao vào cổ cô ta. Cô ta mở to đôi mắt kinh hãi. Lưỡi dao nhấn sâu vào cổ, máu chảy ra. Miệng cô ta ồng ộc chảy ra máu kêu rên ư ử. Cô ta cố rụt cái đầu lại nhưng vẫn bị Trần Vũ Bình giữ chặt lấy, cắt hùng hục vào bên trong cho đến khi đầu cô ta và phần thân không còn cảm giác được với nhau nữa. Chỉ còn đôi mắt mở to không còn sinh khí và cái đầu bị cắt lìa.

Quyền không nhịn nổi cạnh tượng này, nôn thốc nôn tháo, khuôn mặt anh chuyển sang trắng bệnh. Anh thều thào nói:

- Quân cầm thú…

Việt Anh thì lại khẽ suỵt nói:

- Đừng đánh động hắn ta, nhanh tay lên rồi rời khỏi đây.

Quyền lại hỏi:

- Thế còn những người kia thì sao? Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mặc họ chết như vậy?

Việt Anh thở dài nói:

- Đó vốn dĩ là số mệnh của bọn họ rồi, chúng ta cũng không có đủ khả năng để cứu họ. Giờ nếu để Trần Vũ Bình phát hiện ra, nhỡ đâu hắn lại gọi thêm vô số con quái vật từ cái lỗ đen kia lao ra thì sao? Chúng ta khi ấy chỉ còn con đường chết.

Quyền không cho là đúng, anh nói:

- Cho dù có chết thì tôi cũng phải cứu bọn họ.

Việt Anh bối rối xoa đầu một lúc rồi mới gật đầu nói:

- Được rồi, vậy để chúng ta tìm cách.

Việt Anh vừa nói xong câu đó, thì chợt có một giọng nữ vang lên đầy yếu ớt:

- Cứu tôi!

Khi bọn họ quay đầu lại, thì chỉ thấy một người phụ nữ mặc một bộ quần áo cổ trang đỏ tươi, đang nằm trên mặt đất run rẩy.

Phùng Lê Long thúc giục Việt Anh nói:

- Cậu đến đỡ cô ta dậy, rồi chúng ta lấy đá huyệt hoang sau đó mau chóng rời khỏi đây.

Việt Anh nghe lời chạy tới rìu người phụ nữ đó, người phụ nữ đó yếu ớt nép sát vào thân mình Việt Anh không nói tiếng nào.

Phùng Lê Long cùng với hai lão già còn sống sót, nhảy vào bên trong cái quan tài đá khổng lồ.

Chưa được nửa giây sau, thì đã có tiếng kêu gào khủng khiếp phát ra từ trong đó. Âm thanh Phùng Lê Long lợm giọng kêu lên:

- Việt Anh, buông người phụ nữ đó ra… cô ta… a

Phùng Lê Long chưa kịp nói xong thì giống như đã bị một thứ gì đó luồn sâu vào trong cổ họng không thể kêu gào thêm được nữa. Máu bắn tung tóe ra từ bên trong cái quan tài bằng đá.

Việt Anh tới đây liền ý thức được có chuyện không ổn. Anh liền cố sức đẩy người phụ nữ ra. Nhưng không ngờ từ lúc nào cô ta và anh đã dính chặt lấy nhau như keo. Người cô ta nặng nề kéo cả thân người anh ngã xuống đất.

Trong quan tài đá lúc này, còn sống sót một lão già bò ra được bên ngoài, lão ta bị cụt mất một cái chân và sau khi rớt ra đến bên ngoài thì bò lê trên mặt đất.

Trong tay lão ta cầm một viên đá màu xanh to chừng hai mươi xăng ti mét. Lão thì thào dúi nó vào tay Quyền và nói:

- Chạy đi!

Lão nói xong như thế thì liền tắt thở. Còn Việt Anh lúc này thì đang phải vật lộn với người phụ nữ, miệng anh ta liên tục gào lên:

- Không, chúa quỷ. Vì sao chọn ta, ngươi cút đi…

Nhưng khuôn mặt người phụ nữ vẫn cười đầy vẻ thích thú, vẻ mặt yêu mỵ hết sức xinh đẹp. Miệng cô ta khẽ hé mở tới trước gần khuôn mặt Việt Anh. Rồi chợt miệng cô ta mở ra to như một cái lỗ máu sâu hoắm hoắm.

Đem cả cái đầu của Việt Anh nuốt trọn vào bên trong. Tiếng xương đứt vỡ đến cực một cái, cũng là lúc mà thân xác Việt Anh lìa khỏi đầu, một tia máu bắn mạnh phun lên trời.

Quyền quá kinh sợ, anh không dám ở lại chỗ này một mình. Vội vàng chạy như bay ra khỏi hướng cửa động huyệt. Khuôn mặt anh cắt không còn một giọt máu nào.

Ra đến nơi bên ngoài thì cuộc chiến vẫn chưa hề kết thúc. Đám người các quốc gia dường như đã lựa chọn cách phá hủy động huyệt. Nên đã cử một đám lính chuyên nghiệp cầm bom hẹn giờ cảm tử xông thẳng vào bên trong.

Quyền cứ mặc kệ bọn họ, tiếp tục xông về phía trước chạy thoát.

Ngay khi anh vừa ra đến bờ biển, thì cũng là lúc hòn đảo phát ra tiếng nổ lớn rung chuyển. Một trận động đất dữ dội diễn ra. Cả mặt đất như sụt lún ngược trở lại chìm sâu xuống nước biển.

Quyền đang loay hoay không biết làm sao, thì chợt ngoài khơi xa. Một chiếc chiến hạm tung bay lá cờ Việt Nam tiến vào trong hòn đảo này. Trên đó có rất nhiều lính hải quân đang cầm chắc tay súng.

Quyền kêu cứu liên hồi rồi lao thẳng xuống biển bơi về phía họ.

Khi anh bơi được một lát thì toàn bộ vùng 16 cũng chìm nghỉm hẳn xuống nước. Một vùng biển chuyển sang màu đỏ thẫm của máu.

Quyền đươc tàu hải quân cứu lên, và giao nộp lại viên đá hoang huyệt. Tiếp đó anh đem hết mọi chuyện kể lại cho thiếu tướng Kiên.

Đám người còn lại của các quốc gia thì coi như xui xẻo, bọn họ đều đã chết hết ở trên hòn đảo đó. Bao gồm hai mươi người lính đặc công của thiếu tướng Kiên cử đi cũng không còn sống sót người nào.

Sau này Quyền trở về, liền đem toàn bộ câu chuyện viết thành một cuốn sách hư cấu để kể lại chuyến hành trình gian nan đó.



Nhưng sự việc tới đó chỉ là bề nổi. Đâu đó trên biển ngoài khơi, giữa vùng 16 có nước biển đỏ lòm. Một cái thân xác trồi lên khỏi mặt nước, lững lờ trôi thả cho sóng vỗ vào mặt. Thân xác đó chính là của Trần Vũ Bình. Rất lâu sau khi cái xác tưởng như đã chết, mà đôi mắt của nó chợt mở to và miệng nở một nụ cười đầy lạnh lẽo.

Ác quỷ luôn luôn hồi sinh.

Hết!

Ngạ Quỷ
 
Chương 6: Con quỷ thứ tư


Chùa Hoàng Sơn xưa nay nổi tiếng là một trong những ngôi chùa cổ kính lâu đời được nhiều người truyền tụng. Mấy trăm năm qua ngôi chùa sản sinh ra rất nhiều vị cao tăng đắc đạo.

Đời này có sư Hoàng Liên cũng nổi tiếng là người tài giỏi, hay đi lùng bắt yêu ma nhốt vào trong chùa để cầu cho chúng siêu thoát.

Nói đến việc ấy của sư Hoàng Liên tuy là tốt, nhưng lại làm cho lũ yêu ma bất bình lắm. Lũ ma trành, ma tội thần, ma giữ của họp mưu với nhau rằng phải trừ hết những người trong chùa đi thì may ra mới được yên ổn.

Một con ma trành trong cuộc họp bàn nói rằng:

- Nay sư cứ thường hay đi lùng bắt ma để nhốt vào trong chùa không cho tự do. Thì ta nhân đấy lừa sư vào rừng cho ma cọp bắt đi mà cắn chết.

Ma tội thần lại nói:

- Sư chùa Hoàng Sơn đạo hạnh cao thâm lắm, không thể nào mà lừa nổi. Chi bằng ta nhân việc mùa thu năm sau có loạn giặc nổi lên, rồi trà trộn vào đám loạn quân mà đẩy ngã sư thì may ra mới thành.

Ma giữ của không cho là đúng, nó nói:

- Sư đạo hạnh cao thâm đến như thế, đẩy ngã làm sao được? Theo tôi thì cứ lừa cho sư tham tiền trong hầm, đợi sư lóa mắt, nhân đấy ta đánh sập hầm, thế là xong.

Ba con ma cự cãi lẫn nhau, không con nào đồng ý với mưu của con nào. Cuối cùng chúng làm ra một cuộc thi đánh cược là hễ ai giết được sư Hoàng Liên thì sẽ được cả bọn tôn sùng lên làm đầu đàn.

Lũ ma quỷ xưa nay vẫn mong muốn có một vị thủ lĩnh đứng đầu, để cho vị phán quan dưới âm kia kiêng dè không dám đè đầu cưỡi cổ chúng nữa. Nhưng hễ mỗi lần bàn đến vấn đề này là chúng cự cãi nhau quyết liệt lắm. Vì vậy, việc mưu giết sư Hoàng Liên lần này quả là vừa có thể trừ cho chúng một nỗi nhọc tâm mà lại vừa có thể tìm ra thủ lĩnh của bầy ma để thỏa được ước nguyện của bọn chúng.

Theo như kế hoạch thì lần đầu tiên sẽ là con ma trành dở trò. Nó sẽ lừa cho sư Hoàng Liên vào rừng để cho ma cọp bắt đi. Khi ấy sư Hoàng Liên sẽ trở thành một con ma trành giống như nó và nghe nó sai khiến.

Sư Hoàng Liên không hề biết việc lũ ma quỷ đã bày mưu hãm hại mình mà vẫn ngày ngày giảng đạo, ăn chay niệm phật. Thi thoảng phải có phật tử đến viếng thăm xin thầy xuống núi làm lễ siêu độ thì sư mới ra khỏi chùa.

Bẵng đi một thời gian, con ma trành cứ ngỡ rằng sư Hoàng Liên sẽ chẳng bao giờ xuống núi nữa. Và kế hoạch của nó chỉ đành thất bại để cho lũ ma tội thần được dịp vào cuộc.

Thế nhưng thật không ngờ vận may lại mỉm cười với nó vào phút chót. Bởi ngay ngày rằm đầu tiên trong tháng, ở làng dưới bỗng nhiên có một vị phú quan chết đột tử vì bị mắc nghẹn xương khi ăn cỗ. Người này khi chết thì mặt mày tím tái, ngũ quan hoảng hốt e là hóa thành ma khó siêu thoát nên người nhà phải lên tận chùa Hoàng Sơn thỉnh sư Hoàng Liên xuống làm lễ cầu siêu.

Sư Hoàng Liên nhận lễ, lại biết là việc gấp thì khởi hành đi ngay trong đêm, cũng không kịp chuẩn bị cầu kỳ gì cả.

Đi cùng với sư là một gã gia nhân độ chừng hai mươi tuổi, tóc búi cao, mặt mày dữ tợn nhìn như Trương Phi. Thoạt đầu sư nhìn thấy người này cũng hơi hãi hùng, nhưng sau nhìn mãi rồi cũng quen nên không còn sợ nữa.

Con ma trành đang buồn bực vì không được dịp hại sư thì nay lại thấy sư mấp mé ở bìa rừng thì mừng lắm. Nó trực phục sẵn ở cái cây để hóa thành người con gái xinh đẹp dụ dỗ sư đi theo cùng, một thủ đoạn mà nó vẫn thường hay làm để dẫn người mà nó muốn hại cho ma cọp bắt giết.

Tuy vậy, lạ ở chỗ con ma trành chưa kịp làm gì thì đã kinh hãi thất sắc mà chạy mất dạng. Là vì khi nó vừa mới hóa thành hình thiếu nữ chuẩn bị tới gần sư thì mới nhìn thấy khuôn mặt gã gia nhân kia. Nó không nhịn được khuôn mặt dữ tợn ấy nên hoảng quá mới chạy. Chuyện kể thực ngược đời vì lẽ thường chỉ có người sợ ma chứ ma có sợ người bao giờ.

Con ma trành vốn đã buồn bực thì nay lại càng buồn bực hơn. Vì rõ ràng con mồi đang rành rành ra ở trước mắt nó mà nó chẳng thể làm gì. Nghĩ đến vị trí thủ lĩnh của bầy ma đã sắp lọt vào trong tầm tay mà lại để vuột mất thì lại càng làm nó chán nản. Nó đi qua đi lại nghĩ cách, nghĩ đến nát óc mà chẳng nghĩ ra, gã gia nhân kia cứ đi bo bo nép sát sư Hoàng Liên chẳng hở ra phút nào.

Có mấy đận nó định làm liều, nhưng hễ cứ nhìn thấy cái bản mặt của gã gia nhân là nó lại hoảng quá chẳng thể làm nên trò trống gì.

Đang trong lúc túng quẫn ấy thì cơ hội trời cho đột nhiên đến với nó. Gã gia nhân kia chợt ôm bụng kêu la và xin sư cho chút thì giờ để tự mình giải quyết. Con ma trành mừng quá đỗi, nó chỉ chờ gã ta vừa đi khỏi là đã hóa thành hình người con gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành, từ con đường lả lướt đi tới, giả bộ chạm giáp mặt nhà sư. Nó hơi cúi đầu chào sư như có lệ. Nó biết cứ mỗi lần có người đàn ông nào nhìn thấy nó thì chẳng cần phải làm gì nhiều, chỉ dựa mỗi sắc đẹp thôi là đã đủ hấp dẫn người ấy đi theo nó.

Nói đến việc đi trong rừng ban đêm thỉ chỉ có thể một là bọn cướp, hai là mấy tay thợ săn. Mà những kẻ ấy đều là những tay xuồng xã, thấy gái đẹp mơn mởn là xấn xổ lao tới thì làm sao mà chẳng chết. Dẫu vậy, lần này đối thủ của nó là một kẻ đáng gờm, là sư Hoàng Liên chứ chẳng phải kẻ khác. Nó còn mắc phải một sai lầm chết người nữa là quên đi mất thân phận của sư Hoàng Liên, một nhà sư không hề có thất tình lục dục, chứ không phải là mấy kẻ phàm phu tục tử như nó vẫn thường hay gặp.

Nó đi qua nhà sư như thế được một hồi, mà chẳng thấy có tiếng gọi lại giống như mọi khi. Nó bèn đánh liều quay lại lần thứ hai bắt chuyện để hỏi thăm sư.

Sư Hoàng Liên cũng cảm thấy kỳ lạ lắm, vì lẽ nào trời đêm khuya khoắt mà lại có người con gái xinh đẹp như thế đi lại giữa rừng. Nếu thế thì chỉ có thể là lũ yêu ma hóa thành chứ chẳng phải là người. Sư đã ngờ ngợ nghi ngờ như thế, nhưng vì sư đang có chuyện gấp nên cũng không tính đi bắt con ma này, mà chỉ đứng yên một chỗ chờ gã gia nhân hành sự xong là sẽ đi ngay. Sư nhẩm tính sau này nếu có dịp thì sẽ quay lại đây một chuyến để thu phục con ma trành.

Sư vừa nghĩ ngợi chuyện ấy xong thì không ngờ đã lại thấy người con gái xinh đẹp lúc trước quay lại đi về phía sư. Sư hơi hốt hoảng thầm tự nhẩm: “Lẽ nào là ta tính nhầm, đời nào ma quỷ gặp ta mà không chạy, lại còn quay ngược lại để hỏi thăm, nếu thế thì chỉ có thể là người, họa chăng không phải thì hẳn là một con ma quá ngu dốt!”

Con ma trành cúi đầu chào hỏi, lễ phép lịch sự, nó nói:

- Tôi có việc phải đi qua làng Chuông ở bên kia bìa rừng, thấy sư ở đây tôi mừng quá đỗi. Vì ở quãng trước sắp đến có một con cọp dữ lắm, đã hóa thành tinh. Mà tôi thì thân gái yếu ớt không thể nào chống lại nổi nó. Nếu sư có thương tình thì xin dẫn tôi đi một đoạn qua quãng ấy, được vậy thì tôi xin cảm tạ lắm.

Sư nghe xong không nói gì, đã đoán ra ngay được đây hẳn là con ma trành muốn lừa mình đi cho yêu tinh cọp bắt ăn thịt. Vốn sư đã được nghe nhiều lời đồn đại về con ma trành này nhưng hôm nay mới được gặp mặt. Sư còn định sau này có dịp thì mới thu phục nó nhưng nay nó đã tự dẫn thân đến nạp mạng như thế này thì sư không có lý do gì để tha cho nó nữa cả.

Dẫu vậy, sư ta vẫn rất điềm tĩnh không hề để lộ ra một chút sơ hở nào. Sư muốn bắt được cả con ma trành, cả con ma cọp thành tinh kia trong một mẻ. Ngặt nỗi còn vướng người gia nhân với công chuyện làng dưới nên sư vẫn cần phải bàn tính với anh ta. Sư nói:

- Tôi cũng muốn giúp cô ngay đây thôi, nhưng tôi còn một người bạn đang bận chút việc. Việc này rất cần nên phải chờ anh ta quay lại để tôi bàn bạc thì mới đi với cô được.

Con ma trành tỏ vẻ cuống quít, nó sợ người gia nhân kia nếu quay lại thì sẽ chẳng thể ở lâu, nên nó tức khắc van nài sư thầy gấp lắm, nó nói:

- Con ma cọp thành tinh này càng về khuya thì càng khỏe, nếu thầy không giúp tôi ngay thì sợ là một lúc nữa trăng lên cao sẽ không đi nổi đâu. Thôi thì từ đây ra kia cũng chỉ có một quãng, thầy cứ đưa tôi nhanh qua đó rồi quay lại cũng chưa muộn.

Sư thầy vẫn cứ nằng nặc đứng yên tại chỗ không chịu đi. Con ma trành không làm được cách nào bèn xuống nước nói:

- Thôi nếu thầy đã cứ nhất quyết như thế, thì tôi xin đi trước một đoạn để chờ thầy. Nhưng thầy nhớ là chỉ nên đi một mình thầy thôi đấy nhé, nếu có thêm người khác tôi e sẽ gây tiếng động lớn đánh động cho con ma cọp biết được.

Sư thầy gật đầu nói:

- Xin cô yên tâm. Tôi chỉ chờ anh ta quay lại rồi báo cho anh ta một câu là sẽ đi ngay thôi.

Con ma trành gật đầu tỏ vẻ yên trí, rồi đi khuất biến mất ở cuối con đường. Một lát sau thì người gia nhân quay lại, thấy sư thầy cứ nhìn về con đường mòn ở góc trái thì liền hỏi:

- Sư thầy nhìn cái gì thế? Con đường đó là con đường cụt, lâu nay không còn người qua lại nên trở thành đường hoang rồi. Nghe nói năm ngoái có bọn thổ phỉ nổi lên ở mạn ấy nên quan quân cho đổ núi đá chặn mất đường, không còn ai đi đường ấy nữa đâu. Vốn ra thì cũng có một cái ngách nhỏ, nhưng tôi nghe người ta đồn đường ấy có con cọp nên hiếm ai dám đi.

Sư thầy vừa mỉm cười vừa đáp lại:

- Tôi nhìn con ma trành. Anh có biết không, vừa rồi con ma trành ở đường hoang ấy còn ra đây nói chuyện với tôi nữa kia.

Người gia nhân vốn còn đang điềm tĩnh thì liền hoảng sợ. Nghe đến đây chân tay người gia nhân bỗng bủn rủn mồ hôi vã ra như tắm lắp bắp hỏi:

- Sao cơ… thầy nói thầy vừa nói chuyện với con ma trành à?

Sư thầy gật đầu đáp:

- Phải, nó hóa thành hình người con gái, tính lừa tôi vào cái đường hoang ấy cho con ma cọp bắt ăn thịt. Nhưng đã bị tôi nhìn ra…

Người gia nhân vã mồ hôi chưa hết kinh sợ nói:

- Nếu là người con gái đi vào đoạn đường hoang ấy thì thôi đúng rồi. Năm ngoái có cậu Ất làm bên nhà ông phú hộ Cầu cũng bị chính con ma trành ấy hại chết. Nó táo tợn đến mức gõ cửa cả nhà cậu Ất để dắt cậu ấy đi ngay trong đêm cơ. Khi thường cậu ta hay kể với vợ là có người con gái xinh đẹp lắm buổi đêm cứ đứng ở cửa sổ gọi vào kêu cậu ta đi vào rừng dẫn mình qua đường. Sau cái hôm ấy cậu ta mất tích, người nhà vào rừng ngay chỗ đường hoang kia kìa, thì phát hiện ra xác cậu ta nằm chỏng chơ ở giữa đường, ruột gan bị moi ra hết, cổ họng thì bị táp lủng một miếng trông ghê lắm.

Dừng lại một lúc, người gia nhân mới hỏi thầy ta:

- Vậy nó nói gì thưa thầy?

Sư Hoàng Liên đáp:

- Nó nói muốn nhờ tôi dẫn đường cho nó qua một quãng đi sang làng bên, nó có việc ở làng Chuông nên cần đi gấp mới kịp. Nhìn nó thường thì chẳng thể phát hiện ra sơ hở, nhưng tôi vốn là người có kinh nghiệm nên nó không lừa nổi tôi. Chỉ vài câu thôi là tôi đã bóc mẽ được nó ngay. Nhưng tôi không vội vạch trần, mà còn chờ anh ra để nhờ anh giúp tôi thu phục nó đây.

Gã gia nhân hỏi:

- Thầy tính thu phục nó bằng cách nào thưa thầy?

Sư Hoàng Liên ngẫm nghĩ một lúc rồi mới nói:

- Tôi đã phát hiện ra nó từ lâu, từ khi chúng ta đi vào rừng là tôi đã nhận ra có con ma trành bám theo nhưng không phát giác. Mấy lần tôi thấy nó định tới gần nhưng cứ hễ nhìn thấy mặt anh là nó hoảng sợ quay đầu chạy mất. Tôi xem tướng thấy anh có cái tài dọa ma bắt quỷ nhờ khuôn mặt. Nên nếu anh chịu nghe lời tôi thì hôm nay không chỉ giúp tôi bắt được con ma trành, mà còn giết được con ma cọp đã hóa thành tinh hại người bấy lâu.

Người gia nhân nghe tới đây thì toàn thân run lẩy bẩy, xua tay lắc đầu không dám nhận. Gã ta có khuôn mặt dữ tợn như thế thôi, thế nhưng làm việc gì cũng nhát như cáy, động đâu cũng hỏng. Bởi thế nên tướng gã nhẽ ra làm tướng sa trường mà giờ chỉ là một anh hầu cho ông phú hộ cũng không xong.

Sư nài nỉ mãi mà không được, biết anh này có bệnh nhát nên sư bày cách ngay. Sư nói:

- Này nhé, tôi có viên thuốc gan dạ thần kỳ lắm. Thuốc này chỉ cần uống vào là hễ người nào dù có yếu như cọng bún thì cũng thành kẻ rắn giỏi. Có cỡ đàn bà suốt ngày bị chồng đánh đập túm cổ thì cũng có thể vùng dậy chống lại.

Gã gia nhân hào hứng hỏi:

- Thuốc gì mà thần kỳ thế hả thầy?

Sư thầy đáp:

- Thuốc này khi uống vào thì tự nhiên thấy vùng bụng nong nóng, khi ấy thuốc đã phát tác. Phàm đã nghĩ tới việc gì gan dạ mà trước nay chưa dám làm, cứ làm thử kiểu gì cũng thành công. Thuốc đã có hiệu nghiệm thì như là có thần hộ mệnh, vật khác không sao tổn hại được. Nếu quả như anh giúp được ta, thì ta xin biếu anh mười viên. Thuốc này quý lắm, cả đời ta cũng chỉ luyện được hai mươi viên, cho anh mười viên là tốt lắm rồi đấy nhé!

Gã gia nhân nghe xong thì lấy làm mừng lắm, vội đồng ý ngay với thầy ta. Thầy ta đưa trước cho gã một viên dùng thử. Gã dùng xong thì quả nhiên thấy bụng ấm nóng, tinh thần có vẻ phấn chấn lên hẳn.

Gã ưỡn thẳng ngực không hề sợ hãi đi thẳng vào lối đường hoang. Sư thầy cứ tấm tắc cười mà đi theo không nói gì. Con ma trành thấy gã gia nhân hùng hổ xông vào như thế thì liền hoảng sợ lắm, định quay đầu chạy trối chết thì sư thầy đã ném cho gã gia nhân một cái bao màu vàng và nói:

- Cái bao này là bao của nhà phật, bắt được hết lũ ma lâu nhâu, anh bắt cho ta con ma trành nhốt vào đây để từ dày nó không còn đi hại người được nữa.

Gã gia nhân nghe theo, chẳng hề e sợ gì cả vì chắc chắn là mình đã uống được thuốc thần kỳ gan dạ nên cứ thò tay chụp thẳng cái bao vào người con ma trành. Con ma trành thất thanh ú ớ kêu lên xin tha thì bị gã đập cho mấy nhát vào bao mà nạt:

- Im miệng ngay! Nếu không thì đừng trách tao đánh cho nhừ đòn.

Con ma trành nhìn qua miệng bao thấy mặt gã hung tợn, lại quát nạt dữ lắm thì không dám làm trái, chỉ co ro một chỗ không tiếp tục lên tiếng.

Đúng lúc ấy thì có tiếng hổ gầm rất lớn, một con hổ to dài đến độ thước rưỡi, nặng cả trăm cân nhảy chồm từ một tảng đá trên cao xuống mặt đường. Mắt nó sáng quắc, râu nó vểnh lên, miệng nó nhỏ ra nước rãi tanh hôi.

Gã gia nhân không những không sợ hổ gầm, mà còn tiến thẳng tới hùng hổ túm lấy cổ con cọp. Con cọp mới đầu còn gầm lên dọa nạt, nhưng sau cũng bị khuôn mặt dữ tợn của gã dọa cho hãi hùng mà co ro khúm núm. Cuối cùng ngoan ngoãn như một con mèo con bị gã túm cổ xách lên lơ lửng mà chẳng dám động đậy. Gã cười khành khạch hỏi thầy Hoàng Liên:

- Vậy giờ thì con cọp này nên xử trí thế nào thưa thầy?

Thầy Hoàng Liên đáp:

- Cọp giết nhiều mạng người quá rồi, lẽ thường là phải giết nó đi để cho nó đền tội. Nhưng cửa chùa có đức hiếu sinh nên không thể làm như vậy được. Nay anh bẻ hết răng nanh móng vuốt của nó. Cho nó không thể hại người, chỉ có thể săn bắt thú nhỏ để sống qua ngày, thế là được.

Gã gia nhân nghe theo, liền bẻ hết răng nanh của cọp chỉ để lại răng thường. Lại nhổ hết móng vuốt cho cọp hết hại người. Con cọp đau đớn quá cứ gầm rú liên tục nhưng không dám kháng cự lại. Vì mỗi lần nó có ý định ấy là lại được dịp khiếp sợ khuôn mặt hung hãn của người gia nhân.

Sư thầy trừ xong ma trành lại trừ được ma cọp thì đêm ấy lại tiếp tục đến nhà phú hộ ở làng dưới. Xong việc thì sư thầy vẫn giữ đúng lời hứa là cho anh gia nhân thêm đủ số thuốc gan dạ như đã hứa là mười viên.

…o0o…

Khi con ma trành bị hạ gục và bị sư Hoàng Liên bắt về chùa. Lũ ma quỷ lâu nhâu vẫn chưa hết hy vọng. Chúng lại tôn ma tội thần lên làm đầu lĩnh để thực hiện cuộc ám hại. Trong cuộc bàn mưu ấy, tất cả các con ma trong cõi Ngạ Quỷ đều họp mặt đông đủ, duy chỉ có quỷ oa thì bị khinh là còn nhỏ, vì không được coi trọng nên không được mời.

Lũ quỷ oa thường ngày chỉ biết khóc lóc, lại nghịch ngợm. Thân hình có đứa chỉ bé bằng đốt ngón tay nên bị bọn ma lâu nhâu coi thường lắm.

Năm sau có loạn Quách Bốc nổi lên, loạn quân tràn qua chùa.

Sư Hoàng Liên bị lôi ra ngoài cửa chùa bêu đến mấy ngày, vốn việc ấy cũng sẽ nhanh qua. Nhưng lũ ma tội thần đâu có dễ dàng buông tha cơ hội như thế, chúng chờ dịp này đã lâu và chẳng còn mong muốn gì hơn là giết sư Hoàng Liên.

Nói đến ma trành thường được kể là chúng giỏi việc dụ dỗ người bằng nhan sắc của mình thì ma tội thần lại có một cách thức khác để lừa người tin theo chúng. Lũ ma tội thần xưa nay chết do bị người ám hại, chết do mưu cầu quyền cao, chết do nhỏ nhen đố kỵ, thường hay tụ thành bầy thành lũ đánh nhau liên miên, chúng có thói quen như vương giả, lúc nào cũng thường hay lừa người sống ham thích quyền bính, tự hại mình mà chết giống như chúng.

Bởi vậy, cứ nhắc đến ma tội thần, là sẽ phải nhắc đến thói quen mị người của chúng. Người nào mà bình sinh tham quyền tiếc việc thì rất dễ bị lũ ma tội thần đưa vào tròng.

Nhân đêm mùng bảy tháng sáu, tiết trời oi ả. Quan quân của thuộc tướng họ Quách đều lui về trong trấn. Ngoài chùa khi ấy đều không có người, tăng ni đều được thả lỏng một bận.

Bất chợt, bên ngoài chùa có tiếng hối gấp vang tợn. Một chú tiểu sắc mặt tái xanh chạy vào bẩm báo với sư Hoàng Liên nói:

- Bẩm sư phụ, ngoài chùa có mấy viên quan tướng tá dữ tợn lắm, đang thét đòi sư phụ ra gặp gấp.

Sư Hoàng Liên cau mày suy xét, vốn thường nửa đêm canh ba, quan quân cũng chẳng bao giờ vào chùa hạch sách như thế, chúng đều ngủ say như chết ở ngoài trướng. Mà đêm nay lại là đêm mùng bảy, rơi vào giờ xấu, theo tử vi hạ chiếu thì là giờ ma quỷ hiển hiện. Sư Hoàng Liên nhất quyết cho rằng đằng sau chuyện này có một bí mật rất lớn.

Sư hối tiểu vào am, đem cái túi vàng bằng vải thô mang ra cho sư. Lại lệnh cho ba chú tiểu khác mang cái mõ giấu vào trong người. Chuẩn bị xong hết những thứ ấy thì sư mới trịnh trọng đi ra cổng chùa nghênh đón mấy viên quan dữ tợn.

Bên ngoài cửa chùa lúc này, đang có bốn viên quan đứng đó chờ sẵn, hai người mặc bộ cẩm bào màu xanh. Hai người con lại thì mặc trang phục võ tướng. Một người có tướng tá dữ tợn, nhìn thấy sư đi ra thì liền quát lớn:

- Hay thay cho con lừa trọc, thấy các quan lớn đây mà không kính cẩn cúi chào, vậy là tội lớn lắm đấy.

Sư không cho là đúng, chỉ hơi nghiêng mình như có lệ. Một viên quan cẩm bào thấy vậy thì liền bước lên, dùng giọng phiền hà nói:

- Nay xét ông có nhiều công tích việc thiện nên tôi được thủ dụ của Quách công, muốn mời ông xuống núi làm quốc sư. Nếu ông đồng ý việc ấy thì phải đi ngay đêm nay mới kịp.

Sư nghe đến đấy, sắc mặt không khỏi trầm xuống. Nay đảng họ Quách tuy chiếm được nước, nhưng không được lòng người, sớm muộn gì cũng tiêu vong, nếu như sư đi theo, vậy há chẳng phải là đầu quân cho giặc phản loạn hay sao.

Nom sắc mặt sư thầy như vậy, một vị quan cẩm bào màu xanh còn lại như hiểu ý, liền hắng giọng phụ họa thuyết phục ngay:

- Chức quốc sư đương triều là lớn lắm, chẳng ai có phúc phận như thế đâu. Ông phải đồng ý nhanh mới kịp, kẻo muộn ra, Quách công hối hận, chọn mất người khác thì quả là đáng tiếc.

Bốn kẻ đứng ở cửa chùa, người đấm kẻ xoa, khi thì tâng bốc đủ đường, khi lại dọa nạt đầy ép buộc. Dùng cách nào cũng muốn sư phải theo chúng xuống núi ngay.

Cuối cùng tranh luận mãi không được, sư liền được dịp lên tiếng hòng cắt ngang mưu đồ của bọn chúng:

- Nay nếu quan gia thí chủ đã có lòng như thế, Liên tôi không nhận, là khinh nhờn bậc tôn quý. Vậy trước hết cũng xin được mời các quan vào chùa một lần, bái qua phật tổ ba lạy, để xin phép phật tổ giúp tôi rời núi, nếu được như vậy, thì tôi sẽ đi ngay.

Sư nói xong lời ấy, cả bọn đều cuống cuồng lúng túng. Tên thuộc tướng mặt mày dữ tợn quát lên nói:

- Thằng lừa trọc này định lừa chúng ta vào chùa để bắt đây mà, xem ra thế là hỏng rồi.

Gã nói xong, không ngờ liền hối hận ngay lập tức, vì ra chiều đã lỡ miệng. Ba tên còn lại nhìn nhau không nói câu nào, chưa chờ cho sư Hoàng Liên bóc mẽ, đã lập tức hóa thành bốn đạo độn quang biến mất ở giữa chân trời.

Lúc này ba tiểu phía sau sư Hoàng Liên mới hiểu hết, vội vã xanh mặt. Thì ra bốn người vừa rồi quả là ma tội thần thật. Lũ ma tội thần khi còn sống người thì là quan quân, người thì là văn thần, ai nấy đều có khí thế quan trường nên lúc gặp khó mà phát hiện được ra thật giả. Cũng may sư thầy cơ trí, tính lừa chúng vào chùa bái lạy nên mới bóc mẽ được chúng. Bình sinh lũ ma tội thần hay làm càn, nhưng cũng rất sợ đức phật. Vì chúng lo rằng tâm cảnh của chúng nếu gặp phật, e lại bị độ hóa siêu thoát mất. Nếu vậy thì quả thật chẳng khác nào trộm gà không được mà còn mất nắm gạo, nên chúng bỏ trốn ngay.

Lại nói sư Hoàng Liên sau khi trải qua chuyện ấy thì cũng ngờ ngợ đoán ra được rằng mình đang dính phải chuyện gì. Dường như lũ ma quỷ lâu nhâu xứ này đã có một cuộc sắp đặt để mưu hại sư ta.

Năm sau sư thầy tổ chức một cuộc viễn du thuyết giảng phật pháp trong đạo. Một đêm sư thầy đi qua một trấn nhỏ, trời đã khuya lắm rồi chẳng thể đi tiếp. Gần đấy có một cái miếu nhỏ đã bị bỏ hoang nên sư đến nương tạm.

Đến nửa khuya, khi sư toan đánh giấc thì chợt bên ngoài có tiếng huyên náo. Tiếng động vang lớn lắm khiến sư không sao yên giấc. Sư nhổm dậy đi đến bực cửa, nheo mắt nhìn rõ ra bên ngoài thì chỉ thấy một đoàn người mặc áo đen cầm kiếm giáo, đang áp giải một đám tội nhân gông cùm kéo đi.

Người dân trong trấn ùa ra xem sự việc. Ánh đèn đuốc sáng rực cả con đường đen. Trong lúc sự việc còn chưa rõ ràng, thì chợt có tiếng gọi cất lên hướng phía nhà sư:

- Thì ra sư thầy cũng ở đây à?

Sư quay sang nhìn thì liền phát hiện ra người gọi mình lại chính là người gia nhân năm xưa. Khi này anh ta đã mặc áo giáp chỉnh tề nghiêm trang, khí độ tỏ rõ là một viên tướng lão luyện.

Nhân đấy hai người mừng vui trò chuyện, sư được giải đáp. Thì ra người gia nhân sau khi được sư cho phương thuốc lạ, tính tình bỗng sửa đổi hẳn nên được trọng dụng. Năm trước quan quân của Tô công chiêu mộ nghĩa quân, chủ tớ nhà phú quan đều quy thuận, anh gia nhân được cất nhắc lên làm lính trưởng. Đến nay lập nhiều công trạng đã được phong làm thiên hộ tướng.

- Cũng may nhờ có phương thuốc của nhà thầy, tôi mới có được ngày hôm nay. Nếu nay mai thầy có việc cần cứ đến tìm tôi, tôi sẽ giúp đỡ hết nước.

Người gia nhân cảm kích nói.

Sư thầy cười vang đáp:

- Nếu anh được như vậy thì tôi cũng mừng, thú thật với anh là tôi chẳng có phương thuốc nào chữa gan dạ cả, điều ấy là tự do anh nghĩ thông nên nó khắc khỏi mà thôi.

Anh gia nhân không tin vẫn xua tay nói:

- Sư có thuốc thần sao vẫn cứ cố giấu, sợ tôi lộ cho người khác biết được nên đòi thuốc chăng? Sư thầy yên tâm, chuyện này tôi sẽ giữ kín bí mật…

Sư trịnh trọng nói:

- Tôi nói là thực đấy, tôi chẳng có phương thuốc nào gan dạ cả, khi trước tôi lừa anh là để anh bắt quỷ giúp tôi đấy thôi. Thuốc đấy là thuốc chữa bệnh dạ dày chứ nào có chữa gan dạ gì. Bình sinh con người ta có tính hay nhát, đấy là do tâm bệnh, chứ chẳng có cây thuốc nào có thể chữa khỏi. Muốn chữa khỏi, chỉ khi tâm bệnh của người ta tự giải thoát. Nếu khi người ta đã vượt qua được nỗi sợ hãi được một lần, lần sau tự khắc quen, nên không còn sợ nữa…

Anh gia nhân sực tỉnh hiểu ra, bèn vái lạy sư mấy lần rồi nói:

- Vậy mà trước này tôi cứ nghĩ là do thuốc thần. Nhưng ngẫm lại cách chữa trị này cũng chắc khác nào bậc thần tiên ra tay trợ giúp, vẫn là phương thuốc quý, phải khắc dạ ghi tâm…

Nhân cuộc trò chuyện đang vui vẻ, nhà sư liền hỏi:

- Vậy chứ mấy người tội thần mà anh áp giải là những ai, vì sao mà lại bị bắt đi như thế?

Anh ta nói:

- Đó là thuộc tướng của đảng họ Quách, là họ Đàm. Nay bị quân tướng của Tô công hô ủng bắt được, đang định đem áp giải về cho Cao Tông xử trí.

Sư thầy hỏi:

- Nếu giải về cho nhà vua xử trí thì sẽ bị ra sao?

Anh ta đáp:

- Nhất định sẽ bị chém bêu đầu ở cổng thành, con cháu đều phải giết hết, rồi chôn chung một ổ trấn bùa cho chúng không thể siêu thoát.

Sư trầm ngâm nói:

- Như vậy thì ác lắm, sẽ lại sinh ra lũ ma tội thần mới đấy. Nếu anh đã cảm ơn tôi giúp anh chữa bệnh, thì tôi xin nhờ anh một việc.

Anh gia nhân gật đầu, sư thầy liền tiếp lời:

- Khi nào nhà vua cho bêu đầu những người ấy, anh đọc giúp tôi một bài kinh. Sau này đầu người chôn ở đâu thì xin báo cho tôi một tiếng để tôi biết chỗ mà đến giải oán.

Anh gia nhân nghe chừng khó xử, vì nếu ngầm trái ý nhà vua báo cho người khác giải bùa thì mắc tội. Mà nếu không đáp ứng cho nhà sư thì cũng khó trả ơn nghĩa, như vậy cũng bội tín lắm.

Sư thầy hiểu ý bèn nói:

- Anh không cần phải sợ, việc này chỉ có tôi với anh là được biết, hơn nữa tôi cũng không làm ngay, mà phải vài năm sau mới làm. Nên nếu nhà vua mà trách tội, tôi sẽ nhận cả.

Anh gia nhân nghe đến đấy mới gật đầu tạm ưng.

Trời vẫn còn quá khuya khoắt, quan quân đã đi hết mà ánh lửa vẫn còn lập lòe phía đằng xa. Sư thầy nhìn kĩ trong khung trời đen thì phát hiện ra có một bóng người con gái tiều tụy, y phục rách nát, bèn đón vào trong miếu cho chăn ấm để đắp, lại phát lương cứu đói.

Anh gia nhân vẫn chưa đi, thấy sư thầy cứu giúp một người nạn dân thì liền hỏi:

- Nay binh lửa liên miên, thân nhà chùa còn chưa giữ nổi miệng ăn mà vẫn cứu đói sao?

Nhà sư đáp:

- Đã là người hướng thiện thì dù mình chết đói, cũng phải hướng cho người ta được yên ấm cực lạc. Tâm ổn định thì mới thành được chính quả, giáo lý nhà phật là vậy đấy.

Rồi quay sang hỏi han người con gái ăn mày dưới kia:

- Vậy chứ thí chủ sao ra nông nỗi này, người thân thích có còn ai không?

Người con gái tiều tụy run run đáp:

- Cha tôi bệnh nặng đang cấp cứu ở nhà, tôi cùng chồng tôi qua thăm, giữa đường thì gặp nạn binh đao nên mới thành ra như thế. Chồng tôi hiện đã chết, còn kẻ hầu người ở thì chạy nạn tứ phía không sao họp lại được.

Nói chừng được một lúc, người con gái chợt túm lấy sư thầy rồi van nài:

- Nay cha tôi bệnh nặng cần tiền chữa gấp, tôi phải về nhà để lấy tiền đem đến cho cha tôi mua thuốc. Sư thầy đã cứu khổ cứu nạn, thì xin đưa tôi về nhà để tôi lấy tiền vàng cứu cha tôi.

Sư thầy nghe ra gia cảnh người này cũng giàu có, chẳng qua là gặp vận hạn nên mới đến bước đường này, bèn gật đầu đáp ứng.

Duy chỉ có điều người gia nhân nay là viên tướng kia lại có điều nghi kỵ. Anh ta cảm thấy người con gái này có điều gì uẩn khúc, giấu giếm, rõ là nói dối nhưng không tiện vạch trần.

Nhớ lại lời sư thầy cách đây vài năm có nói, anh ta có tướng dọa ma quỷ nên nếu ma quỷ mà gặp anh ra thì nhất định sẽ rất sợ hãi. Mà người con gái này có thái độ y hệt con ma trành năm xưa, không dám giáp mặt anh ta, còn tránh nhìn thẳng vào trực diện.

Nhân lúc chỉ có hai người, viên tướng thủ thỉ vào tai nhà sư:

- Tôi thấy người này dễ là ma hóa thành để lường gạt sư thầy, sư thầy nên cẩn thận.

Sư thầy cười đáp:

- Tôi là người hiểu phật pháp, lại hiểu giống loài ma quỷ, ma quỷ nào mà làm tôi sợ. Có điều anh yên tâm, ma quỷ là tôi nhìn ra ngay, cô ta là người thường, khổ nạn thật đấy, phải giúp đỡ mới được. Nếu anh đã có chút quyền trong tay, sao trong thời buổi loạn lạc không giúp tôi và cô ấy đến được nơi cần đến.

Viên tướng chấp thuận đi theo nhà sư ngay. Không phải vì muốn trả ơn nhà sư, mà là lo canh cánh người con gái kia thực là ma quỷ muốn ám hại nhà sư, nên mới phải đi theo để bảo vệ sư thầy.

Buổi sáng hôm sau, ba người hành trang gọn gàng, nương theo lối đường rừng tối om để đi.

Theo sự chỉ dẫn của cô gái, nhà chồng cô ta tách biệt trong rừng và hiếm khi có người qua lại. Nghe nói bố chồng cô ta là một vị quan đã thoái ẩn, nên mới muốn sống tách biệt trong rừng. Gia sản nhà cô ta giàu bạc vạn, và hứa sẽ quyên góp cho nhà chùa rất nhiều nếu như chuyến đi này được an toàn.

Con đường rừng âm u tách biệt với thế gian, kéo sâu vào trong rừng núi. Rắn rết bò khắp nơi lổn nhổn. Quạ kêu réo đầy trên cành cây khô.

Quả là một khung cảnh ghê rợn, nơi đây giống như đường vào cõi chết chứ không phải là một con đường do người khai khẩn.

Càng đi thêm vào sâu, viên tướng càng cảnh giác và cảnh báo nhà sư, nhưng nhà sư vẫn trấn định anh ta yên trí.

Qua hai ngày đường, ở cuối còn đường rừng lộ ra một cái hang đá đen ngun ngút đâm sâu vào trong lòng núi. Bên trong đó nom có ánh sáng hắt ra, lại là một ngôi nhà gỗ nhỏ, sâu trong nữa là biệt viện đình đài, giống hệt chốn tiên cảnh.

Đến khi này viên tướng mới tạm thở phào nhẹ nhõm, xem ra anh ta có thể đã hiểu nhầm.

Cô gái dẫn hai người đến một cái đình đài có suối chảy phun lên cao, ở giữa là một cái tượng người bằng đá, lộ ra một cái đầu người bị mất quá nửa cái đầu lâu. Có thể là do đá nứt nên tượng đá này không còn được nguyên vẹn.

Dưới đài phun nước, là một loạt dây leo chằng chịt, cũng không biết là loại cây gì. Khi sư thầy trấn định chuẩn bị ngồi xuống ghế đá, thì đột nhiên bàn chân mắc phải một mớ dây leo. Sư thầy đem tay gỡ lấy, không ngờ lập tức trợn mắt hoảng hốt ú ớ.

Người con gái đang đi được nửa chừng, liền quay phắt lại trừng mắt nhìn nhà sư, điệu bộ cực kỳ dữ tợn như vừa bị vạch trần chuyện gì xấu xa vậy.

Viên tướng thấy nhà sư hoảng hốt như vậy thì liền hỏi:

- Sư thầy, sao vậy?

Sư thầy hãi hùng thốt lên:

- Thôi thế là hỏng rồi, nó chính là con ma giữ của. Đây là dây leo của cây sâm, chính là củ sâm tươi còn sống cắn trong miệng nó. Dây leo còn có dính bột vàng đây…

Lời sư thầy vừa nói xong thì cả biệt viện liền biến mất, xung quay lầu các đều biến thành quan tài. Xương cốt vương vãi khắp nơi, mùi thối bốc lên nồng nặc tứ phía.

Viên tướng lắp bắp trỏ vào mấy bộ xương dưới đấy mà hỏi:

- Sao ở đây lại có lắm xương người chết như thế?

Sư thầy nói:

- Họ chính là những người bị ma giữ của dẫn đường. Ma giữ của này là loài khó mà phát hiện nhất, bình thường thì nó như người sống, chỉ khi động phải gốc rễ của cây sâm mà nó ngậm, thì nó lộ nguyên hình ra ngay.

Sư thầy nói xong thì liền hối viên tướng với mình hướng phía cửa đá chạy gấp.

Đằng sau những cỗ áo quan, một cái bóng hình người con gái lập lòe, miệng bạnh ra mở to đang ngậm một củ sâm tươi, mắt bị móc và tóc thì bện chặt lại giống như dây thừng, mớ dây thừng bện bằng tóc vươn dài đến hướng nhà sư như muốn túm gọn ông ta lôi vào trong mộ huyệt róc xương mổ thịt như bao kẻ oan uổng trước đó táng mạng tại đây.

Viên tướng với nhà sư hướng phía cửa huyệt chạy như điên, sau cùng dây leo bịt kín gần như mọi kẽ hở, chỉ chừa mỗi một lối vừa một người chui. Viên tướng vội đẩy nhà sư ra ngoài, còn mình thì bị con ma giữ của lôi lại không thoát kịp.

Nhà sư hoảng quá cứ chạy như bay, sau cùng chỉ nghe được tiếng thét kinh khủng của viên tướng.

Bốn phía đều vắng lặng và hậu quả là một người phải bỏ mạng vì sai lầm của sư thầy. Nếu lúc trước ông ta nghe lời viên tướng nói, chắc đã không có những hậu quả như vậy.

Sư thầy trở về chùa Hoàng Sơn, đi ngang qua một con đường nhỏ thì gặp một đứa trẻ cỡ chừng mười tuổi đang ngồi ở vệ đường thất thểu, bèn hỏi:

- Nhà cháu sao lại ngồi đây, cha mẹ của cháu đâu?

Đứa trẻ đáp:

- Mẹ cháu ở trong núi, mẹ cháu bảo cháu ở đây chờ ông đi qua thì nhờ ông giúp một chuyện.

Sư thầy lúng túng định hỏi chuyện gì thì ngay đó mặt mũi đã cứng đơ, cái đầu lâu rụng tức khắc khỏi cổ.

Đứa trẻ, nay đã hóa thành hình thù một người không rõ mặt mũi, lộ ra một cái hốc miệng đen nhẻm. Giữa vệt máu tứa lưa đang phun lên trời là kèm theo một giọng nói vang văng vẳng:

- Mẹ cháu bảo cháu mượn đầu của ông về làm đồ chơi…

Đứa trẻ tung tăng chạy nhảy, cầm cái đầu của nhà sư tung hứng đi về phía rừng hoang, nơi có con đường đi tới làng Chuông năm xưa.

Sư thầy chẳng hề biết rằng, làng Chuông năm nào đã chẳng còn người sống, nơi đó chỉ có lũ ma quỷ tụ tập và dẫn đường đưa lối người sống cho chúng ăn thịt.



Đó là câu chuyện về con quỷ thứ tư được nhắc đến trong lịch sử. Chắc tôi không nói rõ thì quý vị cũng biết được con quỷ thứ tư là ai, và tên gọi của nó là gì.

Thời nay người ta cũng có thể vô tình gặp phải loài quỷ này, nhưng chúng thường ngụ dưới gốc cây đa và kêu khóc không đi. Khi muốn di dời một cây cổ thụ hoặc chặt hạ, người ta sẽ phải thỏa mãn đòi hỏi của chúng, nếu không thì không thể nào chặt nổi cây, dù cho có mang xe kéo, máy cưa thì cũng vậy, những thứ ấy đều hỏng. Chúng chỉ cần một thứ đồ chơi của chúng, một cái đầu người mà thôi.

Lại nói con người ta bình sinh đều có khuyết điểm, phải biết khuyết điểm mà sửa trị. Sư Hoàng Liên là người nhà phật, dung tục háo sắc không mắc, tham quyền không tham, tiền tài cũng không bị làm cho mờ mắt. Phải nói kiếp nạn của ba loài ma đều đã thoát nhưng lại tự cho mình là tài cao mà sau này khiến sai lầm nối tiếp sai lầm.

Thương người là điều tốt nhưng cũng cần đúng lúc đúng chỗ, nếu không cũng chỉ tự rước họa vào thân. Lề thói người ta chỉ biết dè bỉu lẫn nhau, lại hiếm khi chỉ ra khuyết điểm của mình, đời sống thực cũng vậy.

Nếu nhà sư không cho mình là người tài cao, mà nhận ra khuyết điểm kịp lúc, chắc cũng không bị lũ ma quỷ tính toán như thế, càng là không nên chết trong tay một con quỷ bị tất cả cõi âm khinh thường.

Đời người luôn có khiếm khuyết, không ai là hoàn hảo, nắm chắc những điều ấy mà sửa đổi thì mới có thể là một người ngay thẳng không sợ bất cứ điều gì hết.
 
Chương 7: Gia phả của máu


(Truyện ngắn nằm trong series truyện ngắn kinh dị Ma Làng của tác giả Ngạ Quỷ)

Ở làng Vạn có dòng họ Lã mấy trăm năm buôn tơ lụa có tiếng, còn được đích thân vua Nguyễn chọn là người tiến cống tơ lụa để may quốc phục. Nhưng ít ai biết được, để có được những tấm lụa đẹp như thế thì ẩn giấu trong nó là một bí mật đáng sợ đến mức kinh người.

Trăm năm trước vì trong dòng họ có nội loạn, con cháu tranh nhau cướp lấy công thức bí truyền để tạo nên những tấm lụa quý, mà sau này người ta thường gọi nó là lụa Hà Thành. Cuộc tranh cướp đẫm máu của con cháu trong họ, thanh trừng gần hết những người thuộc phả hệ dòng họ này. Sau cùng chỉ còn vài chi thứ là còn sống sót, và cái công thức bí truyền để tạo nên thứ lụa quý cũng đã bị thất lạc.

Mãi đến tận ba năm về trước, ông Hùng là con cháu đời thứ mười mấy của dòng họ này, cải táng mộ tổ mới phát hiện ra được công thức làm thứ lụa quý giấu dưới lớp quan tài ở bia mộ. Và kể từ đây những chuyện đáng sợ đã bắt đầu ập đến với gia đình ông.



Ông Hùng thắp nén hương bay nghi ngút, cắm lên cái bát nhang ở trên bàn thờ, nhìn thấy thằng con trai cả đang quỳ lạy ở trước bậc thềm mà thở dài bực dọc, ông nói:

- Mày đứng lên đi, cho dù mày có cầu xin tao như thế nào đi chăng nữa thì cũng không được. Mà từ nay tao cấm tiệt đứa nào được động vào cái quyển công thức ấy, cho dù sau này tao chết đi rồi thì mày cũng phải chôn nó xuống mồ sâu cùng với tao…

Ông Hùng nói xong quay đầu vào buồng trong, không thèm nhìn thằng con cả tên là Hưng đang quỳ trước nhà.

Hưng buồn rầu, biết là thuyết phục bố thì cũng không được. Nhưng ngoài cách ấy ra thì gã chẳng còn cách nào khác. Gia cảnh họ Lã mấy năm nay đã quá sa sút, người trong dòng họ này vì ở quê quá nghèo nên đều đã bỏ làng đi tha hương biệt xứ. Duy chỉ còn ông Hùng là bám trụ lại cái đất này, vì mang tiếng là trưởng họ phải hương hỏa các cụ.

Hưng năm nay đã ngoài ba mươi tuổi, tính ra trong làng thì cũng đã là người lớn tuổi rồi. Đáng lý ra với tầm tuổi này thì Hưng phải con đàn cháu đống, vợ con xum họp. Ấy vậy mà chỉ vì gia cảnh của họ Lã quá sa sút khiến gã chẳng thể lấy được vợ.

Hưng yêu Thúy, là người làng Phục kế bên làng Vạn. Gia cảnh nhà dòng họ Phùng của nhà Thúy mấy đời nay rất phất vì buôn bán có lời. Bố Thúy là lão Quyền thì đã đánh tiếng, nếu ai mà muốn lấy con gái lão thì ít nhất đất đai cũng phải xứng vào hàng phú hộ thì mới được. Lão nói phong phanh cho cả làng cả tổng biết như thế, ấy cũng chỉ là vì muốn nói cho Hưng biết là gã không xứng mà thôi.

Nhưng Hưng nào có chịu nghe, nếu tính ra thì cụ tổ cái dòng họ Phùng của lão Quyền, ngày xưa chỉ là đứa hầu trong nhà cụ tổ nhà họ Lã mà thôi. Thế mà nhà họ Phùng của lão quên gốc, bây giờ mới làm ăn được có tí tiền mà đã muốn ngồi chiếu trên. Trong lòng Hưng không phục, nhưng không còn cách nào khác, gã đành phải ngậm đắng nuốt cay quên đi mối tình của gã với Thúy mấy năm trời.

Chẳng ngờ rằng, ông Hùng sau đó lại đào được cái công thức bí truyền đã thất lạc hằng trăm năm của dòng họ Lã dưới bia mộ tổ kia. Kể từ đây Hưng bắt đầu nảy ra cái ý định phục hưng dòng họ Lã giàu có như xưa chỉ với thứ lụa quý. Gã bàn với ông Hùng là mở lại xưởng lụa và dùng lại công thức bí truyền đã thất lạc để trấn hưng dòng họ. Nhưng chẳng hiểu sao ông Hùng lại gạt phăng cái ý định ấy đi, và còn đe gã rằng không bao giờ được phép tơ tưởng đến quyển công thức ấy, nếu không muốn bị ông đánh cho gãy chân.

Hưng không nghe, và trách ông Hùng lắm. Mấy lần dò hỏi không được, nên hôm nay Hưng mạnh bạo dùng hết mặt mũi muốn quỳ trước từ đường, ép ông Hùng phải giao ra quyển công thức để trấn hưng lại dòng họ. Nhưng ông Hùng lại vẫn giống như mọi lần, đuổi gã đi và không đồng ý việc ấy.

Hưng chán nản đứng dậy. Gã định quay đầu vào buồng đi ngủ thì chợt có tiếng gọi vọng đến từ cánh cổng ngoài sân:

- Cậu Hưng, cậu Hưng!

Hưng quay đầu lại nhìn, thì thấy là thằng Toại, cháu trong họ của mình. Toại năm nay hơn Hưng đến ba tuổi, nhưng tính về cái vai vế trong họ, thì Toại vẫn phải gọi Hưng bằng cậu xưng con.

Giọng Toại hớt hải như gấp lắm, Hưng đang bực mình trong lòng vì chuyện ông Hùng không đồng ý khi nãy, nên đâm ra cũng giận cá chém thớt quát lên:

- Có việc gì, giời nắng giời nôi buổi trưa nhà người ta mày cứ hét toáng cả lên thể hả, định không cho ai ngủ phỏng?

Toại cười toe toét, tự tiện mở cổng đi vào sân. Toại chạy đến gần chỗ của Hưng, ghé miệng sát tai gã thì thầm nói nhỏ:

- Cậu ơi, con nghe nói thằng Việt, con chú Bằng nó về làng rồi đấy!

Thằng Việt con ông Bằng, năm nay ngoài hai mươi lăm tuổi, cũng là một chi thứ trong họ Lã. Tính về vai vế thì Việt cũng phải gọi Hưng bằng cậu. Năm thằng Việt lên ba, thì ông Bằng chết, bà Hòa là vợ ông Bằng vì không còn cách kiếm sống ở làng, nên đã đem thằng Việt bỏ đi biệt xứ, mấy chục năm tung tích không rõ. Hưng cứ ngỡ là hai mẹ con nhà ấy đã chết rồi, thế mà hôm nay Toại lại nói rằng Việt đã trở về. Ban đầu thì Hưng cũng phải cố lục lọi trong ký ức của mình xem thằng Việt mà Toại nhắc đến là ai. Nhưng sau đó khi được Toại kể đến ông Bằng thì Hưng lập tức nhớ ra là mình có đứa cháu họ này.

Có điều, Hưng không hiểu Toại nhắc đến thằng Việt là có ý gì? Trán gã hơi nhăn lại hỏi:

- Thằng Việt nó về làng thì làm sao, có liên quan gì tới tao đâu?

Toại đắc ý lắm, hắn cười nói:

- Thế thì cậu không biết rồi, bà Hòa từ lúc đi biệt xứ, hóa ra là lên thành phố làm ăn, giờ giàu có lắm. Thằng Việt về thăm quê theo lời mẹ nó, mang theo bao nhiêu là tiền, chỉ cần kỳ này cậu cháu mình quan hệ tốt với nó, là không khéo cũng được sang lây đấy cậu ạ.

Hưng mở to mắt kinh ngạc, trong lòng gã thoáng tính toán.

Một lúc sau, Hưng gật đầu nói:

- Được rồi, mày về qua nhà chuẩn bị đi, tối qua gọi thằng Việt mời qua nhà cậu, bảo là cậu nghe tin nó về nên gọi qua ăn cơm. Phải bắt nó sang đây bằng được đấy nghe chưa?

Toại gật đầu xoa tay nói:

- Vâng, lời cậu bảo cháu cũng xin nghe. Nhưng hôm qua cháu nghe nó phong phanh nói chuyện, hình như là nó đã biết được cái chuyện ông đào được cuốn bí kíp ở trong mộ tổ nhà mình rồi đấy!

Hưng toan quay đầu chuẩn bị bước vào nhà, lại nghe đến đấy liền có cảm giác không ổn. Gã cảm thấy rằng lần này Việt về là có toan tính chứ không phải là chuyện đơn giản. Hưng quay ra nhìn Toại hỏi:

- Làm sao mà nó biết được, việc ấy chỉ người trong họ nhà mình mới biết được thôi cơ mà. Cái đứa đi biệt xứ như nó bao nhiêu năm nay thì tại sao lại biết được việc làng như thế? Là ai lộ cho nó?

Toại bối rối lắc đầu nói:

- Dạ cháu không biết!

Hưng thoáng tính toán trong đầu, mắt gã đảo láo liên một hồi rồi nói:

- Được rồi, mày cứ gọi nó tối nay qua đây, tao sẽ dùng lời bóc mẽ mà dò xét nó thử xem thế nào…

Hưng nói xong thì đuổi Toại về, còn gã chui vào nhà. Trước khi vào buồng trong ngủ trưa, gã còn thoáng liếc qua cái khay gỗ đặt trên cái ban thờ ở trước từ đường, rồi mới nhịn nuốt nước bọt bước đi vào buồng trong.

Tối đến.

Hưng đã làm sẵn bữa cơm rượu sang trọng. Gã còn phải bấm bụng gạ xin mãi thì bà Hường mới chịu cho gã thịt con gà trống cuối cùng trong đàn gà để đãi Việt.

Sáu giờ tối, đã thấy Toại lấp ló ngoài sân và đi theo sau gã là một người đàn ông cao chừng mét bảy, rất to béo và bụng hơi phệ, với cặp mắt đầy tính toán và gian xảo. Người đàn ông này chính là Việt, tính về vai vế trong gia phả họ Lã, thì Việt là cháu của Hưng.

Hưng ngồi trước hiên nhà, đưa điếu thuốc lào lên rít sòng sọc nhìn xuống dưới sân, nơi Việt với Toại đang bước vào. Toại vừa nhìn thấy Hưng thì đã chào từ xa:

- Cháu chào cậu ạ!

Hưng gật đầu nói:

- Ừ!

Gã đảo mắt sang nhìn Việt thì thấy Việt không chào gã nên gã có chút hơi bực mình vì Việt lại láo như thế, là phận cháu chắt mà gặp gã không chào. Nhưng gã vẫn cố kìm nén mà mở lời trước:

- Việt đấy hả cháu?

Việt mấy năm nay ở thành phố, toàn ở với người cùng tuổi và xưng hô theo tuổi tác. Thấy Hưng tuổi tác không kém gì mình mà lại phải gọi bằng cậu nên cảm thấy hơi mất mặt và không quen miệng. Sau cùng Toại đứng ở bên cạnh huých ác quá ra hiệu, Việt mới đành phải gượng gạo chào lại Hưng:

- Dạ cháu chào cậu, vâng cháu là Việt đây cậu!

Hưng gật đầu hài lòng, ra hiệu cho Toại và Việt đi vào trong nhà ngồi xuống mâm. Ông Hùng và bà Hường thì kể từ chiều đã có việc phải ra phố huyện, nên chỉ còn một mình Hưng là ở nhà để tiếp đón Toại với Việt.

Ba chén rượu đầy nhanh chóng được Toại rót ra. Hưng có tiếng là chủ nhà, nên đành phải cầm chén rượu lên trước mở lời:

- Đây! Nhân hôm nay có thằng cháu Việt lâu lắm mới về làng, nên cậu làm bữa cơm để thết đãi mày, cạn chén đi!

Hưng nhấc chén rượu hô đồng khởi. Toại thì nuốt nước bọt ừng ực, từ lâu gã không dám động đũa, vừa nhân đấy thì vội tọng nhanh chén rượu vô miệng nuốt đến ực một cái, rồi như hổ đói lâu ngày cầm miếng thịt gà xé nát ăn ngấu nghiến.

Hưng cũng thèm thịt gà, và lâu lắm rồi gã mới được ăn thịt gà, nhưng Hưng trọng mặt mũi, không như Toại, nên cũng chỉ cầm miếng thịt gà lên rất chậm và ăn từ tốn.

Việt thấy Hưng và Toại diễn trò như thế thì không khỏi cảm thấy buồn cười, nhưng gã vẫn cố nhịn cho được việc.

Việt là người thành phố, gã xưa nay giàu có nên ăn thịt thà đâu có ít. Gã nhìn thấy đĩa thịt gà đãi khách của Hưng mà trong lòng cũng chẳng mặn mà gì. Chuyến này gã về cũng chẳng phải là vì nối lại tình xưa hay chỉ cốt có cái tên trong gia phả. Mà cái chủ yếu là gã muốn nhắm đến chính là quyển bí kíp thất truyền về thứ lụa quý của dòng họ Lã kia…

Hưng ăn thịt uống rượu, cứ hối Việt gắp thức ăn nên Việt cũng chỉ gắp cho có lệ. Chừng hồi lâu làm vài miếng thịt gà xong cho đỡ thèm, Hưng mới đặt đũa xuống bát dùng giọng bề trên trong họ mà hỏi Việt:

- Thế dạo này mẹ mày có khỏe không? Sao lần này về làng không đưa mẹ mày về cùng luôn?

Việt lau cái miệng bóng mỡ của gã bằng đôi đũa, rồi mới trả lời:

- Dạ thưa cậu, mẹ cháu dạo này bận làm ăn trên ấy, nên không có về được!

Hai cặp mắt Hưng tí hí, chợt hỏi sang chuyện của bà Hòa:

- Cậu nghe nói mẹ con mày trên thành phố làm ăn buôn bán lời lắm hả?

Việt gãi đầu gãi tai cười khách sáo, hai mắt hơi nheo lại, gã nói:

- Lời thì không lời cậu ạ, nhưng cũng đủ ăn!

Hưng không tin, nói:

- Mày lại cứ giấu cậu, cậu nghe người làng người ta nói biết hết cả rồi!

Nói xong, Hưng chợt nhấp nhổn không yên, gã cố kìm nén trong lòng lắm nhưng vẫn không nhịn được mà mở miệng muốn nhờ cậy Việt chuyện của gã với Thúy:

- Việt này, dẫu gì thì cũng là người trong họ nhà mình cả. Kì này cậu có chuyện này khó lắm, mày phải giúp cậu…

Việt liền hỏi:

- Là chuyện gì hả cậu?

Hưng hơi ngượng, nên phải nháy mắt cho Toại ra ý để Toại nói thay. Toại lập tức gật đầu hiểu ý, gã nói:

- Chuyện của cậu Hưng, là năm nay cậu muốn lấy vợ. Là cô Thúy ở bên làng Phục, nhưng mà khó quá, bố cô ta đòi cậu Hưng phải có cái điền sản cỡ phú hộ trong làng thì mới cho lấy. Em xem…

Toại nói đến đây thì Việt liền gật gù hiểu ý, gã nói hơi lấp lửng:

- Ôi chuyện ấy thì có khó gì, đều là người dòng tộc với nhau, cháu không giúp cậu thì giúp ai. Đất đai ở cái làng này rẻ như bèo, cháu chỉ cần quẳng tiền ra là mua cả đống… Chỉ có điều, cháu muốn hỏi cậu chuyện này…

Việt nói đến đây thì đã hở ra chuyện, mà Hưng cũng đã đoán biết được ý của gã từ lâu. Hưng lộ ra cái việc gã muốn lấy vợ, một mặt là muốn dùng để dò xét Việt, mặt khác cũng vừa tiện là để muốn Việt giúp mình thật sự. Thấy Việt cứ lấp lửng, Hưng không nhịn được liền nói:

- Cậu cháu với nhau, có việc gì thì mày cứ nói toẹt nó ra đi. Chứ cứ lấp lửng như thế cậu khó chịu bỏ bu đi được…

Việt cười khành khạch, gã uống thêm một chén rượu nữa rồi mới gằn ra mấy từ:

- Quyển bí kíp…

Sắc mặt Hưng thoáng trầm trọng, mặc dù gã cũng đã phân nửa đoán được ra ý đồ của Việt. Nhưng khi chính miệng Việt nói ra chuyện ấy, Hưng vẫn chưa biết xử lý ra sao cho thỏa đáng.

Việt nhìn thấy Hưng có vẻ chưa xuôi, liền kể lể chêm thêm:

- Mấy năm nay mẹ con cháu lang bạt trên thành phố, buôn hàng may mặc tuồn từ Tàu về. Cũng có lãi nhưng không cao lắm, mà người ta giờ này đang chuộng săn một thứ lụa quý, nghe nói đã thất truyền hàng trăm năm trước từ làng mình. Thứ lụa ấy được người Tây trả giá tiền lên tới nghìn đô…

Hưng từ nhỏ ở làng, có nhiều chuyện gã không hiểu, thấy Việt nhắc đến nghìn đô với vẻ nghiêm trọng, thì chắc hẳn là nó phải to lắm, nhưng không rõ là to đến như thế nào. Gã liền hỏi:

- Nghìn đô thì nó lớn cỡ nào?

Việt đắc ý nói:

- Ui trời, cậu đúng là lạc hậu mà, nghìn đô mà quy ra tiền mình ấy thì, đất cả cái làng này còn mua được nữa là…

Hưng trợn mắt không dám tin, nếu chỉ với một tấm lụa quý mà đã có giá như thế, ấy vậy thì nắm được cả công thức bí truyền rồi sản xuất đại trà, đến khi ấy thì Hưng sẽ giàu có đến mức như thế nào đây. Thôi thì có rẻ rách gì thì cũng ít nhất là xếp vào hàng cự phú, mà họ Phùng bên làng Phục lúc ấy cũng chỉ còn là cái loại tôm tép so với họ Lã là cùng. Đến lúc ấy lão Quyền lại chẳng không chạy đến tận nơi mà xởi lởi mời mình rước con gái lão ấy chứ.

Hưng nghĩ đến chuyện ấy mà lòng không sao giấu nổi vui mừng. Bất chợt gã liếc lên cái khay gỗ đặt trước từ đường, mà trong ấy chính là đang đựng cuốn bí kíp thất truyền đến hằng trăm năm của dòng họ Lã. Cuốn bí kíp khiến cho con cháu họ Lã đổ máu, đến mức chỉ còn sót lại vài người vì tranh dành.

Hưng lại nghĩ đến việc ông Hùng không đồng tình, đành thở dài ngao ngán nói:

- Cậu cũng muốn thế lắm, nhưng ông mày không cho, giờ ông là trưởng họ, cuốn bí kíp ấy chỉ có ông mới được quyền động đến. Cậu mà động đến thì ông đe là đánh cho gãy chân chứ chẳng đùa. Thôi, có khi mày xem tìm cách khác mà giúp cậu…

Việt hơi mất vui, gã lắc đầu nói:

- Ngoài cách ấy thì cháu chẳng còn cách nào để giúp cậu đâu. Cậu xem cố dùng cách nào mà thuyết phục ông cho ông đổi ý đi, cháu thì cháu xin hứa là nếu giờ này mà mình mở xưởng thì chi phí cháu sẽ lo hết. Mà tiền lời lãi là cháu chỉ dám lấy một phần chứ còn chín phần là để cho cậu giữ. Mà cái quan trọng chỉ là phải lấy được quyển công thức ấy thôi…

Việt trầm ngâm hồi lâu, chờ mãi mà Hưng vẫn không trả lời, bèn bất đắc dĩ mở lời:

- Thôi cậu cứ suy nghĩ kĩ đi, suy nghĩ kĩ rồi hai ba hôm nữa báo cho cháu biết cũng được. Người Tây người ta gạ hỏi cũng chỉ qua đợt này thôi, chứ còn lỡ mất cơ hội này rồi là người ta đặt mối ở nước khác chứ chẳng mua gì lụa của nước mình đâu…

Việt càng nói vẻ chẳng cần thiết, nhưng thật ra trong lòng gã càng đang muốn ngấm ngầm ép Hưng phải ra tay ăn trộm cuốn bí kíp từ tay ông Hùng mà hành sự.

Hưng bấm bụng làm liều, liền gật đầu nói:

- Được rồi, cậu sẽ lén ông cụ xem qua bản bí kíp rồi chép lại một bản. Sau đó mày mở cho cậu một cái xưởng, nhưng không được đặt ở làng này, để tránh ông cụ biết nghe chửa. Còn sau này họ nhà mình phất lên rồi thì chắc là ông cụ cũng chẳng trách được mình đâu.

Việt vui vẻ, hai mắt gã sáng quắc như đuốc vì vớ được món hời. Gã hào hứng nâng ly lên để muốn chúc mừng cho thương vụ thành công của gã. Ba người trong mâm đều hết sức hào hứng, và còn bàn bạc nhau xem nên chia cái lợi nhuận ấy ra sao. Cuối cùng theo ý kiến của Hưng, thì Hưng sẽ nhận sáu phần lãi, Việt là ba phần, còn Toại vì chỉ ăn theo nên chỉ nhận được một phần.



Chiều hôm sau.

Hưng đạp xe lên phố huyện mua một cuốn sổ màu đen, để về chép lại thứ công thức bí truyền về cách làm những tấm lụa quý.

Đi qua hai con phố nhỏ, cuối cùng gã cũng đến được tiệm tạp hóa duy nhất trong huyện. Gã mở cửa tiệm bước vào bên trong, chọn lấy một cuốn sổ đen và dày nhất.

Gã lựa loại giấy tốt nhất trong tiệm nhằm cho việc chép sách được thuận tiện và còn có thể lưu giữ được lâu.

Sau khi ngắm nghía đủ thứ trong tiệm, xem xem mình còn thiếu thứ gì chưa mua hay không, gã mới đem cuốn sổ đen ra quầy thanh toán tính tiền.

Chủ tiệm tạp hóa là một người phụ nữ, năm nay độ chừng bốn mươi tuổi, nhìn thấy gã ăn mặc quê mùa nên nghi ngờ gã là kẻ cắp. Mụ cứ đứng nhìn chằm chằm làm gã cảm thấy khó chịu, gã gõ mạnh cuốn sổ đen xuống mặt bàn mà nói với giọng bực tức:

- Bao nhiêu tiền?

Mụ thấy gã hỏi như vậy thì mới cho rằng cái ý định mua cuốn sổ của gã là thật. Bởi lẽ vốn dĩ những người ăn mặc xoàng xĩnh thuộc giai cấp bần nông như Hưng, có lẽ nào lại đi mua sách vở về để mà viết, mà nếu có lựa sổ về để viết thì cũng thường chỉ chọn những loại nào rẻ tiền nhất. Nhưng nhìn Hưng như không có tiền mà lại chọn cuốn sổ sang nhất thì chẳng trách tại sao mụ lại nghi ngờ gã là có cái ý đồ ăn cắp vặt trong tiệm như vậy.

Mụ cầm cuốn sổ lên liếc xéo một chốc, rồi mới ra giá:

- Mười nghìn đồng!

Hưng toan trợn mắt kinh ngạc, nhưng gã lại nhanh chóng giấu được cái thứ cảm xúc ấy. Mười nghìn đồng là có thể đủ cho gã có một bữa rượu say bét nhè cùng với Toại ở đầu làng. Vậy mà chỉ một cuốn sổ đen nho nhỏ lại có cái mức giá trên trời như vậy thì gã không ngạc nhiên làm sao cho được. Nhưng Hưng tính toán đến chuyện thiệt hơn nên vẫn cố gắng bấm bụng lôi ra tờ giấy bạc mười nghìn đưa cho mụ chủ tiệm tạp hóa, rồi nhanh chóng cầm cuốn sổ đen rời khỏi.

Mụ chủ tiệm tạp hóa cũng nhìn gã với vẻ thoáng ngạc nhiên, nhưng sau cùng cũng chỉ lắc đầu, coi như là con mắt đánh giá người của mụ nhìn lầm. Và người đàn ông nghèo khố rách áo ôm này có thể bỏ ra được một số tiền lớn đến như thế để mua sổ cũng là chuyện hiếm có.

Ra khỏi tiệm tạp hóa, Hưng hung hăng bực dọc vì bị coi thường. Gã nhìn lại bộ quần áo khố rách áo ôm của mình mà thầm nghiến răng quyết tâm phải làm giàu cho được, quyết không để cho thiên hạ còn có thể khinh thường gã như vậy.

Sau khi về nhà, gã giấu kín cuốn sổ dưới cái gối ở đầu giường, rồi chờ cơ hội ông Hùng đi vắng là sẽ lén lút mở trộm cuốn bí kíp ra đọc và chép trộm.

Và cuối cùng thời cơ cũng đã đến, buổi chiều ông Hùng có việc qua xã bên, phải đến tối mới về. Mà bà Hường thì đang mải lui cui làm mấy thứ ở sau cái chuồng lợn. Hưng liền lén lút bước đến gần cái từ đường, đứng trước cái hộc gỗ đựng cuốn bí kíp gia truyền.

Gã đảo mắt nhìn quanh canh chừng một chặp cho cẩn thận, rồi mới đưa tay lên chắp lại, khấn vái trước bài vị của tổ tiên mà lẩm bẩm rằng:

- Con là Hưng, là đích tôn của dòng họ Lã. Nay dòng họ nhà mình đã đến hồi đèn cạn lửa tắt, không còn cách vãn hồi. Con không còn cách nào khác, chỉ đành mượn cuốn bí kíp này để hồi sinh lại dòng họ nhà mình, để nở mày nở mặt với tổ tiên. Để thứ công thức bí truyền không bị mai một, nay con xin phép sao ra một bản của quyển công thức này để mở xưởng làm ăn. Mong gia tiên tổ tông hiểu cho và xin cũng thành toàn cho con…

Khấn vái xong, Hưng bưng vội cái khay gỗ trên ban thờ từ đường, đặt xuống cái sập gỗ. Rồi cẩn thận bê cuốn bí kíp làm thứ lụa quý từ trong khay mở ra.

Những dòng chữ bị ẩn giấu hàng trăm năm, phủ sau lớp cát bụi dày đặc dần được hé mở, một sự thật kinh động lòng người được lộ ra.

Từng dòng chữ nôm màu đen nhánh uốn lượn trên mặt giấy tuy trông rất thật nhưng lại làm Hưng có cảm giác mờ ảo như màn đêm.

Thoáng nhìn qua nét chữ trên cuốn bí kíp, Hưng thất vọng tràn trề vì đó toàn là chữ nôm, mà chữ nôm thì gã chẳng hiểu gì cả. Nhưng gã nghĩ đến Việt, là người ở thành phố, hẳn sẽ có cách liên hệ được người nào đó mà dịch được những chữ này chuyển thành thứ ngôn từ mà gã có thể hiểu được. Nên Hưng vẫn cẩn thận trải cuốn bí kíp mở ra mặt giấy đặt trên kệ, rồi đem bút bi phỏng theo nét uốn lượn của từng chữ một mà chép lại vào cuốn sổ đen.

Vì việc Hưng không biết chữ nôm khiến gã không thể nào chép nhanh được hết công thức trong cuốn bí kíp, mà chỉ có thể dùng cách phỏng theo nên gã phải chép rất lâu.

Trời đã dần tối, Hưng đoán chắc ông Hùng sắp về nên đành phải cất lại cuốn bí kíp đặt lại chỗ cũ, hẹn lần sau lại chép tiếp.

Khi gã vừa đặt xong cuốn bí kíp vào vị trí cũ thì cũng là lúc tiếng ông Hùng vọng đến từ cái cổng ngoài sân:

- Nhà cửa sao để tối đen như mực thế này? Hưng, mày không biết bật cái đèn lên hả con?

Hưng giấu vội cuốn sổ đen nhét dưới gầm cái sập gỗ, rồi mới hét toáng vang cả ra bên ngoài trả lời ông Hùng:

- Dạ hồi chiều con ốm mệt quá nên ngủ quên!

Gã vội bật nhanh cái đèn điện trong nhà, bàn tay vẫn còn hơi run run vì vừa rồi gã làm một chuyện lén lút.

Ông Hùng bước vào trong nhà, nhìn quanh một hồi rồi mới từ từ ngồi xuống cái sập gỗ. Ông đổ nước nóng vào trong ấm trà, pha một ấm trà đặc rồi ngồi nhâm nhi. Hưng thì lẻn vào trong buồng ngồi thụp xuống thở phào vì gã vừa rồi may mà nhanh tay, nếu không ông Hùng về phát hiện ra gã chép trộm quyển bí kíp thì xong chuyện.

Từ đó, gã cứ rình mò liên tục, chỉ đợi ông Hùng ra khỏi nhà là lập tức đem cuốn bí kíp bỏ ra chép trộm. Mới đầu thì gã còn sợ ném chuột vỡ bình, nên nét chữ chép rất cẩn thận, còn về sau thì gã chép vội nên rất qua loa và cẩu thả. Đúng một tuần sau thì gã hoàn thành chép toàn bộ được cuốn bí kíp về công thức làm thứ lụa quý.

Gã nhanh chân chạy đến nhà Toại, hối Toại mau chóng ra bưu điện xã, làm một bức điện báo gọi cho Việt về làng có công chuyện gấp.

Việt ở trên thành phố mấy hôm vẫn đang chờ tin tức của Hưng, được điện báo một cái, là gã đã phóng xe máy ngay từ thành phố về làng để gặp Hưng.

Trong cái lán nhỏ ở đầu làng, Hưng, Việt và Toại đang ngồi quây lại bên mâm thịt chó, mà người mời bữa này chính là Việt.

Việt nóng lòng sốt ruột, chưa chờ Hưng động đũa đã liền hỏi ngay:

- Cậu Hưng, cậu hối cháu về gấp như thế, có phải là đã lấy được cuốn bí kíp từ tay ông rồi không?

Hưng đắc ý, gã chẳng vội vã gì mà chỉ từ tốn đưa miếng thịt chó vô trong miệng nhai đều cho thật đã, rồi mới nói:

- Cậu lấy được rồi, nhưng chỉ có điều…

Việt hỏi gấp:

- Có điều làm sao hả cậu?

Hưng nheo mày tỏ vẻ khó khăn nói:

- Cuốn bí kíp này từ đời tổ tiên dòng họ nhà mình, khi ấy người ta lại thịnh hành cái thể chữ nôm. Nên đâm ra cậu chép được hết mà đọc chẳng hiểu được gì, đấy mới là cái khó…

Việt vừa nghe đến đây, hai hàng lông mày nhăn chặt của gã liền giãn ra, gã cười nói:

- Ôi cháu tưởng chuyện gì, chứ còn việc dịch chữ thì sớm cháu cũng đã biết từ trước rồi. Cậu cứ đưa cuốn bí kíp ấy đây, cháu sẽ đưa cho người ta dịch cho cậu…

Hưng lắc đầu, gã sao có thể đồng ý việc ấy. Nếu đưa cuốn bí kíp ấy cho Việt thì gã đâu còn là người nắm đằng chuôi nữa, cho nên gã quả quyết:

- Mày phải đưa người về đây, dịch trước mặt cậu, dịch xong là cậu lấy một bản, còn mày lấy một bản, sau này mở xưởng lợi nhuận chia đôi!

Việt hào phóng vỗ bàn:

- Được, cậu đã nói thế thì cháu xin làm theo lời cậu. Cậu cứ chờ đi, khoảng độ hai hôm nữa là cháu sẽ đưa người về dịch cuốn bí kíp ấy…

Nói xong, Việt nâng chén chúc mừng. Cả ba người chè chén say rượu nát đến be bét rồi mới lê lết về nhà.

Hai hôm sau, quả nhiên Việt đưa về làng Vạn một người đàn ông khoảng ngoài năm mươi tuổi, râu tóc để chỏm, mặc bộ quần áo ông đồ dáng đi rất đạo mạo thanh tao.

Việt đưa người ấy đến trước mặt Hưng giới thiệu:

- Đầy là thầy Tuân, là thầy thông hiểu địa lý, bói toán, không những vậy còn là người rất am hiểu chữ Nôm. Cháu mời thầy ấy về đây, thứ nhất là để dịch cuốn bí kíp, thứ hai là chọn địa điểm tốt để cậu cháu mình mở xưởng, rồi tính cả ngày giờ đẹp để bắt đầu khởi công luôn.

Việt giới thiệu xong, thì Hưng liền xởi lởi bước đến trước mặt thầy địa lý tên Tuân vui mừng nói:

- Ôi thầy đến giúp cậu cháu tôi thế này thì phúc đức quá! Thằng Toại đâu, chuẩn bị trước rượu thịt để đãi thầy trưa nay đi…

Toại toan quay đầu về nhà, nghe theo lời Hưng chuẩn bị rượu thịt, thì thầy Tuân đã gàn mà nói:

- Không cần phải rườm rà như thế đâu, tôi còn có việc rất bận phải đi ngay. Chi phí thì cậu Việt đây đã lo tất cả rồi, cái nhà anh này cứ đưa đây cho tôi xem cuốn bí kíp, tôi dịch nhanh cho anh chép lại, rồi tôi sẽ ra về…

Thầy Tuân giơ tay chìa ra đòi, Hưng thẫn thờ một lúc vì kinh ngạc, không ngờ là ông thầy địa lý này tác phong lại nhanh nhẹn đến như vậy. Không giống với những ông thầy trước đây, mở đầu cứ phải là thết đãi rồi tâng bốc đủ thứ rồi mới hành nghề, mà người này lại làm việc rất nhanh gọn thì lại khiến Hưng không thể không kinh ngạc. Hưng bất giác đành phải đem cuốn sổ đen giấu ở trong cái túi bên hông, mở ra đưa cho thầy Tuân.

Thầy Tuân nhanh tay tiếp lấy cuốn sổ, ngồi xuống cái ghế gỗ ở trong lán, rồi mới đem cặp kính lão đeo lên, chậm rãi nhìn từng nét chữ trong cuốn sổ. Mới đầu, thầy Tuân còn trầm ngâm, còn có vui tươi cười nói khi đọc, nhưng càng về đoạn cuối của cuốn bí kíp, nét mặt của thầy lại càng sa sầm lại. Cuối cùng, còn chưa đọc hết cuốn bí kíp, thầy Tuân đã ném cuốn sổ xuống đất rồi tức giận quát:

- Cái việc ác đức tày đình như thế mà cũng làm được sao, tôi đây không làm!

Nói rồi thầy Tuân phăm phăm bỏ đi, Việt không hiểu chuyện gì xảy ra, cố nài thầy Tuân ở lại giúp mình thì thầy lại đe:

- Nếu không bỏ ngay cái ý định ấy đi, thì coi chừng có ngày nhận lấy quả báo!

Việt cố sức nài thầy Tuân giải thích, nhưng thầy chẳng nói chẳng rằng mà vẫn bỏ đi. Việt thở dài tức tối, đành phải nói với Hưng rằng:

- Thôi, cậu chờ thêm vài bữa nữa, cháu sẽ tìm người khác về dịch cho cậu…

Nói xong thì Việt quay đầu bước lên xe máy bỏ về thành phố. Còn Hưng với Toại thì vẫn chưng hửng, không biết tại sao ông thầy địa lý Tuân lại hành động như vậy.

Độ khoảng bốn hôm sau, thì Việt lại đưa một ông thầy địa lý khác về làng. Ông này mặt béo tròn, bụng lại phệ, cặp mắt ti hí như mắt lươn, bộ râu quặp trông rất gian tà, độ chừng chỉ hơn bốn mươi tuổi.

Khác với thầy địa lý Tuân bữa trước, bữa này ông thầy này mới đến thì đã đòi hạch sách chè chén thuốc nước đủ thứ, rồi mới đem bản bí kíp bỏ ra dịch. Ông ta đọc xong một hồi, thì cũng giống như ông thầy địa lý bữa trước, nét mặt sa sầm lại, những chỉ lát sau đôi lông mày của ông ta lại thoáng giãn ra. Ông ta nói:

- Muốn tôi dịch cho cái cuốn bí kíp này cũng được, nhưng có điều giá tiền phải tăng lên gấp đôi đấy, chứ cái việc ác đức này thì thực là tôi cũng không muốn…

Ông ta đang nói nửa chừng, thì đã bị Việt cắt ngang, tay gã vỗ thẳng xuống mặt bàn nói:

- Ông nói đi, bao nhiêu tôi cũng chơi. Rốt cuộc là trong cái cuốn bí kíp ấy có thứ bí mật gì, mà lại khiến mấy ông sợ phát khiếp như vậy?

Ông thầy địa lý húp lấy ngụm nước chè, chép miệng đến mấy lần rồi mới khó khăn nói:

- Chạy là phải, chạy là đúng, tôi gặp tôi cũng sợ. Nhưng suy cho cùng thì có phải là tôi làm cái việc ấy đâu, mà là người làm thứ lụa quý kia mới là người thực thi việc ác cơ mà. Tôi chẳng nghĩ gì cả, có điều gặp phải ông thầy tính liêm chính, ông ta bỏ đi là cũng đúng thôi…

Hưng sốt ruột giục gấp vì gã đã quá tò mò:

- Mong thầy cứ nói nhanh cho, Toại, châm cho thầy điều thuốc!

Hưng lớn giọng sai Toại. Toại liền nhanh tay châm điếu thuốc lá, mời ông thầy địa lý. Lúc này ông ta hút xong một mồi thuốc lá, rồi mới đem cái chuyện trọng đại nhất nói ra:

- Bí mật của cách làm thứ lụa quý ấy, chính là một việc cực kỳ tàn ác. Đó chính là dùng máu của người yêu quý mình, giết người đó đi, trộn với thuốc nước nhuộm lụa, rồi ủ trong vòng ba năm cho oán khí ngấm đậm, lúc ấy thì sẽ cho ra được một thứ lụa quý cực kỳ thượng hạng, màu sắc có một không hai. Mà phải để cho người ấy chết càng tức tưởi, càng oan ức thì lụa mới càng đẹp…

Ông thầy địa lý nói xong, thì Hưng, Toại và Việt chợt hiểu ra. Thảo nào mà ông thầy địa lý Tuân lần trước, chỉ mới vừa đọc xong cuốn bí kíp, là đã ném nó xuống đất mà chẳng thèm dịch tiếp. Xem ra là cũng vì một chuyện này nên ông ta mới làm như vậy. Hưng thoáng lưỡng lự, gã còn đang mơ đến giấc mộng giàu sang, nhưng bây giờ để làm được thứ lụa như vậy thì phải trả giá bằng một phương thức độc ác trước nay chưa từng có thì gã không khỏi chùn chân.

Còn Việt thì lại khác, gã là một kẻ tham tiền tài còn hơn cả mạng sống. Gã có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào để kiếm được nhiều tiền nhất, nên cho dù đó có là cách nào đi chăng nữa, thì gã vẫn có thể nhẫn tâm mà làm bằng được.

Việt liếc sang nhìn Hưng với Toại, rồi vội hỏi:

- Việc này cậu tính thế nào?

Hưng trầm ngâm hồi lâu, gã hơi sợ nên lắc đầu nói:

- Nếu việc này đã là như vậy, thì cậu nghĩ mình nên thôi đi. Giết người để nhuộm lụa, cái cách này ghê tởm quá…

Việt vỗ bàn tức giận nói:

- Cậu không cần phải lo lắng, cháu sẽ lo mọi chuyện, chỉ cần cậu trả lời cháu một câu thôi. Rằng nếu như bây giờ cháu mở xưởng ra, thì cậu có chấp nhận quản lý nó giúp cháu hay không? Cháu không cần phải cậu ra tay giết người, chuyện ấy chỉ cần cháu làm là đủ rồi!

Việt nói xong, không thèm chờ Hưng đồng ý, đã lập tức quay sang hối thúc ông thầy địa lý nói:

- Tiền bạc thì tôi sẽ lo đủ, ông cứ xem cho tôi mấy miếng đất để tới đây tôi mở xưởng đi, việc ấy phải nhanh chóng thì mới được!

Ông thầy địa lý gật đầu nói:

- Việc ấy là chuyện môn của tao mà lỵ, mày cứ chuẩn bị tiền đầy đủ đi, dăm ba hôm nữa tao sẽ chỉ cho mày vài khu đất quý.

Nói xong ông thầy địa lý cũng đứng dậy, quay đầu mà đi mất.

Việt lại quay sang nhìn Hưng, thấy Hưng vẫn còn chưa xuôi. Trong mắt gã láo liên tính toán một hồi, rồi chợt nhìn Hưng cười nói:

- Thôi, chẳng mấy khi có dịp, cháu muốn mời cậu lên thành phố chơi một chuyến!

Hưng đang đau đầu vì cân nhắc về cái chuyện có nên mở xưởng nhuộm lụa hay không, thì Việt lại mở lời như vậy. Cuối cùng gã cũng đành cắn răng đi theo Việt một chuyến.

Lên đến thành phố, Việt đưa Hưng vào một quán bar hạng sang, toàn là những người đẹp hảo hạng có số ở Hà Thành. Việt đưa Hưng đi chơi bời sướng như một ông hoàng, khiến Hưng quên hết những ngày tháng khổ cực.

Việt cứ kiên trì như vậy đến mấy lần, cuối cùng rồi mới giở giọng ra hướng Hưng đi vào con đường tội ác:

- Đấy, cậu thấy chưa, giàu có nó có sướng hơn không? Việc gì phải chui rúc ở cái xó làng ấy, ở đây rượu thịt đề huề cả ngày, gái đẹp thì cả đàn cả đống. Còn cái em Thúy của cậu ấy à, có bằng một cái móng chân của gái đẹp trên này không? Gái ở đây ngon ngọt đến liếm ngón tay mà mút chùn chụt cũng còn thấy ngọt nữa là…

Việt đem Thúy ra so sánh với những cô gái bao hạng sang, làm cho Hưng cảm thấy hơi khó chịu. Vì dẫu gì Thúy cũng là người mà Hưng đem lòng yêu thương suốt bao nhiêu năm. Nhưng so ra thì Hưng thấy Việt nói cũng có cái đúng. Thúy quả thực không có được cái tính cách chiều chuộng mình giống như các cô gái ở đây. Thúy chân thật nết na hiền lành quá, mà lại thiếu đi nét tinh nghịch, táo bạo và nóng bỏng như các cô gái ở đây. Những thứ ấy Hưng chưa từng trải nghiệm một lần trước đây, nhưng giờ đây khi đã trải nghiệm một lần rồi thì nghiện không sao dứt ra nổi. Hưng thấy cuộc sống giàu sang như vậy vẫn hơn. Ngày xưa gia đình Thúy khinh thường Hưng như thế nào, vậy mà bây giờ Hưng nếu vẫn cứ muốn đâm đầu vào thì không phải tự nhận mình là một thằng ngu ư? Cho nên câu nói của Việt khiến Hưng luôn phải đau đáu mà suy nghĩ lại.

Về nhà mấy hôm, Hưng cứ rúc ở góc tường mà ôm đầu. Ông Hùng hỏi gì cũng không nói, vì gã vẫn còn toan tính xem là rốt cuộc mình có nên đồng ý với Việt hay không. Nhưng cuối cùng cái sự cám dỗ của đồng tiền quá lớn, khiến gã không sao cưỡng lại được.

Hai hôm sau, không chờ Việt gọi điện, Hưng đã bắt xe thẳng lên thành phố để gặp Việt, và đồng ý với việc là mình sẽ trở thành người quản lý cả cái xưởng ấy thay cho Việt. Đổi lại là món lợi nhuận kếch xù, và cái việc giết người để lấy máu nhuộm lụa cũng không phải là Hưng làm.

Việt đồng ý ngay, và gã đưa tiền cho Hưng, hối Hưng về làng gấp để hôm sau cùng ông thầy địa lý lần trước qua xem đất chọn ngày để mở xưởng.

Xưởng nhuộm lụa nhanh chóng được chọn xây ở một khu đất gần với nghĩa trang làng Đại, cách làng Vạn chừng mười cây số. Ông thầy địa lý nói rằng nơi ấy gần với âm khí, nên rất có ích cho việc nhuộm lụa. Chỉ có điều xưởng lụa này mở ra mười năm, là phải đổi địa điểm khác, nếu không muốn âm khí quật lại mà giết luôn cả chủ.

Ba tháng sau, xưởng nhuộm lụa chính thức được khánh thành. Với số lượng nhân công chỉ khoảng mười người, hàng tá những thứ thuốc nhuộm được chuyển về, và chỉ chờ một mẻ thuốc nhuộm lụa đầu tiên để mở xưởng.

Một tuần sau, Việt đích thân lái một chiếc xe Oát xuống làng Đại, đi cùng với gã là một cô gái độ chừng tuổi hai mươi, nét mặt hết sức xinh đẹp tươi tắn.

Cô gái đi cùng Việt vào trong xưởng lụa và từ đó không còn thấy quay ra nữa. Vài ngày sau thì thứ lụa bí truyền hàng trăm năm cuối cùng cũng được bắt tay vào làm. Hàng loạt mẻ lụa lớn nhỏ cứ tăm tắp ra lò đều đặn, với chất lụa bỏng bảy mềm mượt. Lụa được phơi khô và cất đi để thật kĩ qua ba năm, rồi mới đem ra chào bán.

Khi thứ lụa được chính thức tung ra thị trường, hàng loạt những hiệu buôn lớn nhỏ từ thành phố đổ xô về mua, dẫu dù là giá cao cắt cổ nhưng cũng vẫn hết hàng.

Hưng từ một tên khố rách áo ôm, bỗng chốc trở thành một phú hộ có đất đai đồn điền rộng lớn vô kể. Ông Hùng đến khi này mới phát hiện ra việc làm táo tợn của Hưng nhưng đã là quá muộn, ông tức đến hộc máu ở trong miệng rồi sau đó cũng chết.

Căn nhà của ông Hùng ngày xưa rách nát, trông nghèo rớt mùng tơi, thì nay ngay bên cạnh cái nhà cũ ấy đã được xây nên một căn nhà xây mới khang trang tiện nghi, đồ đạc nội thất trong nhà toàn là những thứ sang trọng mua từ thành phố về, lại còn cả chiếc xe hơi mới cóng mà Hưng mới tậu được dăm bữa.

Việc ông Hùng chết không khiến Hưng và Việt dừng lại được bàn tay của tội ác. Khi xác ông Hưng chết còn chưa kịp hết hơi ấm, thì hai kẻ ác tâm cũng nhân lúc vắng người mà lén lút chích lấy hết sạch số máu của ông dồn vào trong hũ để ủ ngâm dần làm màu thứ lụa quý.

Mỗi một lần làm một mẻ lụa quý, là phải có một mạng người chết. Mà mỗi lần một người chết ấy, cái tình yêu thương của họ càng lớn dành cho mình thì thứ lụa càng đẹp. Vậy nên máu của ông Hùng mà dùng để làm thứ lụa quý, thì không còn gì có thể đẹp hơn. Và những tấm lụa làm ra từ thứ máu này, có thể khiến cho giá trị của những tấm lụa cao lên vô số lần.

Lại kể đến họ Phùng ở bên làng Vạn, ngày xưa thì cứ cấm cửa Thúy không cho qua lại với Hưng. Nhưng mấy năm nay Hưng làm ăn phất lên, còn nhà họ Phùng thì lại lụi bại dần. Nên lão Quyền liền trở mặt xoay như chong chóng, lão cứ lân la đến gần Hưng mà muốn nối lại mối duyên xưa của Hưng với Thúy.

Hưng ngày nay đã chẳng giống như ngày xưa, con mắt gã ngày xưa chỉ bao quát trong cái làng nhỏ bé này. Còn giờ này thì gã đã phóng tầm mắt ra xa đến tận thành phố, nơi ấy có những cô gái còn đẹp hơn Thúy nhiều lắm. Lão Quyền càng muối mặt muốn đến lấy lòng gã, thì chỉ làm cho gã cảm thấy khinh thường thêm mà thôi. Còn về việc của gã với Thúy, gã cũng muốn tính đến nhưng cũng vẫn muốn làm lão Quyền phải mất mặt thêm vài lần rồi mới đặt vấn đề. Nhằm trả thù cái việc mà ngày xưa lão Quyền đã khinh thường gã như thế nào, thì ngày nay tất phải trả giá bằng hậu quả đích đáng.

Hưng muốn dày vò cái họ Phùng, rồi dùng thế lớn mà ép cho con đường làm ăn của họ Phùng đi đến hồi lụi bại. Để rồi đến lúc họ Phùng khố rách áo hôm còn hơn gã ngày xưa, lúc ấy thì gã mới đưa tay đỡ lấy mà giúp đỡ nhà họ Phùng, lấy lại cái quyền thế ngày xưa của dòng họ Lã mà gã vốn dĩ ra phải được hưởng. Vì chính họ Phùng cũng chỉ là thứ bề tôi kẻ hầu người hạ của nhà họ Lã ngày xưa mà thôi, vậy mà lại dám vượt mặt thì phải bị gã trừng trị.

Mấy năm sau nữa, quả nhiên họ Phùng chết thật. Nhà họ Phùng chuyên buôn bán đồ gốm sứ, thì nay không hiểu sao gốm sứ của nhà họ Phùng cứ không đảm bảo chất lượng, chỉ được dăm bữa là vỡ, dẫn đến những mối hàng quen cũng mất dần. Việc làm ăn thất bại khiến cho gia cảnh nhà lão Quyền đi vào con đường nghèo túng.

Lão Quyền nhiều lần qua hỏi mượn Hưng ít vốn để làm ăn, và vịn cớ tình thân của Hưng với Thúy ngày xưa để đưa ra làm con bài vay vốn. Nhưng Hưng chửi lão Quyền, Hưng chửi đến mức lão Quyền nhục nhã không còn mặt mũi nào để gặp vợ con. Nghĩ đến gia thế ngày xưa và ngày nay của mình, lão Quyền không nhịn được, mấy đêm sau liền mò ra bờ đê, nhảy xuống sông mà tự vẫn.

Xác lão Quyền trôi dạt về đâu không biết, người ta tìm cả nửa tháng trời mà chẳng thấy. Người nhà Thúy vì không tìm thấy xác, nên chỉ đành lập một cái bia mộ không để thờ cúng.

Hưng sau khi trả thù được lão Quyền, thì mới đặt vấn đề với nhà họ Phùng, muốn hỏi cưới Thúy về làm vợ.

Bà Xuân là mẹ của Thúy giờ chỉ là người đàn bà góa bụa, nhà lại nghèo không lo được cho Thúy. Thằng con thứ thì năm nay lại đang cần tiền đi học đại học, cho nên dù có thù hận Hưng đến như thế nào về cái chết của chồng mình, bà vẫn phải cắn răng chịu đựng mà gả con gái cho Hưng.

Hôn lễ được cử hành long trọng, từ thành phố có nhiều vị khách sang trọng muốn nhân dịp này đến chúc mừng Hưng, để lấy lòng Hưng mong rằng gã sẽ ưu tiên bán lụa cho mình. Còn Việt thì cũng huy động một lực lượng hùng hậu đến chúc mừng đám cưới của Hưng. Gã thuê nhiều tên đàn em đến để làm lực lượng an ninh hoành tráng trước đám cưới, rồi thuê hẳn cả ca sĩ nổi tiếng từ thành phố về. Lại đặt mua cả viên kim cương đắt nhất trong tiệm nữ trang số một Hà thành, về để mừng cho mợ mới của cậu.

Đám cưới lớn nhất cả khu làng quê, vang dội khắp cả một vùng về độ chịu chơi khiến cho Hưng mát lòng mát dạ. Cái lý tưởng ngày xưa của gã, cái ước mơ gã cho là viển vông thì nay đã thành sự thực, và bao nhiêu kẻ đã khinh thường gã giờ đây đã đều phải quỳ gót dưới chân gã mà cầu xin gã tha thứ như gã hằng mong muốn.

Kẽo kẹt!

Tiếng cửa tiệm tạp hóa mở ra, cái tiệm tạp hóa ngày xưa là duy nhất của phố huyện, buôn bán vào hạng độc quyền. Thì nay lại trở nên ế ẩm vì chẳng có mớ khách nào, là vì trước cửa cái tiệm tạp hóa từ lúc nào đã mọc lên một cái siêu thị cỡ nhỏ với đủ thứ mặt hàng trong đó. Khiến cho cửa hàng được tiếng độc quyền và làm ăn đắt hàng giàu có đến như thế cũng phải đến hồi kiệt quệ vì mất khách.

Một người đàn ông quần áo sang trọng, dáng vẻ hết sức quyền uy bước vào trong cửa tiệm. Mụ chủ tiệm lười nhác quạt phe phẩy cho đỡ nóng, một tay lại cầm cái chổi lông gà quét quét phủi bụi mấy thứ đồ tạp hóa mà lâu nay chẳng bán được thứ nào.

Chợt mụ thấy đột nhiên lại có khách bước vào cửa tiệm của mình, hơn nữa lại còn là một người khách sang trọng thì không khỏi vui mừng. Giọng mụ xởi lởi mừng như điên nói:

- Ôi thằng em đẹp trai, muốn mua gì thế để chị chỉ cho?

Mụ hớn hở đứng dậy, thì bị người đàn ông quát cho một trận nói:

- Sao bà vẫn còn dám ngồi đây, cửa tiệm này đã được lệnh là giải tỏa rồi cơ mà. Giờ đây khu đất này đã là quyền sỡ hữu của tôi, tôi sẽ đập nó đi và xây lên một tòa nhà lớn ở đây. Tôi đã cho người đến báo bà chuyển đi mấy lần rồi, mà sao bà vẫn không chịu hiểu hả?

Người đàn ông chợt cầm một cái bình gốm trong tiệm, ném xuống đất vỡ choang một cái. Người đàn ông này không phải kẻ nào khác, mà chính là Hưng. Năm xưa gã bị khinh thường trong cái tiệm tạp hóa này vì quá nghèo, thì ngày nay gã đã giàu có rồi. Nên gã quay lại trả thù tất cả những người đã khinh thường gã.

Mụ chủ tiệm tạp hóa còn đang vui mừng vì tưởng là có khách, thì hóa ra vị khách đó lại là người đến đòi đất thì không khỏi thẫn người. Đây là miếng đất truyền đời của nhà mụ để lại, vừa may lại ở trung tâm phố huyện nên rất hợp để mở tiệm tạp hóa. Ấy vậy mà đột nhiên lại có lệnh quy hoạch của nhà nước, ép giải tỏa khu đất này trong nay mai. Mụ đang từ chủ của một khu đất vàng, bỗng dưng trở thành mất trắng với số tiền bồi thường ít ỏi mà bên chủ đầu tư đưa cho.

Cộng thêm mấy năm nay buôn bán ế ẩm, mụ chẳng dành được tiền nên nếu mất miếng đất và căn nhà này, thì mụ chẳng còn biết làm gì để kiếm sống nữa. Vì vậy đã mấy lần có giấy hẹn lên ủy ban làm thủ tục giải tỏa, mà mụ vẫn cố chấp cứng đầu không trả lời. Và cho dù có sống có chết, thì mụ cũng nhất định phải bám trụ ở khu đất này cho bằng được, vì đây là miếng đất sinh tồn của mụ.

Mụ gào khóc kêu toáng lên:

- Mày cút đi, đây là mảnh đất của tổ tiên tao, tao không cho đứa nào động vào hết!

Hưng cười, gã bước đi chậm rãi, ngồi xuống cái ghế gỗ trong tiệm. Đưa điếu thuốc lá lên miệng châm rồi hút và nói:

- Bà có còn nhớ mấy năm trước, có một gã nhà quê vào đây hỏi mua một cuốn sổ đen hay không?

Mụ chủ tiệm tạp hóa không nhớ, bao nhiêu năm như vậy, nhiều người qua người lại như vậy thì làm sao mụ có thể nhớ nổi. Mụ lắc đầu.

Hưng tiếp tục cười nói:

- Bà không nhớ, nhưng tôi thì nhớ rất rõ, người ấy năm ấy vì ăn mặc trông quá nghèo túng mà bị bà khinh thường, và còn bị bà nghi cho là quân kẻ cắp đấy!

Hưng nói đến đây, thì mụ chợt mường tượng nhớ ra, hình như ngày xưa cũng có đợt có người như vậy xuất hiện. Chỉ có điều mụ không biết là người ấy có liên quan gì đến Hưng, mà Hưng lại nhắc đến như vậy.

Hưng tiếp tục hút thuốc lá, rồi dùng giọng trịch thượng nói:

- Cái thằng khố rách áo ôm năm ấy, mà bị bà khinh thường, bà có biết là ai không? Là tôi, chính là tôi đây bà có biết không? Và để trả giá cho sự khinh thường ấy, thì bà sẽ phải mất sạch số tài sản của mình, rồi cút ra đường như một kẻ ăn mày…

Hưng nói xong, liền đứng phắt dậy bước ra cửa rồi đi thẳng. Mụ chủ tiệm tạp hóa ngồi thụp xuống như không tin, trên đời này lại còn có kẻ thù dai như Hưng. Mụ không nghĩ rằng năm xưa chỉ vì một cái hành động vô tình như thế, lại có thể chọc phải một kẻ điên như Hưng, khiến gã bao nhiêu năm mà vẫn ôm hận trả thù mụ.

Nhìn ra ngoài cửa, mụ thấy Hưng bước phăm phăm vào cái siêu thị trước cửa tiệm. Mà một điều mụ không ngờ nữa, chính là quản lý và nhân viên của cả cái siêu thị ấy, lại bước ra xếp hàng chào đón Hưng hết sức trang trọng. Khi này mụ mới hiểu ra, hóa ra hành động trả thù của Hưng không phải là bột phát, mà là đã có toan tính từ trước. Rằng cái siêu thị trước cửa tiệm tạp hóa mở ra mấy năm nay không phải là vì để làm ăn bình thường, mà chính là vì Hưng chủ yếu muốn ép chết cửa tiệm tạp hóa của mụ, không còn đường mà sống, để trả lại mối nhục mà ngày xưa mụ đã reo rắc cho gã.



Họ Lã mấy đời trước tranh dành nhau cuốn bí kíp đến đổ máu, dẫn đến chỉ còn vài chi thứ là còn sống sót. Mà Toại và Hưng thêm cả Việt nữa, là những người trong những chi thứ cuối cùng này còn được biết đến. Toại lấy vợ sớm, nhưng chẳng có con, Việt thì chơi bời lêu lổng quá nên gã cũng bị chẩn đoán kết luận là vô sinh. Cả dòng họ Lã giờ chỉ có Hưng mới lấy vợ được vài năm, lại còn là dòng trưởng họ nữa, nên Hưng cũng nóng lòng muốn có con nối dõi lắm mà chẳng được.

Thúy nghe theo lời bà Hường, rất chăm chỉ đi chùa cúng lễ để cầu mong có con mong nối dõi cho dòng họ Lã. Mà cầu cả năm trời nay vẫn chẳng có tin vui. Bẵng đi một thời gian, có ông thầy toán nổi tiếng lên ở mạn Bắc Ninh vì tài xin công danh sự nghiệp, lại xin đường con cháu. Thì Thúy nhân đấy liền ghé qua hỏi xin cách để có con nối dõi.

Thúy giờ đây là một bà chủ giàu có nhờ hơi chồng, đi đâu cũng có tài xế xe riêng mà đưa đón. Xe chạy đến cổng nhà ông thầy toán thì phải dừng lại, vì dòng người xếp trước cửa nhà ông ta quá đông. Thúy phải hối anh lái xe đút tiền cho cái đội sắp hàng người chờ, để cho bọn chúng có thể để Thúy vào gặp ông thầy toán trước. Nhưng dù đã đút tiền rồi, mà Thúy vẫn phải ngồi chờ ở bên ngoài đến tận hơn hai tiếng đồng hồ.

- Người tiếp theo vào đi!

Tiếng thầy toán vọng ra ngoài, Thúy chờ đã lâu, cũng sốt ruột lắm, liền đứng dậy đi vào ngay.

Vừa vào đến trong nhà, Thúy liền nhìn thấy một người đàn ông gầy nhom, mặt mũi hốc hác. Ăn mặc thì dáng vẻ bần nông, lại đeo cái cặp kính lão to tổ bố thì không khỏi suýt nữa mà phải bật cười. Nhưng Thúy cố nhịn, nàng ngồi xuống cái ghế gỗ, đặt trước cái sập nơi mà lão thầy toán đang đặt điện thờ.

Thầy toán số chẳng chờ Thúy lên tiếng, đã lập tức phán một câu:

- Nghiệt khí nặng như thế này, không có con cũng là đúng thôi!

Thúy giật mình kinh sợ, vì mình còn chưa nói câu nào mà thầy đã đoán trúng ngay rồi, trúng ngay cái ý định muốn xin có con của mình. Thúy ban đầu bước vào còn nửa tin nửa ngờ, nhưng nghe ông thầy toán đoán một phát đã trúng ngay cái ý định của nàng thì nàng không khỏi khiếp sợ về tài nghệ của ông ta.

Thúy hơi run mình, chắp tay lạy tạ nói:

- Lạy thầy, thầy quả là có con mắt tinh đời. Con lần này muốn xin thầy đến đây, cũng là vì muốn có đứa con nối dõi tông đường cho nhà chồng con.

Thầy toán gật đầu nói:

- Ừ, qua cửa thầy Sách tôi là đúng rồi, chứ nếu còn qua cửa người khác ý à, thì còn lâu…

Thầy toán này tên Đặng Sách, ngày xưa bị liệt nửa người. Nhưng bất chợt một hôm ông ta bị lên cơn thần kinh thế nào mà lại đứng dậy được, giữa trời mùa đông lại còn đi tắm nước lạnh, sau đó nhảy vô bếp lấy than nóng đỏ bỏ vô miệng nhai rau ráu để ăn như không có chuyện gì vậy. Từ đấy ông ta tự xưng là mình có thể nhìn thấy quỷ thần, toán được chuyện âm dương cứu độ chúng sinh, và tự xưng mình là thầy Sách.

Thầy Sách quay đầu, lấy một cuộn chỉ đỏ, rồi vẫy cho Thúy đến gần, buộc chỉ đỏ vào cổ tay cô rồi nói:

- Giờ tôi sẽ dẫn đồng, gọi tổ tiên của cô lên đây để hỏi xem ở dưới âm có bị gì hay không mà lại ảnh hưởng đến cả trên dương thế đường con cháu thế này!

Thúy không dám cãi lời, ngồi nguyên một góc chờ thầy Sách hành động. Thầy Sách làm xong mấy việc lặt vặt như là đốt nhang khấn vái, thì lại gọi thêm một người hầu đồng xuất hiện. Lại lấy sợi chỉ đỏ một đầu nối với cánh tay người ấy mà buộc.

Xong mấy việc ấy, thì thầy Sách miệng mới bắt đầu lầm rầm lầm rầm đọc chú ngữ. Thầy cứ xoay người như chong chóng, được mấy lần thì lại ném gạo rồi hất rượu cả vào mặt Thúy, cả vào mặt người kia.

- Hồn lên!

Bất chợt thầy Sách hét lên một tiếng, tức thì người hầu đồng rùng mình. Người hầu đồng còn rất trẻ, đột nhiên lại chuyển sang bộ dạng lọm khọm như một ông già.

Thầy Sách gặng hỏi:

- Hồn mau cho biết tên tuổi?

Người hầu đồng mắt có vẻ mê mang, trả lời:

- Tôi là Phùng Đức Quyền!

- Hồn là gì với người này?

Thầy Sách một tay trỏ vào người Thúy rồi hỏi, người hầu đồng định trả lời thì Thúy đã gào khóc lên mà nói:

- Ôi trời ơi bố ơi, sao bố lại phải chết oan ức thế hả bố!

Thầy Sách lúc này đã biết được thân phận của cái hồn, nên không gặng hỏi nữa. Còn người hầu đồng thì chợt quay sang nhìn Thúy, nước mắt chảy ươn ướt nói:

- Bố nhảy xuống sông tự tử, giờ thành ma da ở dưới ấy mà chẳng thể đi đầu thai được. Mày có thương bố thì nhờ thầy đây đốt tiền vàng hối lộ bọn quan độ dưới âm ty ấy để cho bố được đi đầu thai.

Thúy gạt nước mắt rồi mới nói:

- Thế bây giờ xác bố ở đâu? Để con còn tìm về chôn cất…

Người hầu đồng nói:

- Xác bố không còn nữa rồi, bị cá nó rỉa hết, mà xương cốt thì vương vãi mỗi thứ một nơi, không tìm được đâu con ạ!

Thúy gặng hỏi mấy lần mà hồn ông Quyền không trả lời, sau cùng Thúy mới chuyển sang vấn đề chính, hỏi đặt vấn đề về đường con cháu thì ông Quyền cũng lắc đầu bảo không biết, bảo là mình ở dưới sông bị nhốt nên không rõ chuyện ấy.

Tức thì người hầu đồng rùng mình giữ dội, cái ánh mắt mê mang chợt biến mất rồi trở nên linh hoạt.

Thúy gào lên:

- Bố, bố ơi!

Thầy Sách liền lên tiếng:

- Thôi cái hồn nó thoát rồi!

Rồi lại nhìn Thúy và nói:

- Hôm nay đến đây thôi, mỗi hôm thầy chỉ gọi đồng được ba người. Mà cái nhà chị là cuối cùng rồi đấy, thầy không gọi được thêm nữa. Thôi về đi, lần sau rồi lại đến tiếp!

Đoạn thầy Sách đuổi Thúy đi về, mắt Thúy còn ngấn lệ vấn vương nhìn vào trong điện. Thúy đặt một bọc tiền để vào trong bát rồi mới rời đi.

Hôm sau, Thúy đã nhanh chân đến từ sớm, và giờ này thì chẳng cần phải xếp hàng vì chính thầy Sách đã ra lệnh cho mấy đứa làm công là hễ có nhìn thấy bóng Thúy là phải cho vào ngay.

Thúy vừa mới bước vào nhà, thấy một người cũng đang làm lễ xin tiền tài gì đó. Thầy Sách chỉ làm nhanh nhanh chóng chóng rồi cũng đuổi người đó ra ngoài. Sau đó gọi Thúy vào ngồi xuống trước mặt thầy.

Thầy Sách nói:

- Tôi đã làm theo lời ông cụ, đốt tiền đút hối lộ cho lũ âm binh, dẫn độ ông cụ. Chắc nay mai là sẽ được đi đầu thai thôi. Nhà chị cứ chuẩn bị mà làm một mâm cỗ đầy để cúng cụ lên đường đi…

Thúy chắp tay lạy tạ xin vâng, rồi lại chợt hỏi:

- Vậy còn đường con cháu của nhà con thì thế nào thưa thầy?

Thầy Sách cau mày một lúc rồi mới nói:

- Gọi bố cô lên thì không hỏi được, vậy thì để tôi thử gọi bố chồng cô xem thế nào!

Thầy nói xong, lại giống như lần trước gọi người hầu đồng vào. Lần này hồn nhập rất nhanh, chẳng mấy chốc mà người hầu đồng đã quay sang nhìn Thúy rồi nói:

- Thúy có phải không con?

Thúy hơi ngạc nhiên vì hồi ông Hùng mất, Thúy còn chưa lấy Hưng. Nhưng hồn biết hết, thấy người hầu đồng chợt nói giọng thê lương:

- Mày về bảo cái thằng mặt người dạ thú ấy là nhanh nhanh chóng chóng dừng lại cái việc thất đức ấy đi, nếu không muốn bị quả báo. Từ dày ăn chay niệm phật đi thì may ra chục năm nữa mới có con, còn nếu không thì không những tuyệt tử tuyệt tôn, mà cả họ Lã cũng chết hết không còn người nào!

Thúy không hiểu, và cũng không biết là chồng mình làm những chuyện gì, mà lại khiến cho ông cụ tức giận như vậy. Nhưng gặng hỏi mãi mà ông cụ không nói, cuối cùng chỉ được mấy chốc là thoát hồn khỏi người hầu đồng.

Thầy Sách thở dài nói:

- Đấy, nếu là chuyện xảy ra do nguyên âm thì tôi còn giải quyết được, còn do dương thế thì tôi chịu. Thôi chị về đi, liệu đường mà khuyên bảo chồng chị…

Thầy Sách lại đuổi Thúy ra về, Thúy mấy lần có van nài xin thầy giúp mà thầy vẫn cứ lắc đầu nguây nguẩy.

Cuối cùng Thúy lại đặt một bọc tiền, rồi về hẳn không quay lại nữa.



Kể từ sau khi Hưng phất lên nhờ việc sản xuất và buôn bán thứ lụa quý thì Toại cũng giàu lên nhanh chóng nhờ việc đi theo ông cậu này làm việc ác. Nếu nhà Hưng giàu nhất làng Vạn thì giàu thứ nhì không ai khác chính là nhà Toại.

Nhưng cũng vì thế mà cái lòng tham vô đáy của Toại được nuôi dưỡng và dần lộ ra. Nhà ông cậu thì nhà lầu xe hơi, gái đẹp bu vào cả đàn cả đống, mà Toại thì mỗi lần chỉ được chia một phần lợi nhuận nhỏ, khiến gã phải tích góp mấy năm trời mới đủ xây cái nhà lớn thì không khỏi tính toán.

Toại đi lại trong nhà, đi qua đi lại khiến vợ gã là Ngà không khỏi chóng cả mặt. Ngà chợt hỏi:

- Anh có việc gì mà cứ đi qua đi lại như thế, nếu là trước đây tính đường miếng cơm manh áo thì không nói. Còn giờ anh đi theo cậu Hưng giàu có như thế này rồi thì còn suy nghĩ cái gì nữa…

Toại quay đầu nhìn Ngà, trừng mắt rồi nói:

- Cô thì biết cái gì, phận đàn bà con gái thì hiểu cái gì mà chen vào chuyện của chồng, đi xuống bếp nấu cơm đi!

Thấy Toại hung hăng liếc xéo, Ngà cũng không dại chọc vào cơn điên tiết của gã.

Toại đi đi lại lại như thế, là vì mấy hôm nay gã cũng bắt đầu củng cố cái dã tâm, muốn mở một cái xưởng nhuộm lụa khác. Vì lâu nay gã theo Hưng, nên cũng đã học lén được toàn bộ thứ công thức và muốn thoát ra tự mở xưởng riêng. Từ khi có tiền tài, Toại đi giao lưu nhiều nơi nên đã có rất nhiều đàn em theo gã, nghe gã lộ ra phong phanh cái ý định mở xưởng thì liền đồng ý ủng hộ ngay.

Toại đã toan tính đến việc tháng sau là phải bắt đầu mở xưởng. Nên đã gọi cho một tên đàn em của gã là Tài đến đây hôm nay để bàn chuyện.

Toại hẹn Tài từ tám giờ sáng, mà giờ đã hơn mười giờ trưa mà vẫn chưa thấy mặt Tài thì không khỏi nóng ruột. Toại sợ rằng là không biết Tài có bán đứng mình mà báo cho ông cậu của gã là Hưng biết việc này hay không. Lòng gã bồn chồn không yên cứ đi qua đi lại. Nhưng rồi cuối cùng gã cũng không thất vọng, vì gã đã thấy Tài nhếch nhác đi siêu vẹo từ ngoài sân bước vào.

Toại vừa nhìn thấy Tài thì lớn giọng:

- Chè chén bét nhè như thế kia thì thảo nào mà lại chẳng đến muộn, hỏng hết việc lớn của tao bây giờ!

Tài hơi biêng, phải lắc đầu mấy lượt cho tỉnh táo, rồi hắn mới cười khành khạch nói:

- Ôi anh Toại, việc ấy thì em đã tính trước cho anh cả rồi!

Toại kéo Tài vào trong nhà, ngồi xuống ghế, rồi bắt đầu hỏi chuyện:

- Thế miếng đất mở xưởng ấy, mày đã hỏi được cho tao chưa?

Tài gật đầu nói:

- Được rồi, có điều…

Nói đoạn Tài hơi lúng túng, Toại lại phải gặng hỏi:

- Có điều làm sao?

Tài nói:

- Lão Hưng bao thầu cả vùng này nguyên liệu để sản xuất lụa, mình có mở xưởng ra cũng chẳng có nguyên liệu đâu. Hơn nữa lão ấy đời nào lại để cho anh mở xưởng ngay trước mắt lão…

Toại trầm ngâm suy nghĩ, tính Hưng xưa nay gã hiểu rõ, vốn hay nhút nhát lại thiếu quyết đoán. Nhưng mấy năm gần đây Hưng giàu có nên tính cách đã đổi khác, lại còn trở nên dần dần rất ác độc và dã man. Toại chợt nghĩ đến việc nếu mình mở xưởng, thì Hưng có dùng thủ đoạn mà giết mình hay không. Vì tiền tài có thể che mắt người, nhất là đời các cụ đã từng có việc như thế thì đời sau đời nào lại không xảy ra những việc y như vậy.

Tài thấy Toại chần chừ, thì liền bơm thêm:

- Giờ này lão Hưng tiền của chất đống, mà so ra công sức anh bỏ với lão thì có kém gì đâu. Ấy vậy mà chỉ có mỗi cái xác nhà không, hơn nữa lão Hưng ác độc, lỡ lão nhìn thấy anh ngứa mắt rồi sai người trừ khử anh thì sao? Anh không hại người, thì cũng phải có lòng mà phòng người ta hại anh chứ!

Toại bối rối hồi lâu, rồi mới hỏi:

- Vậy ý mày thế nào?

Tài cười sằng sặc rồi chợt chuyển giọng hung dữ nói:

- Giết gã đi, rồi chiếm cả cái xưởng lụa, đỡ phải mở xưởng!

Toại gằn giọng lắc đầu nói:

- Không được, việc làm ấy ác đức quá tao không làm nổi!

Tài đập bàn quả quyết nói:

- Anh không cần phải lo về việc ấy, việc giết người để một tay thằng Tài này giải quyết, chỉ cần sau này anh không quên em là được!

Toại xoay đầu đi không nói gì, còn Tài thì loạng choạng đứng dậy đi ra phía cửa. Trước khi đi gã còn nói hắt vào bên trong:

- Anh cứ chờ đi, chờ vài ba hôm nữa là sẽ có tin báo tử của lão Hưng…

Tài nói xong thì đi mất dạng, Toại thì thẫn người ngồi chỗ vẫn không dám tin rằng mình sẽ phải giết Hưng. Một mặt Toại chỉ mong là Tài nói đùa, mặt khác lại rất mong sao cho hành động của Tài hóa thành sự thật, để gã có thể chiếm được cả tòa gia tài đồ sộ của Hưng mà chẳng tốn chút công sức. Vì Hưng là người cuối cùng trong dòng họ, lại không có con, nên sau khi Hưng chết đi, số gia sản ấy đương nhiên sẽ thuộc về Toại. Còn Việt làm ăn ở trên thành phố, dĩ nhiên là sẽ không tranh chấp với gã việc này, huống hồ là Việt cũng giàu có như vậy, sẽ không tính toán với gã.



Hưng đang ngồi trong nhà, mở ti vi với tiếng loa thật to, gã xem những cô hoa hậu nước ngoài trình diễn tiết mục áo tắm mà hai mắt cứ híp lại.

Chợt một gã đàn em của gã từ ngoài cổng hớt hải chạy vào, miệng hô to:

- Anh Hưng, anh Hưng!

Hưng làu bàu quát ngược lại:

- Có việc gì mà mày làm như sắp cháy nhà đến nơi thế, định phá nhà tao hả?

Gã đàn em này của gã tên Đức, là thành phần lêu lổng ăn chơi trác tác từ bé, vô công rồi nghề của làng Vạn. Đức thất nghiệp, nên được Hưng tuyển làm bảo vệ cho xưởng lụa của mình, đồng thời dần dần trở thành cánh tay phải của Hưng trong mọi công việc.

Thấy Đức sắc mặt hốt hoảng như sắp chết đến nơi, Hưng cũng phải ngừng chú ý vào cái ti vi mà quay sang nhìn hắn.

Đức thở ngáp mấy lần thật đều cho đã, rồi mới lò dò bước đến gần Hưng thì thầm to nhỏ vào tai gã:

- Em thấy thằng Tài đi ra từ nhà thằng Toại, mấy hôm nay còn nghe chúng nó đồn, là thằng Toại sai thằng Tài chuẩn bị phục giết anh để cướp tài sản đấy!

Hưng vỗ bàn quát:

- Vớ va vớ vẩn, thiên hạ đồn thổi linh ta linh tinh mà mày cũng nghe à, thằng Toại nó là cháu tao. Hơn nữa xưa nay tao cho nó ăn đâu có ít lợi lộc, đời nào nó lại làm cái việc phản trắc ấy!

Nhưng Đức quả quyết nói:

- Mới đầu thì em cũng không có tin là thật, nhưng sớm nay em thấy thằng Tài lên phố huyện mua một con dao, với một lọ xianua nhét dấm dúi giấu trong túi ngực. Nó không muốn giết anh theo lời thằng Toại, thì muốn mua những thứ ấy để làm gì? Anh phải liệu ngay, bằng không nay mai chết lúc nào mà chẳng hay biết đấy…

Hưng vẫn quát chửi Đức là giở hơi lắm chuyện và không tin, rồi đuổi Đức ra về. Nhưng dù bề ngoài thì Hưng tỏ ra như vậy, mà bên trong thì đã sợ hãi không thôi. Mấy năm nay Toại theo Hưng làm ăn tiền bạc có nhiều thật, nhưng so ra với gã thì cũng chẳng thấm vào đâu. Mà trong ba người biết được thứ công thức bí mật ấy thì chỉ có Toại, Việt và Hưng mà thôi. Việt thì giàu có nên chẳng đời nào làm thế, còn Toại thì lại khác, Toại ngày xưa chơi bời cũng có số ở cái làng Vạn này. Hưng nghĩ lại, lại cho rằng lời cảnh cáo của Đức là đáng phải suy xét. Trên báo cũng không thiếu gì những vụ anh em giết nhau để cướp tài sản, rất táng tận lương tâm.

Hưng tắt cái ti vi, rồi đi đi lại lại bồn chồn không yên. Giả như cái tin đồn ấy là không chính xác thì không sao, nhưng nếu nó là đúng thì Hưng cần phải liệu ngay để chuẩn bị trước, nhìn thấy Tài là phải dè chừng cẩn thận thì mới được. Hơn nữa nếu Toại đã có lòng giết Hưng, vậy thì Hưng phải ăn miếng trả miếng, giết chết Toại trước để ngăn ngừa cái hiểm họa âm mưu ấy từ trong trứng nước.

Reng reng reng!

Tiếng chuông điện thoại vang lên, người gọi đến hiển thị là số điện thoại của Toại. Hai hàng lông mày Hưng cau chặt lại, rồi với vẻ dè chừng, gã chầm chậm bấm vào nút nghe điện trên chiếc điện thoại di động của gã để trả lời:

- A lô!

Đầu dây bên kia có tiếng Toại vọng sang:

- Cậu Hưng à? Tối nay cháu có làm bữa cơm rượu, muốn mời cậu qua nhà chơi rồi cậu cháu mình chè chén một tí…

Hưng gật đầu dùng giọng vui lòng nói:

- Ôi trời, ai gọi chứ riêng mày gọi thì cậu phải qua ngay. Thế giờ bên ấy có những ai?

Toại đáp lời trong điện thoại:

- Ngoài cháu với cậu thì cũng chỉ có thằng em Tài thôi, còn con vợ cháu mới về bên ngoại, phải sáng mai mới về kia. Giờ sang đây chỉ có ba người, cậu không sang là mất vui đấy!

Hưng thoáng rùng mình, nghĩ đến những lời vừa khi nãy mà Đức kể. Hưng thực sự nghi ngờ rằng Toại đang có mưu đồ muốn giết mình, chính là nhân lúc Ngà đi vắng, rồi rủ nhau cùng với Tài lừa mình qua bên đó để sát hại.

Nghĩ đến đây, trong đầu gã thoáng tính toán rồi nảy ra muốn giết Toại để trả đũa. Gã trả lời điện thoại của Toại một cách qua loa rồi cúp máy, ngay sau đó gã lại gọi điện cho Đức qua nhà bàn công chuyện.

Đức vừa mới đi được một chặp không xa, thì đã thấy Hưng gọi ngược trở lại thì không khỏi cau mày. Nhưng hắn vẫn nghe theo lời Hưng, quay lại nhà gã để bàn chuyện.

Đức bước vào nhà Hưng chưa được nửa bước, thì đã thấy sắc mặt Hưng sa sầm ngồi ở cái ghế thẫn thờ. Đức liền đánh tiếng gọi:

- Anh Hưng, anh gọi em lại có chuyện gì vậy?

Hưng quay ra nhìn Đức rồi kể:

- Vừa rồi thằng Toại gọi điện cho tao, mời tao tối qua dùng cơm. Mà tối nay qua bên ấy chỉ có mỗi nó với thằng Tài, con vợ nó thì đi về bên ngoại rồi!

Đức mở cặp mắt láo liên, ngồi xuống ghế vỗ đùi đến đét một cái rồi nói:

- Đấy, em đã bảo rồi mà anh không nghe. Chúng nó kỳ này lừa anh sang là để giết anh chứ chẳng phải rượu chè gì!

Hưng khàn giọng nói:

- Thế giờ chú tính sao?

Đức lộ vẻ cay độc nói:

- Thì nó đã lộ ra việc táng tận lương tâm ấy thì mình cũng phải trả đũa ngay chứ còn gì nữa. Anh cứ ra lệnh đi, ra lệnh đi rồi em gọi mấy thằng em em đến ngay. Rồi tối nay mình kéo qua nhà nó, trói tay trói chân hai thằng chúng nó lại, chặt xác ra thành từng khúc ném vào bao rồi phi tang xuống sông.

Hưng vò đầu bứt tai rồi nói:

- Thì chú cứ để anh tính đã, tính xem chuyện này rồi thì từ từ thế nào. Dẫu gì nó cũng là cháu anh, để anh tối nay qua dò thử xem nó như thế nào rồi mới quyết định…

Đức gàn:

- Không cần phải suy nghĩ gì nữa, bây giờ em về để chuẩn bị, rồi tối nay sẽ lôi mấy thằng em phục sẵn trước cửa nhà thằng Toại. Chỉ cần anh a lô nháy máy một cái thôi là bọn em sẽ xông vào giết cả hai thằng chúng nó.

Đức nói xong đứng dậy quay đầu đi thẳng, còn Hưng thì vẫn đau đáu trong đầu suy nghĩ không dừng. Nhưng đến nửa buổi, gã liền quyết định tối nay sẽ cẩn thận qua thăm dò bên nhà Toại, và dặn Đức cứ theo kế hoạch mà làm.

Tối đến.

Chỉ mới sáu giờ tối mà đèn điện nhà Toại đã bật sáng trưng, con chó đen nhà Toại bỗng sủa vang rồi im bặt, nó chạy ra đầu cổng nhà vẫy vẫy đuôi tỏ vẻ vui mừng. Toại nhác tới nhìn xem thì hóa ra là Hưng. Toại vui mừng xởi lởi chạy ra chào hỏi đon đả:

- Ôi cháu chào cậu, cậu đến sớm thế ạ, cháu còn định qua đón cậu đây!

Hưng gật đầu rồi bước vào nhà, gã ngồi xuống cái ghế rồi nhìn ra mâm cơm mà Toại đã chuẩn bị sẵn. Hưng chợt hỏi:

- Thế thằng Tài đâu, sao lại chỉ có hai cậu cháu mình thế này?

Toại lau tay vào cái giẻ vì khi nãy gã đang làm dở thức ăn nên bị bẩn, gã ngồi xuống ghế rồi rót chén chè, mới trả lời Hưng:

- Thằng Tài nó đến sớm hơn cậu, đang đi ra đầu ngõ mua rượu kia kìa…

Toại nói đến đây thì con chó đen lại sủa vang, và đã thấy bóng dáng Tài lấp ló sau cái cánh cổng ngoài sân. Tài lăm lăm bước vào, trên tay gã là một cái bọc gì đó được bọc bằng báo rất kĩ. Hưng giật thót mình, nghĩ đến câu nói của Đức hồi chiều: “Thằng Tài lên phố huyện mua một con dao, với một lọ xianua nhét dấm dúi giấu trong túi ngực!”

Gã hoảng hồn, liền nhân lúc Toại quay đầu không chú ý, nhanh tay bấm lấy số Điện của Đức mà gọi ngay lập tức.

Đức cùng hai gã đàn em, kể từ chiều đã phục sẵn ngoài cổng nhà Toại, chỉ chờ Hưng gọi điện là sẽ lập tức hành động. Thấy điện thoại đã vang lên, và người gọi đến hiển thị là Hưng. Đức liền không chần chừ gì nữa mà lại cũng lũ đàn em xông thẳng vào nhà Toại.

Tài vừa vào nhà Toại, đặt cái bọc báo xuống dưới bàn, rồi nhìn Hưng chào hỏi cho có lệ, trong mắt gã toàn là sát khí bốc ra khiến Hưng lạnh cả sống lưng.

Chợt Tài động vào cái bọc giấy báo ấy, rồi từ từ mở ra. Hưng không kìm lòng được liền chột dạ, hét lên chạy như bay ra khỏi nhà:

- Đức, cứu tao!

Gã quay đầu lại thì thấy Toại như đan toan muốn túm cổ gã lại thì càng hoảng sợ. Chạy ra đến cổng thì đã thấy bọn Đức xông vào, mỗi thằng lăm lăm mới dây thừng, nhảy bổ vào khống chế cả Tài lẫn Toại trói chặt. Chưa kịp để cho hai người kia nói gì, thì Đức đã đem con dao đâm vào tim Tài, một mạch lấy mạng người một cách thật trơn tru.

Xong việc, hắn sai hai tên đàn em đem xác Tài ra sau vườn chặt ra thành từng khúc, rồi đem ra sông mà vứt. Còn Toại đang bị trói chặt như con chó nằm ở dưới đất để chờ cho Hưng xử lý.

Hưng lúc này mới quay đầu lại, mồ hôi vã ra như tắm, nhìn Toại mà quát:

- Tao ăn ở với mày đâu có bạc, cớ sao mày lại nghĩ đến cái việc muốn giết tao để cướp tài sản. Việc táng tận lương tâm ấy mà mày cũng nghĩ ra được sao?

Toại mếu máo khóc ròng:

- Lạy cậu, cháu nào có dám, cái ý ấy là thằng Tài nó nảy ra chứ cháu đâu có sai nó đâu. Hôm trước nó có đánh tiếng muốn giết cậu nhưng cháu gàn, nó là cái thằng to mồm thế thôi chứ làm gì mà dám làm, hôm nay nó qua đây là cũng chỉ để ăn thịt uống rượu thật chứ nào có ý muốn giết cậu!

Hưng quát lên:

- Mày còn cãi nữa à…

Gã đem cái bọc giấy báo mở ra như cái bằng chứng mình chứng cho Toại hết cãi, những mở được một nửa thì gã liền thẫn thờ và chợt cứng họng. Bởi vì trong cái bọc giấy ấy, không phải là con dao mà gã vẫn nghĩ, mà nó chỉ là một chai rượu đế Tài mua về đúng theo như cái lời mà Toại nói.

Đức đến bên cạnh sắc mặt cũng tái xanh lại, lẽ nào gã lại nghi ngờ nhầm, khiến cho việc giết người này thành việc giết nhầm được. Gã vẫn cố viện cớ nói thay cho Hưng:

- Thế còn việc nó mua con dao ở trên phố huyện, rồi còn cả lọ xyanua nữa thì sao?

Toại thật thà đáp lại:

- Nó mua con dao mới về để nhà dùng, chứ còn lọ xyanua là để cho nó rửa cái sợi dây truyền vàng từ thời nội nó để lại, chứ nào có ý định muốn giết người đâu!

Hưng bàng hoàng ngồi thụp xuống, gã cứ thẫn người như kẻ mất hồn. Chỉ vì một cái tin đồn vô căn cứ, mà giờ đây gã đã nhúng tay vào một vụ giết người nghiêm trọng.

Đức thấy không còn đường để quay lại, liền dùng giọng hối thúc Hưng nói:

- Chuyện đã đến nước này rồi, thì thằng Toại cũng không thể để cho nó sống nữa, phải giết nó đi ngay!

Toại ú ớ kêu gào cầu xin, thì bị Đức nhét rẻ vào miệng. Còn Hưng thì đầu óc ong ong, chẳng nghĩ được chuyện gì, nên cứ để mặc kệ Đức làm gì thì làm.

Sau cùng thì kết cục của Toại cũng giống như Tài, trở thành cái xác bị chặt thấy mấy khúc mà ném xuống sông. Còn Đức thì xin Hưng ít tiền, sau vụ này cũng bỏ trốn đi biệt xứ.



Dòng họ Lã chi thứ vốn đã ít, nay lại chỉ còn Toại, Hưng và Việt là con cháu nối dỗi. Mà Toại đã bị Hưng sai Đức giết, nên chỉ còn có Việt là người con cháu trong họ Lã. Nên càng về sau này, Hưng càng khát khao có được đứa con nối dõi tông đường.

Sau khi giết Toại được mấy năm, việc làm ăn của Hưng càng ngày càng lớn. Nhưng cũng theo đó là những chuyện ly kỳ bắt đầu xuất hiện trong gia đình gã.

Có hôm gã đi ra sau vườn, thì nghe như có người đang gọi mình, mà nghoảnh đầu quay lại thì chẳng thấy ai. Có hôm đang ngủ giữa trưa, trong nhà không có ai ngoài gã mà vẫn có tiếng hát.

Rồi khi gã đến xưởng, nơi mà trước nay Việt với gã thường ra tay hạ sát những người con gái mà Việt đem về, lấy máu để làm thứ lụa quý, thì cũng thường nghe thấy tiếng người con gái khóc rất ai oán. Nhiều nhân viên trong xưởng cũng có thể nghe được tiếng khóc này, nhưng lại không biết nó phát ra từ đâu.

Hưng xưa nay không tin chuyện ma quỷ thánh thần, nhưng đâm ra cũng bắt đầu nghi kỵ về việc ma quỷ ám ảnh gã. Rằng trước nay gã và Việt đã giết quá nhiều người nên ma quỷ về ám. Gã liền liên hệ với Việt, muốn Việt tìm lại cái ông thầy địa lý trước đây về xem cho mình.

Mấy hôm sau có công điện của Việt báo về, rằng ông thầy địa lý trước đây giúp bọn gã dịch quyển công thức bí truyền, không hiểu sao đã chết bất đắc kì tử. Người ta thấy ông ta đang nói chuyện bình thường rồi lên cơn đau tim mà chết, miệng ông ta cứ há hốc, mắt cứ trợn trừng như gặp phải việc gì đó rất đáng sợ vậy.

Hưng lại hối việt tìm người khác giúp mình, được dăm hôm thì Việt cũng tìm được người mới thật. Người này tên là Kiều, là một thầy toán nữ. Kiều năm nay chỉ độ hai lăm hai sáu, nhìn qua trông hết sức xinh đẹp và quyến rũ. Ấy vậy mà một người trẻ tuổi như Kiều, lại có thể là một thầy toán cao tay thì Hưng không tin, khi Việt đưa Kiều về thì Hưng còn trách Việt:

- Sao mày lại tìm gái cho cậu, cậu cần là cần tìm thầy toán số cơ mà?

Nhưng Việt quả quyết nói:

- Thì đúng là thầy toán số cháu tìm cho cậu mà sao cậu không tin, cô này là người ở Phú Thọ, năm ngoài nghe nói bị sét đánh trúng mà không chết, từ đó xem số cho người ta linh lắm. Nên cháu mới đưa về đây để làm lễ mà xem giải hạn cho cậu…

Hưng gật đầu, rồi đón Kiều về nhà dâng lễ phụng sự như cha mẹ gã vậy. Được ít hôm thì gã mời Kiều qua xem xưởng, Kiều nhìn qua cái xưởng nhuộm lụa được một chốc thì sắc mặt tối sầm lại nói:

- Việc các anh làm tàn độc quá, chỗ này có rất nhiều ác linh, rồi ở nhà anh còn có thêm mấy cái oan hồn nữa cứ vất vưởng, nó chặn ở ngoài cổng không cho âm binh đưa người đến để đầu thai, thì hỏi làm sao mà lại không có con cho được.

Kiều phán xong, Hưng dùng giọng khẳng định nói:

- Thì cô có cách nào giúp tôi nhanh nhanh chóng chóng thì làm, bao nhiêu tiền tôi cũng chi được hết!

Kiều che miệng cười khánh khách, rồi chợt lấy ngón tay đặt lên ngực Hưng vuốt ve nói:

- Đôi khi tiền nó không giải quyết được vấn đề, mà còn cần phải cả tình nữa…

Trước khi đưa Kiều về, Việt còn có dặn, Kiều ngoài tham tiền, thì còn rất bốc lửa tình nữa. Cho nên nếu cô ả đưa vừa lòng ai, thì người ấy phải chiều lòng cô ta bằng được thì cô ta mới giúp.

Hưng cười và rất vui vẻ đáp ứng Kiều, vì không chỉ muốn đạt được mục đích của mình, mà Kiều còn là một người phụ nữ rất xinh đẹp khiến Hưng phải thèm thuồng nữa.

Sau khi trở về xưởng xong, là Hưng dẫn Kiều về nhà, chờ lúc Thúy không có nhà là hai người lao vào dấm dúi thậm thụt mây mưa với nhau. Xong chuyện thì Hưng mới hối Kiều:

- Em xem có cách nào giải quyết nhanh nhanh dùm anh đi, rồi thì tiền bạc gì anh lo tất!

Kiều chải lại mái tóc cho mượt, mặc lại bộ váy dài gợi cảm. Rồi mới vuốt ve khuôn mặt mình mà nói:

- Tiền thì em không cần, nếu anh cần thiết, thì em cũng có thể sinh cho anh một đứa con. Đôi khi không phải do chuyện âm hại, mà là dương thế không có cách nào làm được thì phải đổi cách khác chứ!

Hưng gạt phăng đi nói:

- Thôi em đừng có đùa, anh muốn việc này phải mau chóng giải quyết. Năm nay anh đã gần bốn mươi rồi, không có con thì sợ không còn kịp nữa…

Kiều thấy Hưng nói đến đấy thì nụ cười của ả chợt tắt hẳn, ả từ khi đến đây đã bắt đầu toan tính muốn mồi chài Hưng để Hưng bỏ Thúy lấy ả. Mà mãi đến hôm nay thì ả mới có cơ hội lừa Hưng lên giường với mình để ả có thể thỏa mãn được tâm nguyện, ả nào có thể chịu bỏ qua. Hưng vừa giàu có, vừa phong độ lịch lãm, lại còn là người hành động rất mau lẹ khiến ả siêu lòng. Một khi đã có người đàn ông vừa mắt của ả, thì ả đâu có chuyện buông tha cho người ta dễ dàng như thế.

Ả hung hăng trừng mắt nói:

- Lời em nói là thật! Nếu anh muốn có con, thì chỉ có thể có con với em thôi. Chỉ có em mới có thể có đủ khả năng để đuổi mấy cái oan hồn kia đi, rồi trấn trụ chúng nó mà sinh cho anh một đứa con. Ngoài cách ấy ra thì chẳng còn cách nào đâu…

Hưng nghe đến đây, sắc mặt gã thoáng buồn rầu, vì suy cho cùng gã vẫn còn yêu Thúy.

Kiều lại kể lể chêm thêm nói:

- Anh nói xem, em thì có chỗ nào mà không hơn. Vừa tài giỏi lại còn xinh đẹp sắc sảo, chẳng hơn hẳn cái mụ vợ quê mùa của anh à? Hơn nữa, dù sao chúng ta cũng đã…

Kiều nói đến đây liền tỏ vẻ bẽn lẽn như con gái dậy thì, sắc mặt ả thoáng đỏ ửng. Hưng thở dài suy tính, dù sao thì gã cũng đã lên giường với Kiều. Gã bây giờ với Kiều đã giống như trên chung một chiếc thuyền, thuyền đổ là cả hai cùng chết. Nên bất đắc dĩ, gã đành phải gật đầu đồng ý với Kiều.

Ba tháng sau, Hưng viện cớ cãi nhau với Thúy mà bỏ nhà đi, ép Thúy ký vào tờ đơn ly hôn. Nhưng Thúy không ký, Kiều nhân đấy sai người đến đánh ghen dằn mặt Thúy, cuối cùng ép Thúy ký vào tờ đơn ly hôn cho bằng được.

Thúy cắn răng không còn biết làm cách nào khác, đành phải ký vào tờ đơn ly hôn. Trơ mắt nhìn hai kẻ bạc bẽo làm cưới với nhau ngay trước mặt cô.

Kiều ép Hưng phải làm đám cưới thật long trọng, phải thật hoành tráng. Hưng nghe theo lời ả răm rắp và cho dù ả có bảo gì đi chăng nữa thì gã cũng nghe. Hưng giờ chỉ có một ý nghĩ duy nhất là có một đứa con để nối dõi tông đường, và gã có thể đánh đổi bằng bất cứ giá nào, nhưng mong mãi mà chẳng được.

Lấy Kiều được vài tháng, Hưng đã liên tục hối Kiều tìm cách để có con. Kiều lúc này mới tận tình giúp gã.

Ả bày ra thủ đoạn giết người để làm thần giữ của, hối Việt mua vài người con gái độ tuổi mới lớn từ biên giới về để ả sử dụng thủ đoạn này. Ả luyện ra lấy ba bốn cái hồn phách để trấn trụ những oan hồn quanh nhà của Hưng, rồi lúc đấy mới làm lễ cầu hồn, mời linh hồn đầu thai đến nhà Hưng để Kiều có thể hạ sinh cho Hưng một thằng con trai.

Và quả đúng như lời của Kiều nói, khoảng độ năm tháng sau, thì ả đã có tin vui. Ả báo cho Hưng biết qua tờ kết quả xét nghiệm đã có thai khiến Hưng mừng như điên. Gã mở hội ăn mừng mời khắp người trong làng, rồi cả các hiệu buôn lớn nhỏ trên thành phố cũng được gã mời về để góp vui giống hệt như cái thời mà gã cưới Thúy về vậy.

Kiều mang thai chín tháng mười ngày thì cũng đã sinh, đứa con sinh ra trông rất bụ bẫm kháu khỉnh giống hệt Kiều. Hưng vui mừng lắm, ngày nào cũng đi sắm sửa đồ đạc cho con, rồi thuê cả người giúp việc đầy nhà. Lại hối luôn cả Việt từ trên thành phố về thăm cháu.

Hôm sau, Việt về quê thật, và mang bao nhiêu là đồ đạc quà mừng cậu. Từ ngoài đầu ngõ, hai ba chiếc ô tô sang trọng hiệu mecedes ben đã được đỗ ở đó. Việt cùng với vợ và mấy cô bồ của gã đi vào nhà bê theo một đống đồ để mừng cho Hưng.

Vừa vào đến sân, thì Hưng đã chạy ra đon đả mà đón Việt nói:

- Ôi mày về chơi với cậu thế này là đã quý hóa lắm rồi, còn phải quà cáp làm cái gì cho nó rách việc ra.

Việt cứ cười đùa khách sáo, kêu Hưng lắm chuyện. Rồi hai người trò chuyện ăn uống vui vẻ lắm. Đến đêm, khi Hưng đã ngủ say, Việt chợt thức dậy, mò vào phòng Hưng rồi đánh thức Kiều.

Kiều lén lút nhìn Hưng, rồi lại ngó ngang dè chừng xung quanh, rồi mới theo Việt đi ra ngoài.

Ra đến ngoài cửa, trốn đến ngoài vườn là Kiều với Việt đã dấm dúi mây mưa. Được mấy hồi xong chuyện, Kiều mới nhìn Việt rồi nói:

- Sao anh để em đợi anh lâu thế, chẳng lẽ anh lại quên em rồi à? Em vào cái nhà này, muốn cướp lấy gia sản của lão ta, cũng chỉ là để làm cho anh vui lòng thôi đấy…

Việt cười, gã thoáng nựng Kiều vài cái lên má rồi nói:

- Được rồi cưng của anh, sau đợt này em muốn gì thì anh cũng chiều!

Kiều nguýt giọng đon đả nói:

- Kể cả việc anh bỏ mấy cô bồ và cả con vợ của anh ấy hả?

Việt gật đầu cho Kiều vui lòng rồi nói:

- Chẳng không bỏ thì gì à, con anh dù sao cũng là em sinh ra. Anh chỉ có mỗi đứa con này, không lấy em thì lấy ai…

Kiều mãn nguyện vui vẻ, gục vào vai Việt. Được một lúc, sắc mặt Việt thoáng chuyển sang vẻ nghiêm trọng rồi nói:

- Thế em đoán chừng xem lão Hưng còn sống được bao lâu nữa?

Kiều lười nhác trả lời:

- Cùng lắm thì dăm bữa nửa tháng là cùng, cái chất độc ấy nó ngấm từ từ qua từng ngày, nên khó mà đoán biết được. Chỉ còn cách chờ thôi…

Việt dùng giọng như đinh chặt sắt chắc chắn nói:

- Em phải lừa được lão, trước khi chết sang tên bản di chúc cho thằng con trai này của chúng mình đấy…

Kiều gật đầu chợt cười nói:

- Mà lão Hưng này cũng đúng là kẻ ngu, em lừa lão bao nhiêu lâu nay là thầy toán mà lão cũng tin.

Việt khẽ lườm Kiều rồi nguýt dài:

- Không tin làm sao được, anh đã bồi dưỡng em bao nhiêu lâu như thế cơ mà, học toán số của thầy Đại được nửa năm mà không thành tài thì hóa là…

Kiều chợt nhéo tai Việt, tức giận nói giọng lí nhí:

- Thì hóa là gì, hóa là gì…

Trong lúc hai kẻ bội bạc dấm dúi ở ngoài vườn, thì lúc này Hưng đã ngủ say. Gã không biết rằng thì ra bấy lâu nay, gã đã bị người ta toan tính. Vốn dĩ gã đáng nhẽ ra phải là người nắm đằng chuôi, ấy vậy mà hơn hết lại trở thành nạn nhân của Việt, người cháu họ xa của mình.

Kể từ cái lúc Hưng mở xưởng để nhuộm lụa, rồi dùng thủ đoạn ác độc để làm ra những tấm lụa quý theo công thức bí truyền, cũng là lúc gã luôn bị những người gã đã nhúng tay vào giết quay về ám ảnh gã.

May là cả năm trời nay, có Kiều xuất hiện, nên ít khi những hồn ma như vậy về quấy quả gã. Nhưng ít không có nghĩa là không có, bắt đầu từ vài đêm nay. Gã đột nhiên mơ thấy ông Hùng về mắng chửi gã thậm tệ, và lại tiếp tục nghe thấy những âm thanh khóc lóc hết sức thảm thiết quanh nhà. Có đôi lần, gã còn nhìn thấy bóng dáng người đàn ông cụt đầu đi lại trong căn bếp sau gian nhà chính. Mà nhìn cái bộ quần áo người đàn ông ấy mặc, không ai khác lại chính là Tài, tên cháu họ của gã, mà mấy năm trước gã và Đức đàn em của gã đã ra tay sát hại rồi ném xác Tài xuống sông.

Mỗi lần Hưng nhìn thấy Tài như vậy, là lại một lần sởn gai ốc chạy trối chết. Hưng báo cho Kiều biết những việc ấy, nhưng ả cũng chỉ làm mấy cái lễ qua loa cho có lệ. Những cái lễ của Kiều làm cho Hưng, chỉ có thể ngăn trở hồn ma được vài ngày, rồi đâu lại vào đấy.

Càng ngày Hưng lại càng cảm thấy mệt mỏi, và muốn buông xuôi tất cả. Có đôi lúc gã muốn dừng lại việc sản xuất lụa, nghe theo lời Thúy dặn trước đây là chỉ ăn chay niệm phật để tĩnh tâm cho lòng thanh thản. Thế nhưng Kiều lại gàn gã, cho rằng gã bị dở hơi và lắm trò. Kiều khẳng định chỉ cần có Kiều ở đây là Hưng sẽ chẳng làm sao hết, và cho rằng vì gã đã già nên đâm ra nghĩ quẩn mà thôi.

Đêm nay gã chìm vào giấc ngủ sâu, rồi lại chợt mơ thầy ông Hùng tìm về báo mộng. Gã mơ thấy ông Hùng ngồi trong gian nhà cũ trước đây, hút thuốc lào, uống nước chè rồi chép miệng thở dài liên tục. Hưng thấy ông Hùng không giống như những lần trước xuất hiện, cứ về mà mắng chửi gã tới tấp thì lần này lại khác. Ông cụ chỉ dùng giọng ân cần mà nói với Hưng trong mơ:

- Bố nói với mày cũng như nước đổ lá khoai thôi con ạ, thôi thì dòng họ nhà mình khí số đã tận, nay mai con cứ chuẩn bị sẵn sàng đi rồi bố ở đây bố đón. Còn về đường con cháu, thì tao cũng đã xin cho mày với cái Thúy một đứa con để nối hương hỏa, nhưng đứa trẻ ấy không được để họ Lã nữa, mà phải đổi sang họ Triệu thì mới sống được. Thôi bố chỉ nói với mày như thế thôi, bố đi đây…

Nói đoạn ông cụ đi ra khỏi gian nhà rồi biến mất, còn Hưng thì choàng tỉnh lại. Gã mở mắt ra định hối Kiều đi rót cho gã cốc nước, nhưng tìm mãi mà chẳng thấy Kiều. Chợt gã nghe thấy tiếng nhí nhéo ngoài sân, gã dòm kĩ xem thì phát hiện Kiều với Việt đang dấm dúi tình tứ với nhau. Hưng tức lắm, định la toáng lên, nhưng chẳng hiểu sao gã lại nghĩ lại, cố gằn lòng mình mà kiềm chế.

Gã quay lại buồng giả vờ ngủ, chờ cho Kiều cũng chui lại giường và Việt trở về phòng như bình thường. Cả đêm ấy Hưng không sao ngủ tiếp, và gã đã lén lút nghe được đứa con mà Kiều hạ sinh lại chẳng phải con gã thì gã lại càng cay đắng. Gã nhớ đến lời ông cụ dặn trong mơ, là chỉ có Thúy mới có thể sinh con nối dõi cho gã, nên gã đã hạ quyết tâm là ngay ngày mai phải đi tìm Thúy nối lại tình xưa. Còn đôi gian phu dâm phụ này, thì gã sẽ từ từ lên kế hoạch mà giết hết cả hai cho hả giận.

Hôm sau, gã bí mật đi qua làng Phục, rồi đến nhà Thúy.

Thúy từ sau khi ly hôn với Hưng thì vẫn ở vậy, Hưng vì thương tình nên hàng tháng vẫn lén sai người chu cấp đều đặn cho nàng. Nhưng gần đây Kiều biết được, ngăn lại việc ấy của Hưng nên càng ngày tiền chu cấp lại càng ít. Khiến cho Thúy nghèo túng quá đâm ra phải kiếm lấy việc làm thêm là đan lan rổ bán trên phố huyện.

Hưng bước vào nhà, thấy Thúy đang đan rổ mà mủi lòng. Lại thấy Thúy vẫn thờ cúng hương hỏa đều đặn, trên bàn thờ của nhà Thúy còn có thờ cả ông Hùng. Thúy vẫn ăn chay niệm phật cầu phúc cho Hưng mà Hưng chẳng biết. Chính vì việc Thúy làm mấy năm nay, mà hôm qua ông Hùng mới về báo mộng cho Hưng biết là xin được đứa con nối dõi. Bằng không thì cho dù gã muôn đời mong muốn cũng không có.

Thấy Hưng đến gần, Thúy chợt quay đầu đi cố kìm những giọt nước mắt rơi. Nhưng những hành động ấy không sao thoát khỏi mắt Hưng, Hưng chợt cầm tay Thúy và nói:

- Bao nhiêu năm nay anh phụ bạc với em quá, giờ anh có muốn hối lỗi cũng chẳng kịp. Anh đến gặp em cũng chỉ là gặp em lần cuối cùng thôi, rồi sau này em có muốn gặp anh cũng chẳng được…

Hôm ấy Thúy cùng với Hưng ôn lại bao nhiêu chuyện cũ, bao nhiêu hồi ức đẹp giữa hai người ngày xưa đều được đem ra trò chuyện. Hết ngày là Hưng ở lại ăn cơm, rồi đêm đến thì hai người lại mặn nồng như xưa.

Sáng hôm sau.

Hưng mặc quần áo dậy từ rất sớm, rồi nhanh tay cầm cái điện thoại gõ số điện gọi cho Đức.

Đức mấy năm trốn ở biên giới, thì gần đây cũng đã quay trở về làng. Hắn nghiện ngập đói khát, cần tiền dữ lắm, và muốn Hưng chu cấp cho hắn. Hưng bận mấy dịp nên chẳng thèm đoái hoài đến hắn, mà bình thường thì cũng chẳng muốn dây vào hắn làm gì.

Nhưng chuyện đã đến nước này, Hưng không còn thiết gì nữa. Gã đành phải gọi cho Đức, mong đức sẽ đem đôi gian phu dâm phụ ra trừng trị cho mình.

Bên đầu dây điện thoại bên kia nhanh chóng có giọng trả lời:

- A lô!

Hưng liền cất giọng:

- Tối nay, mày chuẩn bị người đi, đi xử cho tao hai kẻ này, tiền nong thì sẽ sòng phẳng!

Đức ở bên kia đầu dây, cười khanh khách nói:

- Ôi đại ca cứ yên tâm đi, cứ có tiền là mọi chuyện sẽ giải quyết ổn thỏa thôi!

Hưng cúp máy, quay đầu lại nhìn Thúy đang ngủ say, gã cũng không muốn đánh thức cô dậy. Mà chỉ rón rén bước đến cái bàn giấy, rút ra tờ giấy rồi cầm bút viết. Gã viết lại bản di chúc, để lại toàn bộ số tài sản cả đời của gã lại cho Thúy, hy vọng nếu Thúy may mắn có thể có một đứa con thì sẽ chu cấp cho nó được một cuộc sống đủ đầy.

Viết xong bản di chúc, là Hưng lên xe máy phóng ra nơi tụ hợp với đám người của Đức.

Kể từ khi Hưng gọi, Đức đã mau chóng gọi đám đàn em của gã chờ sẵn, và chỉ cần Hưng xuất hiện là sẽ theo lệnh của Hưng đi bắt người mà gã cần.

Nhìn thấy Hưng từ xa phóng xe máy tới, Đức đã chào hỏi đon đả:

- Em chào anh Hưng ạ!

Rồi hắn hối đồng loạt cả đám đàn em đều phải chào lại Hưng. Hưng gật đầu cho có lệ. Đức lúc này mới lân la đến gần Hưng mà hỏi:

- Vậy người mà anh muốn giết là đứa nào, anh cứ nói một câu thôi là em sẽ xử lý cho anh ngay!

Hưng nhìn về phía cuối làng Vạn trỏ tay rồi nói:

- Đôi gian phụ dâm phụ ấy ở ngay trong chính căn nhà tao, chúng mày phải trói chặt lại. Nam thì chặt đầu thả xác trôi xông, còn nữa thì hãm hiếp thoải mái rồi cũng giết đi!

Hưng ra lệnh xong rồi rút từ trong người ra một bọc tiền đưa cho Đức, cả hai tấm ảnh của hai người cần giết, sau đó quay xe đi thẳng. Vì Hưng cũng chẳng muốn nhìn thấy mấy cảnh tượng ấy, bây giờ gã chỉ còn một tâm nguyện cuối cùng, là được chết mà thôi.

Đức nhận được bọc tiền, rồi nhanh chóng dẫn lũ đàn em xông đến nhà Hưng. Chỉ vừa vào tới cổng là Đức đã nhận ra ngay hai người trong ảnh, gã xua lũ đàn em xông tới đem Việt ra thắt cổ cho tới chết, còn Kiều thì bị lũ đàn em gã xua vào phòng rồi thay nhau hãm hiếp đến khi ả kiệt sức. Ả không hiểu tại sao lại xảy ra chuyện như vậy chỉ liên tục gào lên:

- Tại sao chúng mày lại dám làm chuyện tày đình như thế này, không sợ bị trời quả báo ư?

Đức cười gằn giọng nói:

- Chúng mày có tư cách gì mà mở mồm ra đòi trời trả lại đạo lý cho, một phường lăng toàn. Tao đã được lệnh của anh Hưng đến đây để giết đôi gian phu dâm phụ như chúng mày. Và con đĩ già mồm như mày, được anh Hưng ra lệnh là phải hãm hiếp cho đến chết!

Đức nói xong liền lao vào cưỡng bách Kiều, dày xé ả. Còn Kiều thì giờ đã hiểu ra mọi chuyện, ả chỉ khóc rú hết cả lên, định tiếp tục mở miệng kêu gào thì bị lũ đàn em của Đức nhét rẻ vào miệng.

Sau hôm ấy, người ta phát hiện ra trong nhà của Hưng có hai mạng người chết. Một người bị thắt cổ đến chết ở cái bưởi sau vườn, còn một người thì bị nghi là đã có kẻ hãm hiếp tới chết. Bị mất máu quá nhiều lại còn bị trói chặt ở giường như một kẻ nô lệ, người đàn bà ấy chính là Kiều.

Sau khi Hưng ra lệnh cho đám người của Đức giết Việt và Kiều. Thì gã cũng đã reo mình xuống sông tự tận, chấm dứt cho một cuộc đời đầy tội ác của gã mà gã đáng phải trả.

Dòng họ Lã trải qua mấy trăm năm hương hỏa, cuối cùng cũng đã tận số. Đến đời của Hưng, Toại và Việt thì cũng đã chết hết không còn một ai. Đến đứa con mà Kiều sinh ra thì sau này người ta mới phát hiện ra rằng đó cũng chẳng phải con của Việt, mà lại là kết quả của việc ả lăng loàn với kẻ khác mà sinh ra. Người ấy sau này cũng đã đến nhận đứa con ấy và đem đi.

Còn về Thúy, thì được Hưng để lại toàn bộ số gia sản. Mấy tháng sau thì Thúy chợt lên cơn nghén và nàng cũng phát hiện ra được là mình có mang. Dựa theo tờ di chúc và lời mà Hưng nhắn nhủ để lại, là phải đổi đứa con sang thành họ Triệu thì mới sống được. Thúy răm rắp nghe theo, và cô dùng toàn bộ số tài sản mà Hưng để lại quyên vào chùa làm từ thiện, còn mình thì vẫn ở cảnh nghèo túng như xưa mà nuôi con.

Sau này con của Hưng lớn lên, tra ra được quyển công thức chế thứ lụa quý. Nhưng lại gạt bỏ đi cái bước dã man giết người để ủ lụa, mà chất lượng của lụa vẫn được thượng hạng vang danh để nối nghiệp cha. Chỉ có điều họ Lã từ nay đã không còn, chỉ có lụa của họ Triệu, đang vang danh là lụa Hà Thành.

Kết quả của một thứ lụa quý, đã xóa sổ toàn bộ một dòng tộc vì phương thức man rợ của nó. Tạo nên một truyền kì về sự đổ máu trong một dòng tộc, dòng tộc dùng máu để sinh tồn… dòng tộc mang “Gia Phả Của Máu!”

Hết!

Ngạ Quỷ
 
Chương 8: Bên hồ Ma da


Hoàng vội vàng đem chiếc chìa khóa trên tay tra vào ổ. Hôm nay đã là ngày thứ hai mà anh cảm thấy loại cảm giác bất an đến như thế.

Hồ Đâm Sòi là một cái hồ không lớn, nhưng nhiều năm gần đây nó được tu sửa, nên cảnh quan đã có chút khác biệt. Đất ở nơi này có cái giá không đắt, với cảnh quan tuyệt đẹp của nó, hẳn là có nhiều người nên săn lùng mới phải. Ấy vậy mà nhiều năm nay ở đây, những căn nhà quanh hồ vẫn một mực bị bỏ hoang, là vì người ta tin rằng có một thế lực vô hình luôn tồn tại.

Hoàng mua được căn nhà này cách đây hai tháng, nhưng vì có nhiều việc bận rộn. Nên đến tận cách đây một ngày anh mới có thể thuê xe chở đồ đến và định cư ở nơi này.

Căn nhà của Hoàng là một căn nhà hai tầng, có diện tích khoảng một trăm mét vuông một tầng, ngoài sảnh chính tầng một anh dành một góc nhỏ để để xe, còn lại toàn bộ đều được anh dùng làm nhà bếp và phòng khách.

Căn nhà khang trang là vậy, nhưng lại luôn có một vẻ âm u lạ thường khiến người ta không sao hiểu nổi.

Hoàng bước nhanh vào nhà và đóng cửa lại, chiếc xe máy Dream cũ được anh dựng một góc và không khóa kĩ. Anh cảm thấy nơi này rất an toàn, nhất là về trị an dân phố, bởi vì nơi này xưa nay nổi tiếng vì không có vụ trộm cắp nào cả.

Hoàng bước chân vào sảnh phòng khách, đi đến nhà bếp, mở chiếc tủ lạnh và lấy một trai nước lạnh uống vội cho qua cơn khát.

Anh ngồi xuống một chiếc ghế, thả mình thả lỏng cho qua cơn mệt nhọc sau một ngày làm việc mệt mỏi. Anh là một kĩ sư, công việc thường ngày rất nhiều, áp lực đè nén rất lớn. Sở dĩ anh mua căn nhà này, cũng là bởi vì anh muốn tìm một nơi có cảnh đẹp yên bình, thả đi những giờ phút mệt nhọc sau một ngày đi làm. Và hơn hết, là nơi này rất yên tĩnh khiến anh có thể thỏa sức làm những việc mình thích như đọc sách và xem phim một cách tuyệt vời nhất.

Hoàng thở đều xua đi sự mệt nhọc rồi vội đứng lên, thay bộ quần áo đã lấm tấm mồ hôi bốc mùi thành một bộ quần áo cộc mát mẻ cho ngày hè.

Anh bước lên tầng hai, vào phòng đọc sách kiếm một cuốn sách, sau đó rời nhà bước đến bờ hồ trước nhà, chọn một chiếc ghế đá sạch sẽ ngồi xuống.

Dưới ánh đèn lờ mờ, nội dung trong cuốn sách có thể nhìn được rõ nét.

Hai tháng trước khi ăn chuẩn bị mua căn nhà này, anh đã có dịp đi qua và hỏi thăm tình hình nơi đây. Khi ấy anh gặp được một người phụ nữ và một người đàn ông. Người phụ nữ khoảng năm mươi tuổi, nét mặt sầu khổ. Khi nghe Hoàng nhắc đến khu này thì có chút lảng tránh, nhưng sau đó biết đến ý định của anh thì vội vã can ngăn nói rằng: “ Cậu đừng có mua nhà ở đây, tôi thấy cậu hiền lành thật thà nên cũng nói thật, sở dĩ những căn nhà ở đây khó bán như vậy, là vì nó có nhiều điềm quái gở lắm!”.

Người phụ nữ nói xong rồi chỉ về một căn nhà rồi nói tiếp: “ Cậu nhìn thấy căn nhà ở đằng kia chứ? Ngày trước có hai cặp vợ chồng và một đứa con gái ở đó, trước khi đến mua nhà, họ cũng dò hỏi tôi y như cậu vậy, tôi nói và khuyên ngăn họ hết sức, mà họ đâu có nghe. Rồi cậu biết chuyện gì đã xảy ra với họ không?”. Hoàng lắc đầu và dĩ nhiên thái độ đó đã là câu trả lời. Người phụ nữ nói tiếp: “ Người con gái sau đó đã chết đuối, ở ngay cái bờ hồ trước cửa căn nhà của họ, có người nói hồ này nhiều người chết, hàng đêm sẽ dẫn dụ những con người yếu gan yếu vía, để lôi xuống hồ thế mạng cho nó!”.

“Ý bác nói là Ma Da đấy ư?”. Hoàng hứng thú dạt dào tiếp lời câu chuyện của người phụ nữ. Người phụ nữ gật đầu khẳng định nói: “Cậu không tin à? Tôi nói thật sự, tin hay không thì tùy, nơi này từ khi tôi ở đến nay, đã có hơn chục cái chết kỳ lạ đến như vậy rồi…”. Hoàng nghe xong câu chuyện chỉ liên tục cười nắc nẻ, coi như đó là một câu chuyện cười thư giãn. Anh đã ưng ý căn nhà từ lâu, chẳng qua hỏi về một số chuyện về khu nhà cho thêm phần chắc chắn, còn những chuyện kì ảo thuộc về thế giới tâm linh, thì không khiến Hoàng bận tâm chút nào.

Người thứ hai Hoàng gặp để hỏi thăm dò, là một người đàn ông khoảng ngoài sáu mươi. Hoàng thấy hành động của người đàn ông này cũng rất kì lạ, thường ngày ông ta sẽ dành một khoảng thời gian vào sáng sớm, để vớt rác bên hồ. Trước khi bắt đầu công việc, ông ta luôn có một thói quen là khấn bái lẩm nhẩm một vài câu gì đó, sau đó mới bắt tay vào công việc thường lệ. Sau khi dọn dẹp sạch sẽ rác ở bên hồ, ông mới làm thủ tục khấn bái như lúc đầu rồi mới rời đi. Gặp Hoàng hỏi về khu nhà, ông cũng chỉ thở dài và có một lời khuyên tương tự giống như người phụ nữ kia.

Anh cảm thấy không khai thác được gì trong chuyện này, nhưng vì quá ưng ý căn nhà, hơn nữa số tiền dành dụm bao nhiêu năm làm việc vất vả, Hoàng cũng muốn hoàn thành mong ước của mình, để lâu thì lại sợ mình tiêu mất không mua được, cho nên Hoàng nhanh chóng làm thủ tục gấp rút để mua lại căn nhà.

Bây giờ ngồi bên hồ, Hoàng rút điếu thuốc lá ra hút vài hơi nhả khói, nghĩ lại những chuyện hai tháng trước mà vẫn không tin nổi, liên tục lắc đầu rồi lẩm bẩm trong miệng:

- Thời này rồi mà vẫn còn có người tin vào mấy chuyện ma quỷ ư, đúng là nực cười thật!

Hoàng hút xong điếu thuốc lá, bắt đầu mở những trang sách đầu tiên ra nghiền ngẫm thoải mái. Anh cứ chăm chú đọc sách như vậy, đến lúc ngẩng mặt lên nhìn đồng hồ, anh đã giật mình nói:

- Đã mười hai giờ rồi ư? Nhanh thật…

Mười hai giờ, Hoàng thốt ra cụm từ này, liền nghĩ ngay đến một số chuyện mà người ta thường hay đề cập đến ma quỷ. Mười hai giờ, chính là giờ mà cõi vong linh của người chết, giờ oán hồn ma quỷ xuất hiện trên nhân gian đi ám người còn sống.

Hoàng hứng thú ngồi lại một chỗ tự nói:

- Nếu người ở đây đã tin rằng có ma quỷ hoành hành, thì tại sao mình không thử ngồi ở đây cho quá khoảng giờ này nghiệm chứng một chút xem sao?

Hoàng tự nở một nụ cười thích thú, anh rút thêm một điếu thuốc lá đưa lên môi. Bình thường Hoàng hút thuốc lá không nhiều, chỉ là hút một điếu cho thỏa cơn thèm, hơn nữa cũng cảm thấy thư giãn, khi hút thuốc lá cũng làm cho người ta nảy sinh rất nhiều ý tưởng hay ho. Hôm nay Hoàng đã hút đến hai điếu thuốc lá, và bây giờ vẫn tiếp tục hút.

Hoàng chợt co hai cánh tay lại ôm người, rồi tự nói:

- Mười hai giờ sương đêm xuống, dẫu có là mùa hè thì vẫn cảm thấy lạnh thật. Giữa cái trời mùa hè nóng nực tháng bảy, mà nơi này cũng có cảm giác lạnh thế ư?

Hoàng hút điếu thuốc lá hết rồi, lại thêm một điếu nữa. Hoàng càng hút lại càng cảm thấy lạnh người, sao thế nhỉ, hay là bị cảm lạnh rồi. Hoàng không tin là cảm giác của thân thể mình đã hỏng, anh là một người rất khỏe mạnh. Dẫu có là gió bấc tháng hai thì cũng không thể làm anh run người, Hoàng lắc đầu tự nhủ, có lẽ hôm nay là ngày chuyển gió, chợt có hôm như vậy mà thôi.

Tạch!

Ngọn đèn khuya bên hồ đúng theo thời gian, qua mười hai giờ đã chợt tắt ngấm. Đường quanh hồ lúc này không còn một bóng người, mà một vài căn nhà quanh hồ cũng đã tắt ánh đèn từ lâu để đi ngủ sớm. Hoàng đợi thêm một lúc nữa, thì lại thấy trời đột nhiên nóng bức trở lại, cảm thấy rất bức bối. Hoàng liền nghĩ ngay đến một ý tưởng điên rồ. Trên miệng anh tự nói:

- Bây giờ đêm xuống rồi, chắc là cũng không còn có ai nữa, sao mình không thử tắm nước hồ bây giờ nhỉ, chắc chắn đó sẽ là một trải nghiệm tuyệt vời!

Hoàng nghĩ xong liền lập tức hành động theo quyết định của mình, anh cởi áo ra vắt bên cạnh ghế đá. Hút nốt mẩu thuốc lá cuối cùng, anh bước xuống mép hồ, rồi từ từ nhúng bàn chân mình vào trong dòng nước hồ. Trời bên ngoài càng ngày lại càng nóng bức lạ thường. Hoàng kì quái tự hỏi:

- Lạ chưa? Vừa nãy còn đang lạnh đến như thế cơ mà, vì sao bây giờ lại nóng như vậy?

Sống lưng Hoàng bắt đầu toát ra những dòng mồ hôi chảy dài, nước hồ mát lạnh phía dưới đang giống như một loại sức hút lạ kì khiến Hoàng không sao kiềm chế được. Hoàng có một cảm giác khao khát muốn trầm mình xuống dòng nước hồ, muốn giải tỏa đi cơn nóng bức ngay tức thì.

Ùm!

Hoàng nhảy ngay xuống mặt nước hồ một cách khoan khoái. Anh thoải mái bơi trong mặt hồ gần nhà, rồi mỗi ngày dần xa bờ hồ một chút, rồi một chút nữa. Cảm giác khoan khoái đến tận trí óc, một cảm giác xả hơi chưa từng có. Anh đang tận hưởng dòng nước mát lạnh như vậy, thì lại đột nhiên cảm thấy một cỗ không khí lạnh buốt tràn qua. Bàn chân co duỗi thoải mái của Hoàng, hình như có một thứ gì đó cuốn lấy, muốn lôi Hoàng xuống mặt hồ.

Hoàng hoảng sợ vẫy vùng, anh cảm thấy lạnh sống lưng, cố sức muốn bơi thật nhanh vào bờ hồ. Nhưng càng bơi anh lại càng cảm thấy bờ hồ ngày một xa cách, anh dần đuối sức, và thấy toàn thân mình đang trầm dần xuống hồ, hình như có một cánh tay nào đó, đang cố sức lôi kéo anh xuống, muốn anh vĩnh viễn ở dưới mặt hồ này, vĩnh viễn không còn thở trên bầu không khí phía trên.

Từng dòng nước tràn vào buồng phổi, vào lỗ mũi, miệng của Hoàng khiến anh hoàn toàn ngộp thở. Hoàng hối hận vì những gì mình đã làm, anh ước rằng mình chưa bao giờ nhảy xuống hồ như lúc này. Trước khi chìm xuống mặt hồ, trong cái ảo ảnh cuối cùng, Hoàng nhìn thấy một người con gái xinh đẹp bên bờ hồ, ở chính cái chỗ vừa lúc nãy anh ngồi đọc sách, đang nhìn anh mỉm cười, và trên khuôn mặt xinh đẹp ấy, có một chút gì đó nhẹ nhõm.

Sáng sớm hôm sau, bên bờ hồ Đầm Sòi, người ta phát hiện ra một cái xác của một người đàn ông không rõ khuôn mặt, toàn bộ khuôn mặt đã bị biến dạng, toàn thân trương phềnh nổi lên. Khuôn mặt người đàn ông biểu hiện một thái độ sợ hãi đến cùng cực, dường như trước khi chết anh ta đã gặp phải một chuyện gì đó rất kinh khủng. Quanh hồ hàng trăm người dân xúm lại nhìn một người đàn ông vớt cái xác lên, người đàn ông vớt xác trước khi làm công việc của mình, lại cúng bái lẩm nhẩm một thứ gì đó, rồi mới tiếp tục công việc của mình.

Một người phụ nữ trong hàng trăm người đứng bên hồ, đang quải cái nón cũ cho mát mẻ, nhìn người đàn ông xấu số bạc mệnh nổi trên mặt hồ mà liên tục thở dài, có lẽ đây đã là một thứ vận mệnh, một thứ vận mệnh mà bà có cố cũng không sao ngăn cản nổi, vì nó đã là một cái vòng luẩn quẩn không theo ý mình.
 
Chương 9: Bà già trong bệnh viện


Đây là một câu chuyện có thật trong đời mẹ tôi.

Vào những năm tám sáu tám bảy của thế kỉ trước, mẹ tôi khi ấy có mang anh trai tôi. Bà được chẩn đoán là khó sinh, và phải sớm nhập viện huyện để bác sỹ tiện bề theo dõi. Khi ấy bố tôi đi công tác xa nhà, và chỉ có duy nhất một mình bà ở trong bệnh viện mà không hề có người chăm sóc. Phần vì bố không có nhà, phần vì họ hàng nội ngoại hai bên đều ở rất xa viện huyện. Hơn nữa thời ấy kinh tế còn khó khăn, nhà nào có con có cái, là phải lo làm đồng làm ruộng đến đầu tắt mặt tối, làm gì có thời gian mà chăm nom cho sản phụ. Bởi vậy cho nên mẹ tôi đau đẻ, chỉ có một mình trong bệnh viện mà không có bất cứ một người thân nào ở bên.

Phòng sản phụ của bệnh viện huyện khi ấy, là một căn nhà chát bùn, có lõi tường là tre. Hay người ta còn gọi kiểu nhà ấy là nhà vách đất, và lợp ngói. Thời ấy kiểu nhà ấy rất thịnh hành, và còn được xem là kiểu nhà khang trang, không mấy nhà trong huyện có thể xây được căn nhà như vậy, mà chỉ có thể làm nhà mái lợp tre thông thường, có khi mưa gió còn không đủ ngăn qua vách tường, đến đêm đông lạnh chỉ biết ôm nhau mà rên.

Trong căn phòng dành cho sản phụ ấy, có đến bốn người sản phụ ngoài mẹ tôi, cũng vì những lý do khác nhau mà nhập viện, đang chờ bác sỹ chẩn đoán theo dõi.

Mẹ tôi nằm ở chiếc giường ở phía góc trong cùng, và bên ngoài cửa, ngay đối diện giường của mẹ tôi, là một người sản phụ thuộc dân tộc Thái. Người này có dáng người nhỏ thó, da dẻ hồng hào, cũng bị chẩn đoán là khó sinh và phải mổ đẻ.

Cô ta kém mẹ tôi khoảng bốn tuổi, và trong cả căn phòng dành cho sản phụ, cô ta là người duy nhất có người chăm sóc bên cạnh. Đó chính là bà mẹ chồng cô ta…

Chuyện kể ra sẽ chẳng có gì, nếu như không phải mẹ tôi vô tình xảy ra một chút mâu thuẫn với bà mẹ chồng này của cô ta.

Bà ta có một nước da trắng, quầng mắt hơi thâm, và khi nhìn thẳng vào mắt bà ta. Mẹ tôi có thể thấy được một màu đỏ đến đáng sợ, đó không phải là màu đỏ vì bệnh tật, hay vì bất cứ thứ gì khác, mà là một màu đỏ do ảo giác tạo thành.

Đôi lúc mắt bà ta trông rất bình thường, đôi lúc lại chuyển thành màu đỏ một cách quỷ dị.

Tất cả bệnh nhân trong phòng sản phụ khi ấy, đều có thể nhận biết được sự khác thường này. Cho nên nhiều người lựa chọn cách lảng tránh, và tốt hơn hết là càng ít bắt gặp bà ta càng tốt. Bà ta luôn tạo ra một không khí sợ hãi trong căn phòng, giống như một bóng ma lẩn khuất, bất cứ khi nào bà ta cũng có thể xuất hiện một cách bất ngờ.

Hôm ấy mẹ tôi pha sữa, vô tình để rớt một ít nước nóng lên người bà ta khiến bà ta rất tức giận. Một cảnh tượng ghê rợn đã lập tức xảy ra trước mắt bà. Bà già ấy nhe răng ra dọa mẹ tôi như một con thú, mắt đỏ tươi, khuôn mặt bà ta mọc ra những sợi lông tơ màu trắng rất dài.

Trong phòng khi ấy không có bất cứ ai ngoài mẹ tôi, cô con dâu và bà ta. Vì hôm ấy, ba ca sản phụ còn lại, đều đã xuất viện khi sinh xong. Căn phòng chỉ có ba người, những cảnh tượng ấy chỉ có duy nhất mẹ tôi và cô con dâu của bà ta thấy được.

Cô con dâu bà ta hình như đã biết trước việc này, nên chỉ bảo mẹ tôi ra ngoài và một mình cô ta ở trong phòng với bà già ấy để trấn an. Mẹ tôi nghe theo lời khuyên, và đi ra ngoài cho đến khi được cô con dâu kia gọi vào. Khi vào mẹ tôi vẫn còn nhìn thấy ánh mắt hằn học của bà ta hiện rõ, và mẹ tôi luôn có cảm giác rằng, mọi chuyện sẽ chưa dừng lại ở đây.

Hai ngày sau, mẹ tôi may mắn sinh thành công anh trai tôi mà không phải mổ đẻ. Bà được xuất viện sớm vì sức khỏe đã hồi phục nhanh.

Tối hôm ấy bố tôi về nhà thăm mẹ, mang theo một buồng chuối lại nhìn thấy sắc mặt lo âu hiện trên khuôn mặt mẹ tôi. Ông hỏi:

- Em làm sao thế?

Mẹ tôi trả lời:

- Hôm rồi ở viện em có gặp một bà già, rồi vô tình làm đổ sữa nóng vào người bà ta. Rồi bà ta giận lắm…

Bố tôi nói:

- Rồi sao mà phải lo, em không xin lỗi người ta một câu hay sao?

Mẹ tôi nói:

- Em có nói, nhưng mà ta vẫn còn điệu hằn học lắm, nghe chừng chưa bỏ qua chuyện này. Hơn nữa, em nghi bà ta là… là ma!

Bố tôi đặt nải chuối xuống bàn cười khẩy:

- Em cứ khéo đùa! Mà quỷ cái gì, em cứ hay tin vào mấy cái chuyện linh tinh không đâu đấy rồi có ngày lại thần hồn nát thần tính…

Bố tôi là cán bộ huyện, là công bộc của dân. Thời này cán bộ đối với mấy chuyện mê tín dị đoan đặc biệt bài trừ, hơn nữa còn là những người đi đầu trong công tác tuyên truyền. Chuyện mẹ tôi nói bà già kia là ma cà rồng, ai tin chứ bố tôi tuyệt đối không tin.

Còn tại sao mẹ tôi lại cho rằng, bà già kia là ma cà rồng. Ấy cũng là vì có những nguồn gốc sâu xa của người dân xứ này.

Người dân ở đây có một câu chuyện kể lại rằng, ma cà rồng là một loài ma quỷ có tồn tại trong nhân gian. Bình thường, bọn chúng không khác gì người thường, vẫn ăn ở sinh hoạt như vậy. Nhưng khi đêm đến, đặc biệt là khi trời sáng trăng, chúng sẽ lộ rõ bản chất thật của mình, với làn da trắng bệch, chiếc mũi to đỏ, và hai cái răng nanh dài đi hút máu và ăn xác thối.

Người ta sẽ thấy những con ma cà rồng xuất hiện lẩn khuất, khi nhà nào có đám tang đám giỗ. Bởi vì khi ấy ma cà rồng biết rằng có người chết, chúng sẽ phục ở xung quanh nhà có tang, và chờ khi cái xác được chôn xuống đất, chúng sẽ đào lên và ăn thịt của người chết một cách sạch sẽ.

Mẹ tôi có kể qua một câu chuyện, là có một cặp đôi người Thái yêu nhau. Chàng trai vô cùng say đắm cô gái, và cứ mỗi đêm đến hai người lại hẹn nhau ra một nơi vắng vẻ để tâm sự. Điều khiến chàng trai bị cuốn hút, đó chính là cô gái càng về khuya lại càng đẹp, nước da của cô càng trắng khiến chàng trai mê đắm.

Sau này hai người trở thành vợ chồng, trong bản xảy ra nhiều cái chết ly kỳ, có người nghi ngờ người vợ là ma cà rồng chuyên đi hút máu người và báo cho người chồng. Nhưng anh ta vẫn không hề tin, tận cho đến khi hai đứa con của chính anh ta chết, và anh ta tận mắt chứng kiến người gây ra cái chết là người vợ của mình đang thò hai cái răng nanh để hút máu, khuôn mặt xinh đẹp của cô ta đã hóa thành hình quỷ răng dài với cái mũi to tròn đỏ hỏn, cặp mắt đỏ tươi.

Kể từ đó người dân tộc Thái có một tục lệ truyền rằng, đi đêm nếu gặp người nào càng xinh trai đẹp gái thì càng phải cẩn thận, kẻo có ngày rước ma cà rồng về nhà mà gặp họa. Hơn nữa nếu có cảm giác có người theo dõi mình, hơn nữa nghi là người đó là ma cà rồng đang đánh chủ ý lên mình, trước hết nên chạy vào bất cứ cái nhà nào gần đấy đút một nhánh tỏi vào túi quần, để tránh con ma cà rồng tiếp tục bám đuôi theo sau, để có thể về nhà an toàn.

Còn nữa, nếu bất cứ người nào nghi ngờ người yêu mình là ma cà rồng, thì có thể hẹn gặp ở chỗ vắng, sau đó nướng một con ếch nhái đút vào túi quần để thử. Ma cà rồng bình sinh rất thích ăn ếch nhái, đặc biệt ếch nhái nướng thơm lên chúng sẽ không chịu được và sẽ để lộ nguyên hình. Những con ma cà rồng khi ngửi thấy mùi tỏi thì sẽ chạy đi ngay lập tức, còn ngửi thấy mùi ếch nhái nướng thì sẽ nhảy cẫng lên và bồn chồn không yên. Khi đó người ta có thể xác định được thân phận thật sự của chúng, và tìm cách tránh xa, cắt đuôi hoặc chia tay vì một lý do nào đó. Có đôi khi những con ma cà rồng không buông tha con mồi, khi ấy người ta sẽ phải lựa chọn cách là bỏ xứ mà đi.

Quay trở lại chuyện mẹ tôi.

Bố tôi sau khi về nhà một đêm thăm mẹ, là ngay ngày hôm sau lập tức đi bản để bắt lợn. Vì ngày ấy nhà còn nghèo, bố ngoài làm việc trên huyện, còn phải làm thêm một số công việc như mổ lợn làm ba toa, đi bản buôn thóc ngô thì mới đủ trang trải cuộc sống.

Và tai họa cũng ập đến ngay vào cái đêm ấy.

Đêm ấy mẹ tôi luôn có cảm giác bất an, và bà nghi ngờ rằng sẽ có chuyện xảy đến. Bà luôn cảm giác được dường như là có người đang theo dõi mình, và người này đã ở rất gần từ sau khi bố tôi rời đi.

Câu chuyện về những con ma cà rồng bám lấy người sống, luôn ám ảnh mẹ tôi và khiến bà trở nên cảnh giác.

Bà vội vàng nấu nhanh bữa cơm chiều, ăn cơm xong là bà lập tức đóng cửa cài then, và đi ngủ sớm.

Bầu trời đêm nhanh chóng buông xuống, tiếng ve kêu inh ỏi cùng với trời nóng bức khiến bà không sao ngủ nổi, linh tính khiến bà cảm thấy có chuyện bất an chẳng lành sẽ ập đến.

Bà nhớ lại rõ ràng cái ánh mắt oán hận đỏ như máu của bà già trong bệnh viện, cùng với đôi mắt hằn học chưa buông của bà ta.

Loảng xoảng!

Chợt mẹ tôi nghe thấy tiếng động đổ vỡ ở dưới gian bếp, bà lập tức giật mình. Tim bà đập nhanh hơn và cảm thấy hoảng sợ, bà nhớ rõ khi chiều đã đóng chặt cửa bếp, và cài then bên ngoài một cách cẩn thận. Bây giờ trong bếp có tiếng động loảng xoảng vỡ bát đũa như vậy, trừ khi là có người vào mở cửa, bằng không gió có khi nào có thể làm được việc ấy.

Bà không nghi ngờ là có kẻ trộm, bởi lẽ trong bếp chẳng hề có thứ gì ngoài đống bát đũa, nếu kẻ trộm muốn trộm, trừ phi là trộm thóc lúa gà vịt. Mà những thứ ấy thì không liên quan gì đến gian bếp cả. Hay là bố tôi đi bản về, đang đêm đói nên mò xuống bếp tìm thứ gì ăn để bỏ bụng. Nghĩ vậy, bà liên lập tức đánh tiếng:

- Mình đấy à?

Tiếng bà to rõ, vọng ra bên ngoài, nhưng không hề có âm thanh đáp lại.

Mẹ tôi mồ hôi chảy càng dày đặc hơn, bà nhớ lại lời cụ nội tôi có dặn. Nếu khi nào cảm thấy bất an, nghi là có ma, mày phải đặt một chậu nước ở trước cửa nhà, hai là đặt cái đòn gánh ở trước cửa nhà. Ma cỏ nó sợ một trong hai thứ ấy, nếu may mắn thì mày có thể trống chọi được tới sáng mà thoát kiếp nạn.

Mẹ tôi nhớ tới lời cụ nội, bà nhanh chóng tìm được thanh đòn gánh ở góc nhà.

Ngay khi bà vừa đặt thanh đòn gánh chặn ở trước cửa, thì qua khe cửa. Bà thảng thốt kêu lên, bà nhìn thấy một đôi con mắt đỏ như máu, đang hằn học nhìn qua khe cửa dõi vào trong nhà.

Mẹ tôi sợ hãi ngã lăn ra đất, khóc rú lên.

Đến khi mẹ tôi bình tĩnh lại, nhìn ta khe cửa không thấy bất cứ thứ gì. Bà mới vội vàng thay chốt cửa bằng thanh đòn gánh.

Khi mẹ tôi vừa sập thanh đòn gánh xuống, cùng là lúc cánh cửa đột nhiên bị đập mạnh ruỳnh ruỳnh từ phía bên ngoài.

Âm thanh vang lên rõ một một, một cái bàn to lớn đấy lông lá đang thò qua khe cửa thò vào trong nhà cố sức nạy thanh đòn gánh.

Mẹ tôi sợ quá, cứ hét lên khóc như ri. Cánh cửa đập ngày càng mạnh thì mẹ tôi càng khóc lớn, anh trai tôi khi ấy còn bé, nghe thấy âm thanh to quá cũng sợ hãi mà khóc rống lên theo. Cả không gian bao trùm một nỗi sợ vô hình. Bức vách tường thì rung lên rụng xuống những mảng đất cát, với sức đập mạnh như thế, mẹ tôi không biết là liệu nó có chịu nổi hay không.

Trong cơn sợ hãi, mẹ tôi vẫn cố làm theo lời cụ nội nói, chuẩn bị một chậu nước đặt trước cửa nhà. Nhưng trong chậu không có nước, chỉ còn lại mỗi gáo nước để ở đầu giường, không đủ để đổ đầy chậu. Mẹ tôi sợ quá, lại nghe ma cỏ là sợ nước tiểu của người, nên bà đánh dùng thứ nước tiểu của mình, của anh trai tôi, với gáo nước còn sót lại đổ vào chậu đặt ở trước nhà.

Làm xong những việc ấy, thì tiếng động cũng đột nhiên im bặt. Mẹ tôi thở phào nhẹ nhõm, nghĩ rằng mọi chuyện đã qua. Bà định lên giường đi ngủ mong cho mau tới trời sáng. Bà cố sức không dám nhìn vào khe cửa, bởi vì khi ấy bà sợ rằng lại bắt gặp ánh mắt hằn học qua khe cửa kia sẽ khiến bà không chịu nổi mà ngất đi.

Nhưng bà vừa nằm lên giường, thì tiếng đập cửa ruỳnh ruỳnh lại tiếp tục vang lên.

Bà vừa sợ hãi vừa tức giận kêu gào:

- Mày cút đi!

- Mày cút đi…

Bà kêu gào hai lần như thế, thì tiếng động lần này cũng đã im bặt. Chỉ còn lại khoảng không gian tối đen như mực, với ánh sáng leo lắt.

Bà mệt nhọc, quay sang dỗ anh trai tôi đi vào giấc ngủ, thì đập vào mắt bà, lại là đôi mắt đỏ tươi như máu ấy. Cái đôi mắt đỏ tươi ấy đang nhìn qua khe cửa sổ, nhìn vào phía giường, mà chiếc giường lại đang đặt ngay cạnh khe cửa sổ.

Mẹ tôi hãi hùng quá, ngã bật xuống đất, khóc rưng rức kêu cha gọi mẹ, rồi trách bố tôi sao lại bỏ mẹ tôi ở nhà một mình thế này.

Đến bây giờ thì trên giường bà cũng không nằm được nữa, bà lại phải đến trước cửa chính, ôm thanh đòn gánh, ngồi cạnh chậu nước mà ôm anh tôi suốt đêm.

Bà thức trắng cả đêm, tới sáng thời bố tôi cũng bắt lợn trong bản về. Con lợn bốn năm tạ, được bố tôi nhốt vào chuồng. Rồi bố tôi thấy nhà cửa lại xiêu vẹo, bát đũa trong bếp thì vỡ ngổn ngang. Lại thấy mẹ tôi ôm anh trai tôi ngồi trước cửa nhà mặt thất thểu, thì đánh tiếng hỏi:

- Nhà cửa làm sao thế này?

Mẹ tôi đêm hết chuyện đêm qua kể lại cho bố tôi, nhưng bố tôi không tin, chỉ trống tay vào nạnh nói:

- Chắc là thằng trộm nào nó mò vào nhà, rồi nó nhát cho một trận chứ làm gì có ma quỷ nào!

Mẹ tôi vừa khóc vừa kiên quyết khẳng định:

- Em nói thật đấy! Em đoán là đêm nay kiểu gì nó cũng quay lại, là bà già ấy chứ không sai, bà ta không buông tha cho em đâu!

Bố tôi gật đầu, sửa lại cánh cửa siêu vẹo, dọn gian bếp. Mẹ tôi cũng đi chuẩn bị bữa ăn rồi, nhanh chóng đi ngủ chờ đến đêm.

Đêm hôm này bố tôi ở nhà, pha ấm chè đặc ngồi ở giữa nhà, cửa mở toang thức chờ đến sáng, xem xem cái thứ mà mẹ tôi nói là cái gì. Ông cầm rõ tấm đòn gánh thủ thế, cho dù có là thằng trộm nào đến nhà, ông cũng sẽ đánh nó một trận ra trò.

Thế nhưng, hết đêm, dường như là trêu ngươi bố tôi. Lại chẳng hề có chuyện gì xảy ra, và mẹ tôi đêm ấy được một giấc ngủ ngon.

Sáng ra bố tôi mắng mẹ tôi một trận, mẹ tôi nghi ngờ là vì nó biết được bố tôi ở nhà, nên không dám hành động. Cho nên bà bàn với bố tôi, giả vờ đi đâu đấy, khi ấy nửa đêm trở về, nhất định sẽ rõ mọi chuyện.

Bố tôi thì mắng là mẹ tôi giở hơi, lắm trò. Nhưng vì vẫn muốn minh bạch cho mẹ tôi ra nhẽ, nên đêm ấy vẫn xách con dao bên người, rồi qua nhà chú thím cách đấy nửa cây số ngồi chơi rồi chờ nửa đêm mới về.

Mẹ tôi ăn cơm chiều xong, lại đóng cửa cài then.

Và quả nhiên lần này sở liệu của bà đã đúng, dường như nó biết được bố tôi không có ở nhà. Nên ngay khi màn đêm đen xuống, mẹ tôi trốn ở trong nhà cài chặt cửa, là cái tiếng động đập cửa ruỳnh ruỳnh ấy lại vang lên. Bà khóc thét lên sợ hãi, tay nắm chặt đòn gánh, chậu nước đã được đong sẵn để trước cửa.

Nhưng dường như lần này những thứ ấy không thể ngăn được con ác quỷ bên ngoài khung cửa, bà ôm anh trai tôi khóc nấc lên. Anh tôi khóc rống lên như muốn nói, sao bố không về nhanh đi để bảo vệ mẹ con con.

Rầm!

Và khi cánh cửa không còn chịu nổi, hiện ra trước mắt mẹ tôi là một thứ sinh vật đầy lông lá, với răng nanh dài, lông nó trắng muốt. Toàn thân to lớn khắp nơi đều như một con thú, nhưng có một điểm khiến mẹ tôi lập tức nhận ra là dáng điệu lòng khòng không sai vào đâu được của một bà già, và đôi mắt to đỏ hằn học ấy. Nó nhăm nhe lượn lờ ngoài cửa không vào, vì vẫn còn e ngại chậu nước trước cửa nhà và cây đòn gánh trong tay mẹ tôi.

Lúc ấy mẹ tôi đã sợ đến xanh mặt, chỉ trực ngất đi. Và trong tiếng gió bà có thể nghe thấy cái giọng khàn khàn như oán trách của bà già kia, cái âm thanh bằng tiếng dân tộc mà bà có thể hiểu được vài phần.

Đúng lúc này như được trời giúp, bố tôi ở đầu đường đang tha thẩn đi về, nghe thấy tiếng khóc rống ở nhà thì lập tức chạy như bay cầm dao xông đến. Nhìn thấy thứ sinh vật kinh khủng đứng lù lù trước nhà khiến bố tôi cũng hãi hùng. Ông thoáng chùn chân một chút, nhưng vì nghĩ đến vợ con, rồi máu đàn ông nổi lên. Ông cố nén sợ hãi xông đến cầm dao khua loạn, vừa khua vừa quát vừa hét lên để cho thứ vật kinh khủng kia sợ hãi mà bỏ đi.

Mẹ tôi thấy bố tôi về, cũng như lấy được thêm sự can đảm, cầm thanh đòn gánh trong tay cũng nhắm mắt nhắm mũi lao về phía thứ vật kia mà đập loạn lên.

Tận khi hai người nghe thấy tiếng tru réo sợ hãi, tiếng loạt xoạt vấp ngã ở sau lùm cây. Hai người mới dám mở mắt ra nhìn rõ xung quanh sự tình, lúc này cả hai mới thở dài nhẹ nhõm. Mẹ tôi ôm bố tôi mà khóc, vừa trách bố tôi là không tin bà, vừa trách vì sao bố tôi về muộn đến thế, về muộn hơn một chút nữa thì hai mẹ con đã…

Còn bố tôi thì sau đấy tin thật, và cũng rút kinh nghiệm là mỗi lần có việc đi xa, đều nhờ người sang ngủ trông nhà giúp. Hôm thì bà chị dâu, hôm thì là bà thím để cho nhà có tiếng người qua lại, con ma kia sợ sẽ không dám bén mảng đến.

Còn về bà già kia, mẹ tôi trong một lần đi chợ có gặp lại bà ta. Cũng không xa hôm xảy ra sự việc, bắt gặp ánh mắt mẹ tôi, bà ta tỏ ra rất sợ hãi. Mẹ tôi lơ đãng nhìn xuống chân bà ta, thì thấy bàn chân bà ta bị cắt cụt một mẩu và đi lại tập tiễng. Nhớ lại sự việc hôm ấy, sáng hôm sau bố tôi ra sau vườn kiểm tra, chỉ thấy một khúc chân chó trẳng rơi lại, nghĩ là của thứ thú vật hôm qua, nên bố tôi lập tức đem đi đốt ngay. Còn mẹ tôi lúc gặp bà già ở chợ, thì chỉ thở dài tặc lưỡi.

Sau này có người báo tin, bà ta đã bỏ đi xứ khác. Rồi thì dần dần anh tôi lớn, bố tôi cũng không còn đi bản nhiều nữa, cho nên mẹ tôi cũng bớt sợ, và những chuyện ly kỳ như vậy cũng có đôi lần xảy ra. Chỉ là xảy ra ở một gia đình khác, không phải gia đình tôi. Người ta cũng nghi ngờ cho bà già kia chính là thứ ác quỷ ám ảnh mình, nhưng không có căn cứ nên cứ để vậy. Đến khi bà ta biến mất, những chuyện kiểu như vậy mới thực sự chấm dứt.

Tôi kể câu chuyện này không phải là tào lao hay bịa đặt. Câu chuyện tôi kể lại, chỉ là một câu chuyện hồi nhỏ tôi được nghe mẹ kể lại, dẫu biết là hay hay dỡ, những cũng xin được kể lại cho mọi người bằng giọng kể của tôi. Còn về văn phong tôi không tốt, khiến chuyện kém hấp dẫn thì cũng xin được lượng thứ. Người đọc nếu thấy câu chuyện có yếu tố nào khúc mắc, có thể cho tôi một vài ý kiến. Nếu câu chuyện thành công, tôi xin mạn phép được đăng một vài câu chuyện hồi nhỏ tôi được nghe kể thêm nữa, để mọi người cùng được biết đến.

Ngạ Quỷ
 
Chương 10: Tản mạn dị sử


Năm ấy một triền sông Thượng bị lũ quét, quan Binh Bộ Thị Lang nhận lệnh Chúa đem quân binh đến giúp dân chống lũ.

Đêm đến bên bờ sông Thượng tụ tập đến mấy trăm người, hò nhau mà khuân đất đá chặn dòng.

Quan Binh Bộ Thị Lang cho lính tốt vòng qua con lũ lớn, lấy đất đá mà ghè ném xuống sông, được mấy chốc đất đá chèn kín. Chỗ hở đê được bịt kín, sớm hôm sau lũ rút không còn. Nhân dân lấy được làm mừng lắm, hò reo ca múa rộn vang. Quan Binh Bộ Thị Lang kiểm thấy đê không còn chỗ hở, lại bàn giao cho Lang Trung Lệnh ở lại xử lý công vụ đê điều. Còn mình thì tự thân hồi Phủ Chúa hoàn mệnh được giao.

Binh Bộ Thị Lang vừa rời khỏi sớm hôm trước, hôm sau đê lại vỡ, lũ lại tràn vào. Đêm ấy lũ quét dữ dội, cả triền sông Thượng chết đến mấy trăm mạng người.

Chúa biết chuyện liền cả giận, trách Binh Bộ Thị Lang lơi lỏng việc công, không hoàn thành chức trách. Khiển cho Thượng Thư Bộ Hình bắt vào lao ngục. Hẹn giờ Tý đem Binh Bộ Thị Lang ra trảm thị chúng.

Quan Thái Sư biết chuyện, liền can Chúa không nên chém Binh Bộ Thị Lang. Lại coi thấy tử vi Binh Bộ Thị Lang còn đang thịnh, nếu giết không được còn mang họa cho Chúa.

Chúa nghe thấy vậy càng giận:

“Lẽ nào ta không giết nổi cái loại vô năng ấy!”

Rồi vẫn sai Hình Bộ quyết chém chết Binh Bộ Thị Lang cho bằng được.

Đêm ấy bỗng Kinh Thành mưa lớn, nước ngập quá đầu gối. Lao Ngục ngập sâu dưới đất bị nước mưa ngập cả. Ngục tù chết đến mấy trăm người, sớm hôm sau Cai Ngục kiểm xác chết, lại không thấy xác Binh Bộ Thị Lang. Lại báo lên Phủ Chúa, Thái Sư biết tin liền hốt hoảng:

“Họa đến nơi rồi, Chúa còn không mau mau tìm cách tránh họa còn kịp đặng!”

Chúa vẫn mặc kệ chẳng thèm quan tâm.

Chuyện ấy sau này cũng gác lại không mấy ai để ý.

Lại nói Binh Bộ Thị Lang đêm ấy, trong Ngục tù tối tăm ẩm mốc, nước tràn vào ầm ầm. Binh Bộ Thị Lang sợ lắm, lại nghĩ trước sau cũng chết, đành than thở mà chờ đợi.

Bỗng thấy cả người bị ngập trong nước, lạ thường thay lại có thể thở được. Binh Bộ Thị Lang đang cảm thấy kì quái, lại thấy ẩn hiện trong làn nước có bóng người nam tử. Mặt mũi tuấn tú bất phàm, trên mép có hàm râu rậm trông rất phú quý.

Nam tử bước đến cúi mình mà nói:

“Ta là con của Hà Bá sông Thượng, quan nhân mấy ngày trước chặn đê ở sông Thượng mà chống lũ. Rủi hôm đó đê kín nhưng lại chặn mất đất cấm của Giao Long sông Thượng. Nó tức giận đến kêu phụ thân di rời đê điều, có điều phụ thân làm lơ không quản. Cuối cùng làm họa Giao Long phá đê, khiến quan nhân phải chịu ngục lao tù!”

Nam tử lại nói:

“Kiếp trước phụ thân cùng quan nhân có giao tình, nay thấy quan nhân gặp họa. Phụ thân không thể làm lơ không quản, khiển ta đến rước quan nhân đến Hà Bá Phủ lánh nạn!”

Binh Bộ Thị Lang mừng lắm, bèn theo nam tử kia ra khỏi tù ngục. Nam tử hóa phép biến thành một con trạch nhỏ, lại thu Binh Bộ Thị Lang vào trong bụng. Con trạch men theo lối nước lạch nhỏ, chui ra rãnh lớn, cuối cùng bơi hòa vào sông Thượng.

Được mấy chốc sau, Binh Bộ Thị Lang thấy mình xuất hiện ở một tòa điện phủ xa hoa. Lại thấy một lão bá tuổi khoảng sáu mươi râu tóc đen nhánh, bước ra niềm nở cười nói.

“Lão đây vẫn còn được gặp lại cố nhân vẫn còn may lắm!”

Từ bấy ở Hà Bá Phủ say sưa mấy ngày, lúc này Binh Bộ Thị Lang sực nhớ đến gia quyến, lại sợ Chúa cả giận mà bắt tội cả nhà. Bèn muốn cáo từ Hà Bá trở về chịu tội, Hà Bá biết tin lấy làm khuyên ngăn.

“Cố nhân mắc thù lớn với Chúa, lần này về chỉ có chết. Chi bằng để lão đây sai con trai đi đón lấy gia quyến cố nhân, sau này tìm đất phúc mà làm nơi cư ngụ!”

Binh Bộ Thị Lang mừng lắm bèn đồng ý. Con trai Hà Bá được tin liền lẻn về Kinh Thành, lẻn vào Thị Lang Phủ, đêm đấy đưa cả nhà mười mấy người của Binh Bộ Thị Lang đều biến mất cả.

Được đấy mấy năm, Chúa hoang dâm vô độ, chém giết vô cớ. Dân tình lấy làm bất bình lắm…

Binh Bộ Thượng Thư ở Hà Bá Phủ đã mấy năm, lại cả gia quyến đông đến mười mấy người, lấy làm ngại với Hà Bá, nhất quyết đòi đi cho bằng được.

Hà Bá biết không giữ được, liền đem miếng lân giáp bằng ngọc mà nói:

“Cố nhân lần này đi ắt được phúc, chỉ cần giữ lấy lân giáp này quanh người! Vận may đều tràn đầy, rủi làm mất miếng lân giáp, họa sát thân liền đến!”

Binh Bộ Thị Lang nhận lấy lân giáp mà cảm tạ, lại theo bụng trạch trở về.

Biết tin chúa hoang dâm vô độ, dân tình bất bình, sớm muốn làm loạn.

Binh Bộ Thị Lang còn hận chúa chém vô cớ năm ấy, lại liên hệ với gia binh dưới trướng lúc trước, tập hợp tư binh. Tụ tập được đến cả nghìn người, dân tình ủng hộ, theo Binh Bộ Thị Lang làm phản.

Binh Bộ Thị Lang đem đám thuộc hạ đánh vào Phủ Chúa, đêm ấy Phủ Chúa sáng rực, Chúa bị bắt đem ra giữa Kinh Thành mà bêu giữa dân chúng. Dân tình phẫn nộ, ném đá vào Chúa dữ tợn đến chảy cả máu đầu.

Đám thuộc hạ khuyên Thị Lang trung nên giết Chúa đi để ngừa hậu họa mà tự lập làm vương.

Chúa lúc này lại nghĩ đến lời khuyên của quan Thái Sư, bèn hối hận lắm, van xin thề thốt với Thị Lang trung. Thị Lang trung mủi lòng bèn tha, lại cho về Phủ Chúa. Nghĩ đạo quân thần giết vua là tội lớn, lại cho rằng lần này răn Chúa là có thể sửa đổi.

Lại lập Chúa lên tôn làm chủ, rồi tự mình nắm giữ binh quyền trong tay. Nghĩ như vậy có thể bình an, lại không phạm đạo làm tôi.

Chúa về phủ thoát chết trong gang tấc, vừa mừng vừa sợ. Nhưng trong lòng lại càng thù Binh Bộ Thị Lang hơn, lúc ấy rắp tâm tính kế muốn hại Binh Bộ Thị Lang.

Dưới trướng Chúa còn nhiều thủ hạ, Binh Bộ Thị Lang muốn quản cũng không quản nổi. Nhưng Binh Bộ Thị Lang lại nắm giữ binh quyền, cho nên cũng không sợ đám thuộc hạ Phủ Chúa.

Chúa lấy đó làm gốc, rắp tâm âm mưu muốn giết Binh Bộ Thị Lang.

Nhưng mà mấy lần cùng đám thuộc hạ bày mưu, đều bị Binh Bộ Thị Lang phát hiện, cuối cùng mưu kế đều hỏng. Mà đám thuộc hạ của Chúa cũng đều chết hết, Chúa không còn nơi bám víu, kể từ ấy mới yên phận.

Được mấy năm trong nước đều yên ổn, dân tình khấm khá. Quan Binh Bộ Thị Lang đi đâu cũng được dân quý, lại được dân chúng lập Miếu thờ phụng như thần như phật sống. Quan vượt mặt Chúa, cả nước chỉ biết đến quan chứ không còn biết đến Chúa nữa.

Nghĩ lúc này đã hết hiểm họa, Binh Bộ Thị Lang đến triền sông Thượng mà cảm tạ làm lễ với Hà Bá. Lại đem miếng lân giáp lúc trước ra triền sông mà dâng hai tay nói lớn:

“Nhờ có lân giáp của Hà Bá mà dân Nam ta sống yên ổn, nay không chỉ dân tình khấm khá, mà gia hương cũng đều được may mắn. Chúa yên phận sửa đổi, tôi giữ đạo quân thần thật may mắn lắm thay!”

Nói rồi lạy tạ ba lần, lại cất lân giáp vào trong túi ngực trân trọng như báu vật.

Chúa biết tin liền cả mừng, rắp tâm muốn trộm lân giáp của Binh Bộ Thị Lang.

Lại khiển người thiếp xinh đẹp quấn lấy Binh Bộ Thị Lang mê hoặc, có điều Binh Bộ Thị Lang không ham nữ sắc nên liền nạt lại Chúa mắng thậm tệ. Chúa nấy làm nhục lắm, nhưng biết Binh Bộ Thị Lang còn lân phiến thì còn không thể làm gì.

Được nhiều năm qua đi, Binh Bộ Thị Lang cũng quên mất chuyện lân phiến. Cùng gia quyến ngao du đất Bắc, khi trở về thì phát hiện lân phiến đã mất. Quan liền hoảng hốt sai gia nhân đi tìm, nhưng mà đều tìm không thấy. Lại nghĩ lần phiến đã mất họa liền tới, Hà Bá là phận Tiên Nhân tuyệt sẽ không dối gạt.

Lúc này trong nước hiểm họa chỉ có mỗi Phủ Chúa. Binh Bộ Thị Lang sai quan binh đến ép Chúa thoái vị, Chúa dùng dằng không chịu. Quan lại kéo thê thiếp phủ Chúa ra mà làm nhục, quân thần thấy vậy tức thay cho Chúa.

Lại vì chuyện lân giáp bị mất, Binh Bộ Thị Lang sinh ra chán nản, cáu giận vô cớ, nhiều lần đánh đám thuộc hạ không ra cái gì.

Có hôm tên Thuộc Tướng của Binh Bộ Thị Lang uống rượu say, lại hát ca ngợi Chúa có công lớn. Binh Bộ Thị Lang nghe thấy liền giận sôi máu, đem gậy gộc mà đánh Thuộc Tướng thừa sống thiếu chết.

Thuộc Tướng tức lắm, lại mưu hùa về phe với Chúa. Đêm ấy Binh Bộ Thị Lang ngủ say, Thuộc Tướng nhân cơ hội mà cắt mất đầu, lại tôn Chúa lên làm chủ nắm giữ binh quyền.

Chúa có lại được thực quyền, liền đem gia quyến Binh Bộ Thị Lang mấy chục người giết sạch. Lại đem xác thịt nghiền thành bột vụng đi cho súc vật ăn.

Dân Nam lại nháo nhào bạo loạn, Chúa tại vị, hoang dâm vô độ như xưa, người người lại oán thán…

….

Đây truyện có thể cho thấy, người không vì một miếng lân giáp mà thịnh mà suy. Lân giáp ở đây chính là lòng người, Hà Bá khi nói cũng đều có ngụ ý, còn lòng người là còn lân giáp ấy, mất lòng người là lân giáp cũng chẳng còn. Binh Bộ Thị Lang ỷ lại vào lân giáp, đến lúc không còn chỗ bấu víu, lại tự mình đi vào họa sát thân, âu cũng đều là số phận.

Lại nói về Chúa, phàm là con người bản tính đều khó thay đổi. Binh Bộ Thị Lang biết lòng người khó đổi vẫn cố chấp giữ mạng Chúa, nhưng lại vô lễ thực cũng chẳng khác gì đi ngược đạo quân thần. Cuối cùng cho dù còn lân giáp hay không cũng đều có thể mất mạng…

Ngạ Quỷ
 
Chương 11: Bức họa treo trên tường


(Truyện ngắn nằm trong series “Sống Bên Rừng Bia Mộ” của tác giả Ngạ Quỷ)

Liệu trầm ngâm ngồi một lúc trước ngôi mộ mọc đầy rong rêu. Đôi mắt anh lơ đãng nhìn xung quanh trời mây, nhìn lại không gian tịch mịch lúc này. Đời người thật sự đã trải qua quá nhiều số phận, cũng như quá nhiều nhịp điệu khiến người ta phải suy tư.

Về chuyện đời của cô gái đã chết dưới nấm mồ kia, một phần có thể là do sự cả tin đến mức ngu dốt của chàng trai đó, cũng một phần là do sự mù quáng trong cuộc tình của cô ta.

Kết thúc câu chuyện về nấm mồ mọc đầy rong rêu. Ông Trịnh lại đứng lên, tiếp tục đi đến trước một nấm mồ khác. Nấm mồ mới này hoàn toàn tách biệt với những nấm mồ còn lại. Nó được nghiễm nhiên nằm riêng một chỗ trong khu nghĩa trang. Nấm mồ gần nhất với nó, có lẽ cũng phải đến cả chục mét.

Nấm mồ này cỏ mọc đầy um tùm, giống hệt như một nấm mồ hoang không có bất cứ người nào chăm sóc từ lâu lắm vậy.

Lão Trịnh bước tới gần ngôi mộ, giơ đôi bàn tay gầy guộc của mình nhổ một vài cái cây dại cao ngất ngưởng, để lộ ra nấm mồ bên trong.

Ông ta nhổ xong đám cây dại thì lại ngồi bệt xuống đất, ngồi trỏ tay vào nấm mộ và nói:

- Người chết ở nấm mồ này cũng có một cái chết hết sức bất đắc dĩ, một cái chết phải dùng tính mạng để đánh đổi. Nếu chủ nhân của ngôi mộ này không chết, có lẽ sẽ có rất nhiều người phải bỏ mạng vì thứ được chôn cùng anh ta.

Liệu quay sang nhìn lão Trịnh rồi hỏi:

- Chủ nhân của nấm mồ này là người như thế nào hả bác?

Lão Trịnh ngửa đầu nhìn lên trời một lúc, ngẫm nghĩ rất lâu rồi mới nói:

- Tôi cũng không nhớ rõ ràng lắm, người này chết cũng đã lâu rồi. Về công việc khi anh ta còn sống thì tôi không rõ, nhưng về tính cách của anh ta thì tôi cho rằng anh ta là một người rất tốt, là một người theo chủ nghĩa anh hùng đúng nghĩa.

Liệu ngồi nghe ông Trịnh nói rất nghiêm túc, anh ngồi yên vị tại đó tiếp tục chờ đợi câu chuyện đời của người này sẽ được ông Trịnh hé lộ.

Ông Trịnh nói:

- Trước khi anh ta chết, anh ta có để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nói rằng hãy chôn anh ta cùng với thứ đó, để cho cơn ác mộng ấy sẽ vĩnh viễn chấm dứt.

Liệu hỏi:

- Trước khi chết anh ta có gặp ông ư?

Lão Trịnh gật đầu nói:

- Không những có gặp tôi. Mà anh ta… còn chết trước mặt tôi.

Liệu tròn mắt, hai mắt mở to hơi kinh ngạc. Nói như vậy, là người nằm dưới nấm mồ này đã tự sát trước mặt lão Trịnh. Chuyện gì đã xảy ra, lại có thể khiến cho con người ta rơi vào bước đường cùng như thế?

Liệu chăm chú nhìn lão Trịnh, chờ đợi câu trả lời thỏa đáng.

Lão Trịnh ngừng lại một chút, rồi bắt đầu nhớ lại câu chuyện xưa. Câu chuyện được ghi lại trong lá thư tuyệt mệnh của người nằm dưới huyệt mộ này. Câu chuyện về một bức tranh…



Hà Dương Cầm là một họa sĩ nổi tiếng và dành được rất nhiều lời ca tụng trong giới nhà nghề. Những bức tranh của anh vẽ thường là những bức tranh trìu tượng, đôi khi rất khó hiểu về nhiều mặt. Nhưng nếu như người ta có thể suy ngẫm ra vẻ đẹp trong đó, biết ngắm nhìn theo một chiều rất riêng thì những bức tranh đó là độc nhất vô nhị.

Thế nhưng, số mệnh đã không mỉm cười với anh bởi cuộc sống của anh cũng rất ngắn ngủi. Khi anh vừa hoàn thành xong một tác phẩm được cho là vĩ đại nhất cuộc đời mình thì anh cũng đã chết.

Anh chết bất đắc kỳ tử với khuôn mặt thảng thốt ngạc nhiên. Người ta thấy anh ngã gục trước bức tranh của mình và bàn tay thì lại xòe ra hai ngón tay tự đặt lên mặt như muốn móc mắt.

Họa sĩ vang danh Hà Dương Cầm đã chết, tin tức này vừa mới xuất hiện đã lập tức làm trấn động giới nghệ thuật. Bức tranh cuối cùng của Hà Dương Cầm được cho là tác phẩm đắt giá nhất mọi thời đại và được gia đình anh ta đem bán đấu giá ngay sau đó.

Một mức giá cao kỉ lục đã được trả cho bức tranh của một họa sĩ người Việt. Hơn mười triệu đô la cho một bức tranh nghệ thuật của Hà Dương Cầm, và nó được một người Việt kiều mới từ Mỹ chuyển hẳn về Việt Nam định cư đã mua lại.

Mặc dù bức tranh đã được bán đấu giá và có người mua lại thành công. Thế nhưng vẫn có không ít người muốn săn tìm bức tranh, như một loại sở thích khám phá. Có không ít người muốn được ngắm nhìn bức tranh cuối cùng của Hà Dương Cầm, để xem rốt cuộc trong bức tranh nghệ thuật đó cuối cùng là ẩn chứa bí mật gì mà lại có thể khiến họa sĩ Hà Dương Cầm phải kinh ngạc đến chết đi như vậy?

Dẫu vậy, kể từ khi người sở hữu bức tranh bán đấu giá đó tại buổi đấu giá lại cũng là lần chót. Người ta không thể tìm được danh tính ông ta, cũng như nơi bức tranh tọa lạc.

Sự việc cứ như vậy, như đã sắp chìm vào quên lãng của tất cả. Nhiều người đã cho rằng bức tranh cuối cùng của Hà Dương Cầm kia sẽ không bao giờ có thể được chiêm ngưỡng một lần nữa.

Nhưng không, hai năm sau bức tranh ấy đã xuất hiện trở lại.

Lần này người ta cũng nghe thấy thứ tin tức hệt như lần trước. Chủ nhân của bức tranh ấy đã chết, một cái chết bất đắc kỳ tử vì hoảng sợ, vì chứng nhồi máu cơ tim hệt như cố họa sĩ Hà Dương Cầm khi trước. Khi người ta phát hiện ra cái xác của ông ta, người ta thấy ông ta dường như cũng đang cố tình muốn móc đôi mắt của mình ra để không muốn nhìn thấy một thứ gì đó thì phải.

Bức tranh một lần nữa xuất hiện trước công chúng, và lần này lại tiếp tục được đem đi bán đấu giá.

Với hai cố sự xảy hy hữu đối với những chủ nhân trước đây của nó, càng đẩy mức giá của bức tranh cao hơn bao giờ hết. Một mức giá hai mươi lăm triệu đô la cho một bức tranh đã được đưa ra. Người ta chưa từng thấy một bức tranh nào của một họa sỹ gốc Việt lại có giá cao kỉ lục đến như vậy.

Tiếp tục với những chuyện xảy ra như lần trước, chủ nhân tiếp theo của bức tranh cũng có số phận không khác gì hai người trước đó. Ông ta cũng chỉ sống ẩn mình trong hai năm cùng với bức tranh, rồi lăn ra chết với cái chết tương tự.

Điều này làm dấy lên sự nghi ngại và bản tính tò mò ngày càng thôi thúc của nhiều người. Bức tranh đó đến tột cùng là ẩn chứa bí mật gì?

Trong khi dư luận đang xôn xao vì một chuyện như thế, thì lúc này nhà nước cũng vào cuộc. Một vụ việc liên quan đến duy nhất một bức tranh, đã kéo theo lần lượt ba mạng người chết đặt ra một giấu hỏi cực lớn. Nhà chức trách cho rằng liệu có khi nào có một kẻ sát hại cả ba mạng người theo cùng một thủ đoạn. Họ không tin cái việc người ta chỉ nhìn một bức tranh rồi lăn ra để chết. Đó là một sự lý giải hết sức ngu xuẩn và chỉ những kẻ ấu trĩ với lối suy nghĩ nông cạn, những kẻ cuồng tranh hoặc mê tín đến phát điên mới có thể nghĩ đến việc ấy là do hoảng sợ mà thành.

Một chuyên án điều tra được thành lập, do Hoàng Xuân Danh phụ trách. Danh có trách nhiệm truy tìm đầu mối, và khoanh vùng các sự kiện liên quan đến tất cả ba nạn nhân. Tìm kiếm khả năng khả nghi có xuất hiện để ra tay hãm hại cả ba người.

Liệu có khi nào, hung thủ chính là một kẻ mê tranh nhưng hắn lại không muốn bức tranh đó được sở hữu bởi một người nào khác mà không phải hắn nên mới giết các nạn nhân? Nhưng câu hỏi đó nhanh chóng bị Danh phủ nhận, bởi nếu hung thủ yêu thích tranh như thế, hắn nên giết nạn nhân xong rồi cuỗm luôn bức tranh đi mới đúng. Vậy tại sao hắn còn để bức tranh lại?

Danh suy nghĩ đến vấn đề này, liền đặt ra một hướng suy luận gắt gao. Rất có thể là do hắn muốn ngụy tạo những cái chết theo lẽ tự nhiên để nhà chức trách không thể tìm ra manh mối, chỉ cho rằng đây là một vụ án đột tử. Rồi hắn sẽ tìm cách để lấy lại bức tranh theo một con đường chính thống hơn. Đây chính là luận điểm mà Danh nhất quyết bám chặt vào, để suy luận con đường tiếp theo tìm ra hung thủ.

Trong khi chuyên án điều tra mới được thành lập. Thì lại một lần nữa bức tranh kia được đem ra công bố đấu giá.

Nhưng lần này, khác hẳn với mọi lần trước. Người ta chưa kịp trả tiền để sở hữu bức tranh thì bức tranh đã hoàn toàn biến mất… vĩnh viễn.

Một sự mất tích hết sức kỳ lạ, không ai là chủ nhân của nó. Cũng chẳng ai sở hữu được nó, vậy bức tranh đã đi về đâu? Nó bị mất cắp ư? Vậy tên kẻ cắp là ai mà lại có thể lọt qua hàng trăm nhân viên an ninh trong buổi đấu giá, để khiến cho bức tranh biến mất ngay trước khi chiếc búa định giá cuối cùng gõ xuống?

Sự kiện lần này càng khiến bức tranh kia được ngụy tạo thêm nhiều câu chuyện thêu dệt huyền bí. Rằng liệu có khi nào đó là một bức tranh thành tinh, một bức tranh sát chủ vì không muốn giết thêm mạng người nên đã tự động biến mất.

Thay vào đó, người cuối cùng ra giá lại ngồi đó chưng hửng ngỡ ngàng, vì cứ lầm tưởng rằng bức tranh sắp được rơi vào tay mình, để một lần nữa mình có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp nghệ thuật của nó.

Sau khi bức tranh mất tích, vụ án trở thành một giấu hỏi lớn và bị bỏ ngỏ không thể tìm ra câu trả lời.

Danh cũng đành phải tạm gác lại sự điều tra, cùng với chuyên án ba mạng người chết vì không thể tìm ra manh mối nào liên quan.

Bởi cả ba nạn nhân đều sinh sống một mình, và không hề có mối thù hằn cũng như xích mích nào với ai. Khoảng thời gian từ khi sở hữu bức tranh cho đến khi họ chết đi đều rất hạn chết giao du với người khác, chuyên án đi vào bế tắc và đành phải khép lại.



Hai năm sau.

Danh bước đi lững thững trên con phố vắng. Trong đêm tối sương lạnh, chợt anh phát hiện ra có một bóng người phụ nữ đang lướt đi như bay trong màn đêm. Cái dáng người cô ta nom sao mỏng manh yểu điệu nhưng lại xinh đẹp lạ kỳ.

Người phụ nữ đó cứ tỏ vẻ lén la lén lút, nhìn ngang nhìn dọc như đang sợ ai đó phát hiện ra vậy. Điều đó khiến cho Danh hết sức lưu ý và cho rằng cô ta đang thực hiện một hành vi xấu xa phạm tội nào đó mà không muốn bị người khác phát hiện, trực giác mách bảo cho Danh biết, rất có thể cô ta sẽ thực hiện một hành động vi phạm luật pháp.

Danh bám theo cô ta sát nút không rời từ lúc đó. Và từ khi anh bám theo cô ta, cô ta dường như cũng không hề biết rằng kể từ lúc nào đã luôn có một người đi theo sát mình như vậy. Cô ta cứ đi vừa nhìn ngang nhìn dọc mà không chút cảm giác nào đối với một người lấp ló trốn tránh bám đuổi cô ta.

Danh cứ bám theo sau cô ta cho đến khi cô ta dừng lại trước một căn nhà và lén lút đi vào trong đó. Cửa căn nhà không hề đóng lại, cẩn trọng thêm một chút Danh nhìn ngó xung quanh rồi lẻn vào theo.

Vào tới nơi, anh tiếp tục bước theo lối hành lang mà cô gái vừa mới đi vào. Bóng dáng cô ta vẫn đang lẩn khuất ở phía trước và chẳng thể nào rời khỏi mắt của Danh được.

Nhưng đi thêm chừng năm mét nữa thôi, thì đột nhiên bóng dang của cô ta biến mất khiến Danh hơi hoảng. Anh vẫn cố gắng trấn tĩnh lại, cuối hành lang này là một con đường cụt. Vậy cô gái đó cuối cùng đã biến đi đâu mất?

Không kịp trả lời cho câu hỏi đó, thì trước mắt Danh lại xuất hiện một thứ khiến anh phải há hốc miệng nói ngắt quãng:

- Bức… tranh…

Phải, nó chính là bức tranh đã làm xôn xao dư luận nhiều năm qua. Chính là bức tranh hết sức huyền bí đã mất tích của Hoàng Dương Cầm.

Danh cảm thấy rất ngạc nhiên là vì sao nó lại ở đây? Vì sao nó lại nằm trong căn nhà này của người phụ nữ kia? Người phụ nữ kia đã biến đi đâu mất?

Không chờ cho mình kịp trả lời những câu hỏi, theo kinh nghiệm trinh sát của mình. Ngay khi đã phát hiện ra manh mối, để cho an toàn và tránh bứt dây động rừng. Danh lùi lại phía sau, thoát khỏi lối hành lang và ra khỏi căn nhà.

Sau khi ra ngoài xong, Danh tận dụng ghi nhớ thật kĩ hình dáng của căn nhà, bao gồm địa chỉ, kiến trúc cùng cảnh quan xung quanh, không bỏ sót một thứ nào.

Khi trở về sở cảnh sát, Danh quyết định không nói sự việc này cho ai biết và tự mình điều tra trước.

Anh lên kế hoạch tiếp cận với cô gái kia, và thử tìm hiểu xem tại sao cô ta lại có được bức tranh. Và liệu rằng cô ta có phải là hung thủ sát nhân ba mạng người trước đó để cướp đi bức tranh hay không?

Đặt ra kế hoạch xong, ngay ngày hôm sau, Danh đã dựa theo trí nhớ để quay lại chốn cũ.

Vẫn là căn nhà đó, vẫn là một căn biệt thự sang trọng kiểu cổ điển của người pháp. Nó nằm trong một khu phố vắng ngay gần một cái nghĩa trang, và xung quanh nó thì không còn bất cứ căn nhà nào khác.

Căn nhà dường như đã lâu rồi không có người chăm sóc, xung quanh lá cây rơi rụng đầy sân cỏ. Lại thêm những mảng sơn tường vôi vữa cũng đã rụng lả tả bởi sức bào mòn của thời gian.

Khung cảnh ban ngày của ngôi nhà hết sức khác biệt so với ban đêm, nó giống như việc một cái bóng đèn đang bật hay tắt vậy. Đêm qua khi anh nhìn thấy căn nhà thì chỉ thấy nó có một vẻ âm u lạ kỳ, nhưng sáng nay thôi thì anh lại thấy nó hết sức đẹp đẽ và rực rỡ.

Danh bước tới gần căn nhà, và bắt đầu giơ tay lên gõ nhè nhẹ vào cánh cửa gỗ của căn nhà ba lần.

Tiếp theo, anh lẳng lặng đứng đó chờ đợi. Nhưng chẳng có tiếng trả lời, cũng không hề có âm thanh nào phát ra từ sau cánh cửa gỗ ấy. Nó vẫn im lìm.

Chờ cho thêm một lúc nữa không hề có động tĩnh gì, Danh lại chuẩn bị tiếp tục gõ cửa. Thì lần này cánh cửa đã kịp mở ra, nhưng Danh không hề thấy người đâu. Chỉ có một giọng nói vọng ra ngoài:

- Anh có chuyện gì? Muốn tìm ai?

Danh hơi thẫn người ngạc nhiên, vì không biết mình đang đối đáp với ai. Nhưng đêm qua, trước khi anh tới đây thì anh đã nghĩ ra đủ mọi lý do thuyết phục, và nhiều bằng cớ để có thể tiếp cận người phụ nữ này.

Anh chỉnh trang lại trang phục một chút rồi hắng giọng nói:

- Chào cô! Tôi là một người rất yêu thích nhà cổ, kiến trúc của căn nhà này rất đẹp. Tôi muốn mua lại nó, không biết cô…

Nhưng chưa chờ cho Danh nói xong, bên trong đã lập tức có giọng nói phát ra rất nhanh chóng dứt khoát:

- Không bán!

Danh hơi ngẩn người, đến bước này thì anh cũng chưa tính được là mình mới nói một câu mà cô ta đã dùng giọng đuổi khách như vậy, e là hơi bất lịch sự. Nhưng anh vẫn hết sức tự tin sẽ có thể đốn gục bức tường tự vệ của cô ta.

Chưa nói về chuyện Danh tiếp cận cô ta với mục đích gì. Nhưng chỉ nói riêng về ngoại hình của Danh, cũng như tài năng của anh, thì trước đây trong học viện cảnh sát. Đã có không ít nữ công an xinh đẹp phải chết mê chết mệt anh. Thậm chí có vài lần Danh còn bị các cô nàng tỏ tình giữa sân trường. Những chuyện như thế Danh gặp phải rất nhiều. Sau này bắt đầu công tác ở đơn vị, cũng có không ít những cô gái xinh đẹp khác bám đuổi quanh Danh, nhưng anh vẫn chưa hề ưng thuận một người nào.

Danh tự cho mình là một người cao quý, và để lựa chọn người anh có thể phát triển tình cảm thì dĩ nhiên cũng phải có tố chất hơn người.

Mặc dù cô gái này Danh chưa hề nhìn thấy mặt mũi, mới chỉ nghe thấy giọng nói. Nhưng cũng đoán là thân hình cô ta không quá tệ. Mà tệ cũng không sao, xấu một chút âu lại càng dễ dàng tiếp cận hơn.

Trước khi đến đây Danh đã tính kỹ hai phương án. Một là nếu như cô ta đồng ý bán lại căn nhà, Danh sẽ lựa vào lý do đó để chính thống dò hỏi mọi động tĩnh của cô ta, về cả lai lịch của bức tranh. Hai là nếu như cô ta không đồng ý, thì Danh sẽ lập tức chuyển sang kế hoạch B là xin vào tham quan căn nhà và tán tỉnh cô ta.

Cả hai cách này, cách nào cũng đều có thể tiếp cận người phụ nữ đó để điều tra, cái này gọi là nam nhân kế.

Suy tính mọi điều trong đầu xong, Danh lại tiếp tục cất giọng tỏ vẻ khẩn thiết nói:

- Thôi được, nếu như cô không có ý định ấy thì có thể cho tôi xin vào tham quan căn nhà này một chút được không? Tôi rất yêu thích lối kiến trúc nhà cổ, và muốn tái hiện xây dựng nhiều lối kiến trúc đó ở một nơi khác.

Danh nói xong, liền bất động đứng yên một chỗ chờ đợi.

Rất lâu sau mới có âm thanh đáp lại:

- Được rồi, anh có thể vào!

Cô gái đồng ý để cho Danh vào, với một giọng điệu cũng chẳng vui vẻ gì.

Danh hứng thú dạt dào, gật đầu khoan thai bước vào trong với bước đi rất lịch thiệp của một quý ông.

Vào tới nơi, anh thấy đèn điện trong nhà đã được bật lên sẵn. Một cô gái hết sức xinh đẹp với cặp mũi cao, đôi mắt to long lanh và cặp môi rất quyến rũ đang nâng ly rượu vang nhìn anh đầy khiêu khích.

Danh hơi nghiêng đầu, tỏ vẻ chào hỏi. Rồi tiến tới gần, không chờ cô ta mời ta tự tiện ngồi xuống nói chuyện. Anh ta nói:

- Tôi không ngờ chủ nhân của căn nhà này lại là một người phụ nữ xinh đẹp và trẻ trung đến như vậy.

Cô gái cũng hơi nghiêng đầu đáp lại, cô nói:

- Tuổi tác không hề nói nên sự thành công.

Rồi cô ta hất cằm, hướng trỏ về phía bức tranh treo trên tường ở phía cuối hành lang. Bức tranh ấy lộ ra ở đằng sau khung cửa sổ. Cô ta lại nói tiếp:

- Anh biết người vẽ ra bức tranh đó chứ? Anh ta cũng còn rất trẻ trung…

Danh giả bộ hơi ngạc nhiên, anh chậm rãi quay đầu lại nhìn về phía bức tranh như nhìn thấy nó lần đầu tiên vậy. Anh khẽ khàng thốt lên:

- Ồ, trong đời tôi chưa bao giờ có thể nhìn thấy bức tranh nào đẹp đến như thế!

Sắc mặt cô gái khẽ trầm xuống, cô hơi tỏ vẻ căng thẳng và hỏi Danh:

- Anh hiểu hết những thứ mà bức tranh diễn tả chứ? Anh có thể nhìn thấy hết mọi vấn đề trong đó chứ?

Danh vẫn cứ chăm chú nhìn bức tranh, và không biết rằng từ khi nào trong mắt của cô gái đã lộ rõ ra một luồng sát ý như muốn ăn tươi nuốt sống Danh nếu như anh không thể trả lời hợp với ý định của cô ta.

Danh hơi nghiêng đầu, rồi quay lại nhìn cô gái. Khi này khuôn mặt cô ta đã chuyển sang nụ cười, giấu đi vẻ mặt muốn giết người vừa rồi, một khuôn mặt hết sức quyến rũ nhìn Danh.

Danh vui vẻ trả lời đáp lại:

- Bức tranh này rất đẹp, nhưng có lẽ nó ẩn chứa quá nhiều bí mật cao siêu rồi! Tôi không thể nhìn ra được hết vấn đề trong đó, người vẽ ra bức tranh này quả thật là một thiên tài.

Cô gái hơi nhếch miệng cười, ngón tay trỏ hơi vân về làn môi đỏ gợi cảm của mình. Cô nói:

- Phải, để hiểu được bức tranh ấy, cho dù là người sành nghệ thuật như thế nào đi chăng nữa. Cũng phải mất tối thiểu hai năm thì mới có thể hiểu được bức tranh đó ẩn chứa vấn đề gì.

Danh tỏ vẻ cực kỳ hứng thú, anh nói:

- Ồ, vậy với người không dành về nghệ thuật thì sao?

Cô gái vẫn cười, nụ cười như lẳng lặng sát khí. Trong đôi mắt cô dần ánh nên sự quyết liệt. Cô đáp lời:

- Cũng chỉ mất chừng hai năm, với sự trợ giúp của tôi!

Cô gái nói đến đây, Danh liền có cảm giác thỏa ý. Mấu chốt mọi vấn đề của vụ việc dường như đang được dần lộ ra sau bức màn đây rồi. Cô gái này, chắc chắn có liên quan đến thứ bí mật của bức tranh kia. Và không gì hơn hết, cô ta rất có thể là hung thủ hại chết người.

Danh nhìn cô gái một lúc rồi nói với vẻ lịch sự:

- Cô thật là một người xinh đẹp, tôi muốn nhìn ngắm cô thêm nhiều nữa. Và cũng xin phép được lui tới đây thêm nhiều lần để nhìn ngắm bức tranh kia, mong cô cho phép.

Cô gái suy nghĩ một lúc, hai hàng lông mày của cô hơi cau lại. Không phải vì một lời đề nghị đường đột của một người đàn ông xa lạ khiến cô lo lắng, mà là vì cô lo lắng về hành động của mình đối với anh ta liệu rằng có quá vội vàng hay không.

Danh chờ đợi mãi mà vẫn thấy cô ta trầm ngâm suy nghĩ. Bèn ra chiều nhắc khéo đến mấy lần cho cô ta hiểu.

Nhắc đi nhắc lại đến lần thứ ba, cuối cùng cô ta dường như cũng từ trong mơ hồ tỉnh lại. Cô ta nhoẻn miệng cười đáp ý:

- Được rồi, tôi đồng ý! Nhưng để cho tiện, vẫn xin mời anh hãy đến buổi tối. Vì ban ngày thì tôi không thường xuyên ở nhà.

Cô gái nói xong liền nháy mắt cho Danh một cái với đầy sự khiêu gợi và vẻ khiêu khích một anh chàng lính chiến, rằng anh hãy bắt đầu xông vào chiến trường đi thôi.

Danh gật đầu, lịch thiệp chào cô gái:

- Vậy thì tôi xin phép, nếu được thì tối mai tôi sẽ quay trở lại. Phiền cô giúp đỡ tôi lý giải bức tranh, nếu được thì cho tôi xin phép mời cô những bữa tối để đền đáp lại tấm thịnh tình ấy.

Cô gái chậm rãi suy nghĩ một chút, rồi lắc đầu trả lời nói:

- Không cần, anh tới đây xem tranh là tôi vui rồi. Hiếm khi nào lại có người cùng chung sở thích. Tôi không thích ra ngoài, anh cứ đến đây rồi chúng ta sẽ cùng ăn tối. Tôi sẽ chuẩn bị sẵn mọi thứ để thết đãi anh.

Danh vui mừng nói:

- Vậy được, chào cô!

Nói xong anh quay đầu đi ra khỏi căn nhà. Khi anh vừa mới ra khỏi đến nơi thì cánh cửa gỗ cũng đóng sầm lại.

Qua cuộc trò chuyện lần đầu tiên này với cô ta, Danh có cảm giác như mình vừa trải qua một hương vị mật ngọt gì đó mà từ trước đến nay anh chưa từng nếm trải vậy.

Trở về sở cảnh sát, Danh lại tiếp tục sưu tầm tất cả những thứ tư liệu liên quan đến việc tham nghiệm về một bức tranh nghệ thuật là như thế nào.

Trong cuộc trò chuyện với cô gái, anh tỏ vẻ rất hứng thú với bức tranh, vậy nên trong cuộc gặp gỡ tiếp theo. Anh vẫn cần phải chuẩn bị một chút để tự cho mình là người có nghề, có như vậy thì cuộc nói chuyện mới thuận lợi và tự nhiên, khiến cô ta không hề nghi ngờ gì về việc anh điều tra cô ta.

Buổi tối ngày tiếp theo. Danh lại xuất hiện trước căn nhà đó, và trên tay không quên cầm một bó hoa hồng được bày biện hết sức đẹp mắt.

Khi đến ăn tối ở một ngôi nhà, thì tốt hơn hết vẫn nên có một món quà nào đó kèm theo để tặng chủ nhà. Chuyện này Danh nghĩ rất phù hợp với cô gái sống trong căn nhà kiểu cổ theo lối kiến trúc châu âu này. Chắc cô ta sẽ thích những điều mà Danh làm.

Anh giơ bàn tay lên trước cánh cửa gỗ, và lần này lại tiếp tục gõ thêm ba tiếng gõ cửa đều đặn.

Hệt như lần trước, cũng phải rất lâu sau thì anh mới thấy cánh cửa mở ra.

Lần này Danh thấy cô gái đã xuất hiện ngay trước mặt mình, hiển nhiên là không hề giống như lần trước anh gặp cô ta giả thần lộng quỷ khiến Danh suýt nữa thì mất hết hồn vía.

Cô ta nhìn Danh rồi lại nở nụ cười quyến rũ nói:

- Mời anh vào đi!

Danh hơi cúi đầu, rồi lịch thiệp đem bó hoa với tư thế thẳng đứng cánh tay, và khuỷu tay hơi chếch lên một chút. Đưa bó hoa sát gần đến gương mặt cô để cho hương thơm ngào ngạt tỏa ra.

Anh nói với giọng điệu hết sức ngọt ngào nói:

- Tặng cô, người thầy nghệ thuật đáng kính sắp tới của tôi!

Cô gái tỏ vẻ rất hạnh phúc, cô nhận lấy bó hoa rồi mau chóng cất nó đi cắm vào một chiếc bình và cẩn trọng ngắm nghía.

Cả hai bắt đầu bữa tối với không khí hết sức lãng mạn, kèm theo đó là những chủ đề nóng bỏng xoay quanh vấn đề nghệ thuật.

Từ đó, Danh bắt đầu tiếp cận được cô gái và ngày ngày được trò chuyện với cô ta. Càng ngày càng hiểu thêm sâu sắc về bức tranh treo trên tường.

Những bức màn sau đó cũng dần dần được hé lộ. Nhưng đó cũng không phải là chuyện Danh cảm thấy hoảng sợ nhất. Mà thứ khiến anh hoảng sợ nhất là sự trấn tĩnh của mình trước cô gái cứ dần biến mất theo thời gian. Và rằng anh chàng cao giá Hoàng Xuân Danh đã phải chịu khuất phục trước ngưỡng cửa ngọt ngào của người phụ nữ, trước những cám giỗ đầy mật ngọt của cô ta. Anh đã yêu cô ta mất rồi…

Thấm thoắt đã trôi qua một năm trời từ khi Danh thường xuyên lui tới đây. Anh cảm giác như nơi này hết sức thân thuộc, giống như một căn nhà thứ hai của mình vậy. Cả người phụ nữ kia tương tự cũng như thế, cô ta giống như một người vợ hiền thục hết sức ngọt ngào. Mà bất cứ khi nào Danh có mặt, cảm xúc của cô ấy cũng hệt vẹn nguyên như lúc thuở ban đầu.

Hôm nay, Danh lại đứng trước bực cửa của căn nhà, khi anh vừa giơ bàn tay lên để gõ cửa thì lập tức cánh cửa đã tự động mở ra.

Vẫn là cô gái ấy, vẫn giống như một năm trước với vẻ trầm tĩnh như nước. Với cái vẻ gần gũi mà như xa lạ không chút nào thay đổi. Chính tính cách ấy của cô ta, lại càng khiến Danh say như điếu đổ. Cả đời chàng lãng tử đẹp trai hào hoa Hoàng Xuân Danh, chưa bao giờ phải chịu sự khuynh đảo trước một người phụ nữ như vậy.

Cô gái nhìn anh và nói:

- Mời anh vào nhà!

Danh gật đầu, và như thường lệ lại là một bó hoa. Hôm nay là một bó hoa cúc, cô gái nhanh tay đáp lấy và lại tiếp tục cắm nó trở lại bình.

Nhân lúc cô gái không chú ý, Danh lại tiếp tục giở cuốn sổ nhật ký thường ngày ghi lại mọi hoạt động của mình như một thói quen. Hơn một năm qua, những điều mà anh ta tiếp xúc, những cái cách thể hiện của cô gái cũng như những cuộc trò chuyện và chủ đề của anh đều đã được ghi lại một cách rõ ràng.

Ngoài việc anh phát hiện ra mình đã yêu cô gái, thì anh cũng phát hiện được ra rằng trong bức tranh nghệ thuật trìu tượng kia. Thì ra là có cả trăm khung cảnh trồng chất lên nhau. Mỗi một khung cảnh riêng biệt, phải có con mắt và sự lý giải sâu xa lắm thì mới có thể nhìn ra. Và trong mỗi một khung cảnh đó dường như đều đang vẽ lên một câu chuyện, những khung cảnh gắn liền với nhau thành một câu chuyện liền mạch. Một năm qua Danh đã tìm hiểu được ý nghĩa sâu sắc trong bức tranh khoảng một phần ba rồi, và tiếp thêm nữa nếu như khả năng cảm thụ hội họa của anh tăng cao. Những bức màn đằng sau sẽ càng được vén ra nhanh hơn.

Danh bước vào trong căn nhà, cảm thụ không gian thật yên tĩnh và mùi hương từ trên người cô gái. Một mùi hương lạ kỳ hết sức thơm dịu giống như là một mùi sáp của tranh sơn dầu vậy.

Danh cực kỳ thích thú mùi hương này trên cơ thể cô, và đã có nhiều lần anh ra ý dò hỏi. Thế nhưng một điều tương tự giống như mọi lần, cô ta chỉ mỉm cười mà không đáp lại.

Một sự bí hiểm sâu thẳm trong con người của cô ta. Rốt cuộc là cô ta ẩn chứa bí mật gì thế? Một năm cho một cuộc điều tra, điều này hết sức viển vông cho một trinh sát tài ba phá an chớp nhoáng như Danh. Một năm trôi qua mà vụ án chết ba mạng người vẫn đang ở trong bế tắc. Và dường như chính Danh cũng đã quên mất rằng mình phải điều tra phá án chứ trên hết không phải là tán tỉnh người phụ nữ kia.

Nhưng có lẽ thời gian tiếp xúc với cô ta quá lớn đã khiến Danh quên mất và biến mục tiêu phụ thành mục tiêu chính của mình. Hôm nay anh còn chuẩn bị những lời ngọt ngào, chuẩn bị tỏ tình với cô ấy.

Nhìn cô gái bưng bê những dĩa thức ăn đầy sang trọng. Danh từ từ tiến đến gần cô không một tiếng động, rồi nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc của cô như đang vuốt lông của một chú mèo.

Cô gái đột nhiên quay sang nhìn Danh, nụ cười trên khuôn mặt biến mất, theo vào đó là đôi lông mày chau lại khó hiểu:

- Anh làm gì thế?

Danh hơi luống cuống, nhưng cũng đã bị lửa tình lấn át. Anh nói chuyện một cách đầy tình cảm:

- Đã có người nào kể cho cô nghe về câu chuyện học trò thích người thầy của mình chưa?

Cô gái nghiêng đầu nói:

- Hình như là chưa. Mà nếu có thì chắc là người học trò đấy cũng bị đuổi học vì dám lỗ mãng như vậy.

Danh trợn tròn mắt tỏ vẻ thích thú, thật không ngờ cô ta lại có lý giải chuyện này như vậy. Anh cười khổ nói:

- Vậy nếu như tôi nói rằng, những câu chuyện ấy phần lớn đều kết thúc bằng tình yêu đẹp đẽ của cả hai thì cô nghĩ sao?

Cô gái ngồi xuống ghế, nhoẻn miệng cười nhìn Danh và nói:

- Thì chung quy cũng chỉ là họ bị mối tình của mình lôi cuốn đi đến nỗi mất đi luân thường, và thường thì khi người ta phá vỡ quy tắc, sẽ luôn phải có một sự trả giá nào đó xảy đến với họ.

Danh nghe đến đấy, liền hiểu được ý vị sâu sắc trong câu nói này. Đại thể rằng cô ấy muốn nói rằng, nếu Danh có suy nghĩ ấy với cô thì tốt hơn hết nên triệt tiêu nó đi trước khi nhận lấy hậu quả.

Nhưng Danh nào có thể chịu buông thả dễ dàng đến như vậy. Nói một người hào hoa như anh từ bỏ một cuộc tình ư? Trong khi anh có hàng tá các cô gái khác theo đuổi. Vậy mà chỉ vì cô ta anh đã từ bỏ tất cả. Danh lại chịu cam nguyện một kết quả không theo ý mình hay sao. Anh nói:

- Nếu người học trò ấy, vẫn cứ bất chấp tất cả thì sao? Tình yêu đôi khi mù quáng hơn những thứ gọi là lý trí mách bảo rất nhiều.

Cô gái chậm rãi suy nghĩ, rồi chợt đề cập đến một vấn đề, cô hỏi:

- Anh còn nhớ khung cảnh thứ ba trong bức tranh chứ?

Danh gật đầu:

- Còn nhớ, nhưng sao vậy?

Cô gái nói:

- Đó cũng là một con cáo ngồi trước bậc thềm của một hang động, hang động của chúa sơn lâm. Nhưng rồi khi nó nhận ra rằng chúa sơn lâm đã có tình cảm với chính nó thì sao? Ở khung cảnh thứ tư?

Danh hơi sửng sốt nghĩ đến vấn đề này. Anh chợt nhớ đến khung cảnh diễn tả thứ ba trong bức tranh là một con cáo ngồi trước hang cọp. Nhưng rồi khung cảnh thứ tư, con cáo đó đã chết. Chỉ còn lại một bộ xương ngay dưới chân một con cọp. Chỉ có điều anh vẫn không thể hiểu nổi một điều, anh lại hỏi cô gái:

- Con cáo đã chết, nhưng điều đó cũng không thể khẳng định hoàn toàn là do con hổ làm ra được. Trong khung cảnh thứ tư, con hổ cũng đã rơi nước mắt trước bộ xương của cáo?

Cô gái thở dài lý giải:

- Trong tình yêu con người ta đôi khi mù quáng, mù quáng không nghe theo vận mệnh đã an bài. Và khi họ bất chấp theo điều đó thì nghịch lý sẽ đến với họ. Khi con hổ nhận ra rằng nó cũng có tình cảm với con cáo thì chính tay nó đã sát hại con cáo mất rồi. Là vì nó ngày ngày đều thấy cáo xuất hiện trước hang nên rất tức giận, nhưng cho đến một ngày khi nó đã giết cao xong, nó lại cảm thấy thương nhớ bóng hình của cáo. Và đó cũng là sự trừng phạt cho kẻ không tin theo số phận mà bất chấp dâng hiến cho thứ tình cảm ngu ngốc một cách mù quáng.

Danh lặng im, có lẽ đến đây thì anh nên dừng chủ đề lại thì hơn. Bởi câu trả lời của cô ấy đã quá rõ ràng. Danh lại tiếp tục ngồi xuống ghế, cố nặn ra một nụ cười nhìn cô ấy và nói:

- Hình như chúng ta đã quay trở về những khung cảnh đầu tiên trong bức tranh rồi thì phải. Có lẽ chúng ta cũng nên khám phá những khung cảnh tiếp theo đi thôi. Vấn đề về cáo và hổ là điều mà chúng ta đã luận bàn rất nhiều lần trong một năm đã trôi qua.

Cô gái lại nở nụ cười, cô ta nói:

- Đúng vậy, tuy việc con cáo và con hổ chỉ là những câu chuyện bên lề. Nhưng chúng chính là nên tảng để xây dựng lên được một bức tranh nghệ thuật vĩ đại đến như vậy. Có lẽ tôi chưa từng nói với anh rằng, để thấu hiểu toàn bộ bức tranh thì anh anh cần phải hiểu rõ câu chuyện con cáo và con hổ. Nó chính là một chiếc chìa khóa vạn năng đấy.

Cô gái lại nghiêng đầu, đứng lên, dẫn Danh đến gần bức tranh, và lại chỉ vào bức tranh và hối thúc Danh:

- Giờ thì, anh hãy thử nhìn xem xem trong bức tranh này, khung cảnh tiếp theo là những gì. Sẽ là rất hữu ích nếu như anh biết cách vận dụng cuộc tranh luận vừa rồi đấy!

Danh nghe lời và lập tức ngước nhìn lên bức tranh. Anh hơi nghiêng đầu kinh ngạc, vì rõ ràng lúc này anh có thể nhìn thấy, trong bộ xương của con cáo có một đôi mắt. Thay đổi lại cục diện một chút, bắt đầu từ đôi mắt theo nét nhìn tổng quát, lại có thể thấy được chú hổ đang ôn tồn yên tĩnh nằm trong bụng một con voi.

Cô gái lại hỏi:

- Sao thế? Giờ thì anh nhìn thấy những gì?

Danh lắp bắp trả lời:

- Lạ thật, tại sao tôi lại nhìn thấy một con voi, một con voi hết sức khổng lồ. Và thêm một chút nữa, là lại có một con hổ có răng nanh rất dài.

Cô gái trả lời:

- Loài voi đó là voi ma mút, và con hổ kia lại là một con hổ răng kiếm có từ thời viễn cổ. Hổ răng kiếm trong khung cảnh này giống như cáo ở bức tranh thứ ba và thứ tư.

Danh gật gù hiểu ra, thì ra mọi chuyện nhiều lúc có nhân duyên từ rất nhiều thứ. Rất có thể con cáo chính là con voi ma mút kiếp trước hóa thành, và kiếp sau chính là để trả nợ cho hổ. Càng nghĩ anh càng cảm thấy bức tranh này quá ư sâu sắc.

Nghĩ lại mọi chuyện từ trước tới nay, Danh còn cảm thấy có quá nhiều điều lồng ghép hết sức sâu xa trong đó. Không chỉ tư bức tranh, mà còn là từ cô gái. Dường như những cuộc nói chuyện trước nay của anh dù muốn dù không thì cũng trở thành chủ đề liên quan đến bức tranh. Và dường như cho dù anh có tự chủ mở chủ đề như thế nào, thì cũng có thể khiến vấn đề tranh luận ấy trở thành chìa khóa để mở bức màn tiếp theo. Chẳng lẽ lại đúng như cô ta ta, đây thực sự là số kiếp?

Thêm một năm nữa trôi đi, Danh vẫn có tình cảm sâu đậm với cô ta. Con người anh biến đổi hoàn toàn, từ một kẻ lạnh lùng không hứng thú với bất cứ cô gái xinh đẹp nào. Thì nay, lại chết mê chết mệt cô ta và dần trở thành một anh chàng yếu đuối lụy tình đến mức điên dại. Còn gì khổ sở hơn khi ngày ngày nhìn thấy người mình thích, nhưng lại không thể thổ lộ.

Còn cô ta thì sao. Cô ta chẳng khác gì như những ngày đầu mà Danh gặp phải, vẫn là một cô gái có nét lạnh lùng khó tả, một sự quyến rũ đến bí ẩn. Và hai năm trôi qua rồi, sự bí ẩn đó chưa lúc nào giảm xuống. Quả là một con người có tâm tư sâu đến khủng khiếp.

Danh gấp gọn lại cuốn sổ nhật ký, anh đã ghi lại toàn bộ những gì mà anh gặp phải trong hai năm qua, và để tạm nó ở trên bàn. Anh chuẩn bị hết sẵn sàng mọi thứ để tiếp tục đến căn biệt thự cổ kính đó.

Ngày hôm nay là một ngày trang trọng hơn tất cả mọi ngày. Bởi vì, hôm nay sẽ là bức màn cuối cùng được vén ra, khung cảnh cuối cùng trong bức tranh. Là lúc mọi thứ được sáng tỏ, cho cả cái chết của cả ba người trước đó. Cái chết vì sự hãi hùng đến tột độ rốt cuộc là thứ gì.

Dẫu vậy, đó vẫn không phải là điều mà Danh quan tâm nhất. Điều mà anh quan tâm nhất chính là ngày hôm nay, anh sẽ tỏ tình với cô ấy. Mặc cho mọi mũi dùi của cô ấy có hướng đến đâu. Nhưng chẳng thể ngăn cản được nữa rồi. Ngày hôm nay sẽ là cơ hội cuối cùng, qua ngày mai khi bức tranh được lý giải toàn bộ, thì cũng là lúc anh chẳng còn một chút lý do nào nữa để đến gặp cô ấy cả.

Đặt cuốn sổ nhật ký ở trên bàn, cùng với một lá thư ghi lại một vài dòng. Danh suy tính đến chuyện liệu rằng có khi nào mình cũng sẽ gặp phải kết thúc giống hệt như ba người trước đó hay không? Vậy nên anh có để dành lại một chút manh mối cuối cùng dành cho người kế tiếp, nếu như anh ta chẳng may đọc được thì cũng có thể sẽ tìm ra được câu trả lời.

Bước đến trước cửa căn biệt thự, cánh cửa gỗ lại được mở ra. Lần này Danh dành tặng một bó hoa hồng y như ngày đầu, nhưng là chín mươi chín đóa.

Cô gái tiếp nhận bó hoa trong tay của Danh, ngắm nhìn nó rồi cau mày, cô nói:

- Nếu điều gì vẫn cưỡng ép đi ngược lại số phận, thì tôi không dám chắc là anh có thể an toàn đâu.

Danh nghiêng đầu nói:

- An toàn ư, tôi không còn những thứ đó nữa. Đứng trước sự sát thương từ đôi mắt đẹp của em, lá chắn mong manh của tôi sụp đổ hoàn toàn mất rồi. Yêu tôi đi…

Danh thận trọng nói từng từ với vẻ rất nồng nàn. Cô gái hai má chợt đỏ hồng, cô cúi gằm mặt không nói lời nào. Danh khẽ nâng cằm cô và nhẹ nhàng đặt lên môi cô một nụ hôn ngọt ngào. Sau đó anh nói:

- Nếu một khi trò đã thích thầy, thầy cản được không?

Cô gái đỏ mặt bẽn lẽn lắc đầu nói:

- Không cản được…

Danh lại thích thú hỏi:

- Vậy thầy có nên đáp lại tình cảm ấy không?

Cô gái lặng im, đôi mắt như làn thu ba sáng lấp lánh. Hai người đứng đó trân trối nhìn nhau một lúc rất lâu.

Rất lâu sau cố mới thở dài nói ba từ:

- Anh vào đi…

Rồi lại quay đầu cầm đóa hoa đem cắm vào chiếc lọ hoa quen thuộc. Lúc này vẻ diễn tả trên khuôn mặt cô hết sức khó tả, một thứ cảm xúc lần lộn trào ngược lên trong người cô. Cô lặng lẽ rơi nước mắt mà Danh không hề hay biết.

Thêm một phút nữa trôi qua, Danh lặng lẽ đi đến ngắm nhìn bức tranh. Và lần này không chờ cô gái phải nhắc, anh đã lập tức vận dụng hết những chi tiết của buổi gặp gỡ định mệnh này, nhìn vào bức tranh để suy diễn nó.

Anh chầm chậm nhìn vào bức vẽ cuối cùng, khung cảnh thứ một trăm trong bức tranh.

Một người mới đã hoàn toàn xuất hiện trong bức tranh này, chẳng phải những con vật như mọi khi. Mà là một người, người đó chính xác hơn là một gã họa sĩ, gã đang vẽ những bức tranh khác trên tổng thể toàn bộ khung cảnh bức tranh lớn này. Từng lớp sơn dầu trồng trồng lớp lớp lên nhau khiến cho nó trở nên cực kỳ vĩ đại và mờ ảo.

Chợt danh chú ý đến một điểm, rằng khuôn mặt của người họa sĩ này khi điểm những nét cuối cùng thì lại tỏ ra hết sức kinh ngạc và thảng thốt.

Danh nhìn sâu vào trong bức tranh mà anh ta đang vẽ, thì liền thấy anh ta đang vẽ chính bản thân anh ta ngã gục trước một bức tranh cũng do chính anh ta vẽ. Mọi sự việc trồng chất lên nhau khiến cho người ta cực kỳ khó hiểu nhưng cũng tỏ ra hết sức lý thú.

Nhưng rồi Danh suy nghĩ lại hết mọi sự kiện trong bức tranh, nét mặt anh cũng chuyển sang vẻ thảng thốt không hề kém người họa sĩ kia.

Anh phát hiện ra rằng người họa sĩ đó không phải ai khác mà chính là Hà Dương Cầm. Chính là người đã vẽ lên bức tranh kì vĩ này.

Trong mắt anh thì giờ phút nào ở khung cảnh thứ một trăm. Hà Dương Cầm như đang sống thực sự, anh ta kêu gào không ngừng với vẻ hết sức thảm thiết. Và từ bức tranh thứ một lẻ một trở đi thì mọi thứ hết sức sinh động.

Từng cái chết, từng nạn nhân chết ra sao trước sự kêu gào điên loại của họ. Như một thước phim lồng ghép trong phim kéo rất dài từ trong bức tranh mà Hà Dương Cầm vẽ trong tranh. Lại thêm một điểm nữa, là trong mỗi bức tranh khi người đó chuẩn bị chết thì đều có một người phụ nữ đứng cạnh họ.

Mồ hôi bắt đầu chảy dài ướt đẫm áo của Danh, khi anh nhìn đến khung cảnh thứ một lẻ tư, lại là một người đàn ông hoàn toàn khác biệt cũng hãi hùng trước bức tranh. Và người đàn ông đó dường như cũng đang đứng ở ngay vị trí này của Danh, kêu gào đến hãi hùng mà chết. Bên cạnh hắn ta cũng có cô gái như vậy xuất hiện.

Cuối cùng, khi anh có thể nhận ra được cô gái luôn xuất hiện trong các bức tranh là ai, thì bức tranh thứ một lẻ năm cũng được anh nhìn ra. Và người đứng trong đó không phải ai khác, chính là anh, Hoàng Xuân Danh.

Khi anh phát hiện ra được sự thật kinh khủng đó, thì cũng là lúc ảnh cảm nhận được một bàn tay đặt vào vai anh. Là của cô gái anh yêu đến mức cuồng dại, cũng là của cô gái luôn xuất hiện trong bức tranh.

Khi cô ấy đặt xong bàn tay lên vai của Danh, cũng là lúc máu từ mắt anh chảy ra. Anh đã bị xuất huyết não vì kinh hãi đến chết.

Xác Danh đầy lạnh lẽo, với đôi mắt hoảng sợ mở to như không tin nổi. Hệt như những người trước đó, anh cũng chết theo cách giống như họ. Cả thảy là bốn mạng người đã qua, đến lượt anh là năm.

Trong bức vẽ ấy, còn có một người đàn ông thứ tư cũng chết. Nhưng tại sao hắn lại không được biết đến, chắc có lẽ hắn chính là chủ nhân thứ tư của bức tranh này?



Sau khi Danh chết, người ta nhanh chóng tìm ra xác anh nhờ cuốn nhật ký được để ở trên bàn của anh. Vụ việc Danh chết bất đắc kỳ tử trước bức tranh hệt như các vụ án bốn năm trước khiến cho người ta dấy lên nhiều nghi ngại. Người ta còn phát hiện ra xác của một người đàn ông khác ngay cạnh chỗ của Danh. Nhưng chỉ có điều là xác gã ta đã hóa ra xương. Điều đó chứng tỏ là từ hai năm trước đó gã ta cũng chết theo một cách tương tự giống hệt như Danh. Gã ta có thể chính là tên siêu đạo chích trộm tranh trong buổi đấu giá. Và rằng số người chết trước bức tranh này không sai biệt chính là đều đặn với khoảng cách hai năm sẽ lấy một mạng người sở hữu nó.

Một điều tra viên mới được phân công điều tra sự bí hiểm của bức tranh này. Anh ta tên Đào Văn Đức, cũng là một trinh sát viên có hạng trong nghành.

Chính Đức là cấp dưới của Danh, và cũng chính anh đã phát hiện ra cuốn sổ bí mật ghi chép lại khoảng thời gian giữa anh và người phụ nữ kia trò chuyện. Nó cũng hé lộ một phần nào đó nguyên nhân vì sao Danh phải chết. Là do anh thổ lộ với người phụ nữ kia ư? Không phải, Đức cho rằng là vì Danh đã lý giải được bí mật kinh khủng trong bức tranh, và anh ta đã phải chết theo đúng cái cách mà những người tiền nhiệm của anh gặp phải.

Đức lo lắng do dự, nhưng câu trả lời cho bí mật kinh khủng kia lại càng thôi thúc anh nhiều hơn.

Kể từ khi Danh chết, bức tranh đã được phong tỏa và cất giấu tại một nơi biệt lập không cho người nào rõ. Mà chỉ có Đức, người phụ trách điều này mới có thể gặp được bức tranh và tìm hiểu bí mật ẩn giấu trong nó.

Bức tranh được cất giấu ở sâu trong một căn hầm tối mật của sở công an thành phố. Và chỉ có Đức là người duy nhất có được chìa khóa vào đó để tìm hiểu.

Trước đó, Đức đã dành một khoảng thời gian khá dài để nghiên cứu về tranh nghệ thuật. Khi Danh với mới chết và Đức tiếp quản vụ này. Hai mươi khủng cảnh trong số hơn một trăm khung cảnh mà bức tranh này ký họa lại có thể được anh dễ dàng nhìn ra.

Trong cuộc đời của Đức, đây đúng là lần đầu tiên anh có thể nhìn thấy một bức tranh vĩ đại đến mức như vậy. Một bức tranh khổng lồ trìu tượng sâu xa và đẹp đến tuyệt mỹ.

Khi mới nhìn thấy bức tranh, Đức vui mừng đến mức mất ăn mất ngủ. Nhưng rồi anh cũng vẫn nhận ra một sự thật, là cô gái trong cuốn nhật ký mà Danh nhắc đến đã thực sự xuất hiện.

Buổi tối đầu tiên khi anh đang làm việc với bức tranh, cô ta cũng xuất hiện ngay sau lưng anh với sắc phục của một nữ công an khiến anh không hề nghi ngờ. Nhưng ngay sau đó anh đã điều tra ra được là chẳng có nữ công an nào được điều đến để phối hợp công tác với anh cả.

Điều đó chỉ có thể lý giải được, chính là do người phụ nữ đó hóa thành. Phải, đó chính là người phụ nữ đã khiến Danh chết bất đắc kỳ tử.

Và cô ta không hề hay biết rằng trước khi Danh chết đã để lại một cuốn sổ nhật ký cho Đức, và trong chính cuốn sổ nhật ký đó. Danh đã tố cáo mọi sự, và nét mặt dáng người của cô ta thì không sai vào đâu được.

Đức đã đoán biết được mọi chuyện và vẫn vờ như không hiểu chuyện gì xảy ra. Vẫn giả bộ rằng anh ta tin tưởng cô ta thực sự là người từ bộ cử xuống để phối hợp điều tra. Một chút sơ hở cũng không được Đức cho đem ra hé lộ, cô gái đó nhìn thì có vẻ rất bình thường. Nhưng Đức khác với Danh, anh không bị tình yêu làm cho mù quáng mất đi lý trí. Chỉ có thể là do Danh đã quá yêu cô ta nên anh ta mới không thể nhận ra, rằng người phụ nữ này có một cái nét gì đó mụ mị. Không được linh hoạt như người bình thường.

Một hôm Đức giở lại trang nhật ký đầu tiên, và phát hiện ra trong cuộc đối thoại đầu tiên giữa Danh và cô ta có nhắc đến một chi tiết rất quan trọng. Và chi tiết này cho đến cả hành trình phía sau đều không được Danh nhắc lại.

Chi tiết đó nói đến người phụ nữ này chỉ muốn gặp Danh vào ban đêm. Vậy thì còn ban ngày thì sao?

Đức tự hỏi mình câu hỏi đó, cho đến giờ anh vẫn giả vờ đần độn và là một kẻ mù nghệ thuật trước mặt cô ta. Anh nói anh chỉ có thể xem được vài bức vẽ dưới sự chỉ dẫn của cô ta. Nhưng kỳ thực là Đức đã có thể nhìn thấy tới khung cảnh thứ chín mươi chín. Chỉ thêm một đoạn nữa thôi, nếu Đức cố gắng thì anh có thể hoàn toàn nhìn ra trong bức tranh này khung cảnh thứ một trăm sẽ diễn tả những thứ gì.

Nhưng Đức không làm vậy, anh hoàn toàn thận trọng với mọi hành động của mình. Nếu cô gái này không thể xuất hiện vào ban ngày. Vậy thì, anh chỉ cần lẳng lặng chờ đến ban ngày và đem nó ra ngoài trời xem xét một cách tỉ mỉ là có thể rõ được mọi sự.

Chắc chắn với suy đoán của mình, nên ngay ngày hôm sau Đức đã hành động theo kế hoạch tính toán.

Và lần này anh tính toán đã rất đúng, cô ta không hề xuất hiện dưới ánh nắng ban ngày. Cũng như trong bức tranh kia, khung cảnh thứ một trăm cũng đã được Đức nhanh chóng nhìn ra. Khi anh phát hiên ra mọi sự anh cũng kinh ngạc không thôi. May mắn cho anh là anh đã chọn đúng thời điểm để xem xét nó. Bằng không thì có lẽ anh đã phải gặp phải một kết quả tương tự như những người trước đo.

Đức xem xong khung cảnh cuối cùng thì cũng phát hiện ra mình chính là người đứng trong đó. Chỉ có điều là bây giờ anh không lăn ra chết mà thôi.

Lại tiếp tục nhìn thêm một lần nữa, Đức có thể lờ mờ nhìn được một dòng chữ như cảnh cáo anh:

- Nếu như anh nhìn ra mà không chết như chúng tôi, xin hãy lật lại bức tranh và xem nó đằng sau.

Đúng là dòng chữ có diễn tả ý nghĩa như vậy. Đức không chần chừ thêm nữa mà ngay lập tức đã làm theo, anh lật ngược bức tranh quay trở lại và tháo nó ra khỏi khung tranh.

Một dòng chữ màu đen khác xuất hiện. Dòng chữ này chính là do người vẽ nên nó để lại, là nét chữ của Hà Dương Cầm. Dòng chữ đó ghi: “Là Họa Quỷ - Nếu như tôi chết xin hãy gặp Thích Thiết Tâm đại sư”.

Dòng chữ đó kết thúc, liền đặt ra một mối nghi vấn dành cho Đức. Họa quỷ là cái gì? Và Thích Thiết Tâm là ai thì mới biết rõ được chuyện này. Và rằng phải tìm người đó ở đâu thì mới được.

Trước tiên Đức tạm gác cái suy nghĩ đó lại, và lập tức quay trở về văn phòng. Gõ tên đại sư Thích Thiết Tâm để tìm kiếm. Thật may mắn cho anh, ông ta hết sức nổi tiếng trong giới tăng ni nhà phật và có thể dễ dàng tìm kiếm được ông ta.

Đại sư Thích Thiết Tâm tọa lạc tại chùa Liên Phái, cũng ngay trong nội đô hết sức dễ tìm.

Ngay trong ngày này, Đức liền lên kế hoạch đến tìm ông ta.

Khi anh đến nơi thì liền thấy vị đại sư này đang quét chùa. Anh còn cầm theo cả bức tranh này đến tận nơi cho ông ta xem.

Mới đầu ông ta khi gặp Đức còn giả lú lẫn, và từ chối không gặp anh. Nhưng khi anh vừa giơ bức tranh ra thì ông ta liền lập tức kinh ngạc không thôi.

Rồi ông ta kéo Đức vào chùa và hỏi anh cặn kẽ:

- Cậu tìm thấy bức tranh này ở đâu?

Đức nói:

- Mọi chuyện rất dài dòng, tôi chỉ cần biết một chuyện. Đại sư với họa sĩ Hà Dương Cầm có quan hệ gì?

Đại sư lắc đầu thở dài nói:

- Có quan hệ gì ư? Nếu có quan hệ thì đấy chính là duyên sư đồ giữa chúng ta. Năm đó nó đi du học ngành hội họa từ nước ngoài về, trong một lần viếng thăm chùa thì liền rất thích cách ta truyền tải vào những bức tranh cổ rồi bái ta làm thầy ngay.

Đức lại hỏi:

- Vậy những lời trong này anh ta nói, có nhắc đến Họa quỷ. Họa quỷ là gì?

Đại sư khuôn mặt xám ngắt trả lời:

- Nó là một con quỷ được hình thành theo những nét vẽ cổ, đó là những nét vẽ cấm truyền. Chính nó đã không nghe ta và vẫn luôn mộng tưởng. Tương truyền họa thần thời Trần có thể vẽ ra được một bức tranh dẫn lên cõi thần tiên. Những người sau này học theo nét vẽ ấy đều vẽ phải ra quỷ. Và họ đều có những cái chết bất đắc kỳ tử.

Đại sư dừng lại một chút, ông ta lại hỏi:

- Cậu không nhìn đến chi tiết cuối cùng rồi đấy chứ?

Đức nói:

- Cháu đã nhìn thấy hết toàn bộ rồi. Về cả cách con quỷ giết người…

Đại sư khuôn mặt xám ngắt nói:

- Vậy thì tôi không cứu được cậu nữa rồi, người nhìn thấy những bức vẽ cuối cùng. Một nửa cái hồn đã bị thu vào bức tranh. Vậy thì cũng chẳng thể đốt bức tranh được nữa. Bởi nếu đốt nó thì cũng đồng nghĩa là giết cậu. Chẳng người nào lại có thể sống chỉ với một nửa cái hồn cả.

Đại sư nói xong, liền đuổi Đức đi về. Đức không nghe theo, cũng không cho điều đó là đúng. Anh đem bức tranh về quê ngay trong đêm ấy, tìm một người mang tiếng trong vùng về nghệ thuật trừ tà. Mặc dù trước nay anh không tin những chuyện mê tín vì bản thân là công an. Nhưng chuyện lần này quá ư huyền ảo, bất đắc dĩ anh đành phải dùng đến cách dân gian để lý giải.

Đức tìm đến mấy người làm nghề này, thì tựu trung đa phần đều không biết. Chỉ có một người cuối cùng mà anh gặp. Thì lại là một người hết sức am hiểu nhưng cũng khuyên anh giống hệt vị đại sư kia. Nói anh phải lo lót hậu sự cho tốt, và thời gian của anh không còn nhiều.

Đức vẫn không tin chuyện này, nhưng vẫn muốn thử xem một lần tự an bài cho mình như thế nào. Anh viết một lá thư tuyệt mệnh phòng trừ mọi trường hợp bất đắc dĩ xảy ra.

Sau đó anh đến tìm lão Trịnh, anh nhờ lão giữ dùm và dặn nếu tối đó anh mà có xảy ra bất cứ mệnh hệ gì. Thì hãy lập tức làm theo di nguyện trong lá thư.

Rồi anh lặng lẽ ngồi đó, ngồi trong khu nghĩa trang đêm vắng, lẳng lặng chờ đợi với chiếc đèn pin chiếu rọi nhìn vào khung cảnh của bức tranh.

Màn đem dần dần ập xuống, kéo theo những âm thanh réo rắt kinh khủng kêu lên đều đều của loài cú.

Điều đáng sợ tiếp theo cũng ập đến với Đức. Khi anh vừa kịp quay lại nhìn bức tranh thì cũng là lúc từ trong đó. Lần lượt những bóng hình lập lòe xuất hiện. Một người con gái xinh đẹp bước ra từ trong tranh khiến Đức thất thần. Cô ta bước đến trước mặt Đức, gần hơn một chút nữa, rồi ngửa đầu quay lại. Hai mắt Đức mở to trợn lên đầy hãi hùng, từ trong mắt anh máu đã chảy ra. Đôi bàn tay anh không tự chủ được đưa lên hai đôi con người của mình, rồi chọc mạnh thật sâu vào bên trong.

Hai con mắt của anh bị bắn ra ngoài, miệng Đức trào ra máu. Tay anh đưa lên cổ tự bóp lấy cổ mình cho tự tắt thở.

Đúng lúc ấy lão Trịnh đã nhìn thấy anh tự sát, liền gào lên:

- Đức, mày làm cái gì vậy???

Lão Trịnh cực kỳ hoảng sợ chạy lao đến, nhưng Đức đã tắt thở, không còn bất cứ giấu hiệu nào của sự sống.

Trong bức họa, lại có thêm một nét vẽ chấm phá nữa được hoàn thành. Nếu ai có thể dành về nghệ thuật thì đều có thể nhìn thấy được. Bức vẽ đang miêu tả khun cảnh một cô gái bước ra từ trong tranh, cái đầu cô ta xoay ngược. Mọi ngũ quan cũng đều ngược, cô ta đưa tay đến móc mắt chàng trai và bóp cổ anh ta.

Lão Trịnh thở dài, đem xác của Đức chôn cất trang trọng tại một vị trí riêng biệt. Đọc xong lá thư tuyệt mệnh của anh thì lão cũng đã phần nào hiểu được tất cả câu chuyện.

Hết!

Ngạ Quỷ
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top