Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Xương Rồng Đốt Rương
Quyển 2 - Chương 8


Hành trình Tương Tây liên tiếp xảy ra biến cố, Mạnh Kình Tùng không thể không từ bỏ ý định “khiêm tốn làm việc” ban đầu, liên lạc với trạm non quê.

Lệ thói quỷ non, “phường, trạm, đình, sào”.

Tổng bộ gọi là phường, là nơi cư ngụ của người ngồi trên ngai vàng quỷ non, “Phường Quế Non” tuy nói khiêm tốn là đọc trại từ “quỷ non” ra nhưng thực chất cũng chỉ thiếu điều khua chiêng gõ trống thông báo với toàn thiên hạ mình là “phường quỷ non”.

Mỗi núi một trạm, núi ở đây chỉ dãy núi, không phải là ngọn núi, “non quê” là lấy âm trại đảo vần của quỷ non, tỏ vẻ thấp hơn phường một bậc.

Ngọn núi lập “đình”, đa số là xây phòng trà, mở khách sạn, làm nơi liên lạc trao đổi của hộ núi, “Vân Mộng Phong” của Liễu Quan Quốc chính là nhà núi của núi Ngọ Lăng, gọi là “đình” nhưng tên không nhất thiết phải có chữ “đình”, nhưng yêu cầu tên gọi phải xuất hiện chữ thể hiện là núi, bởi vậy nên tên nhà thường xuất hiện những chữ như phong (ngọn), nham (mỏm núi đá), tụ (hang núi), loan (đèo).

Nhà của quỷ non thì gọi là “sào”, bởi thời thượng cổ, yêu ma non hoang ở sâu trong núi đều dựng sào xây sào để ở, dùng chữ “sào” là để thể hiện không quên xuất thân.

Nếu so sánh với cơ thể người thì phường là trái tim, đình là máu thịt, sào là làn da, trạm nằm dưới phường mới là khung xương chống đỡ cơ thể, có thể gánh hết sinh lão bệnh tử của hộ núi: quỷ non tài lực hùng hậu nhưng không phải để nuôi kẻ rỗi việc, thời xưa, trong mỗi trạm non quê đều treo “Bách Nghiệp Đồ”, dùng cách phân chia xã hội thành trăm nghề, ba trăm sáu mươi nghiệp của thời Đường làm chuẩn, trên bức vẽ khổng lồ chằng chịt nét mực đen trắng họa đủ kiểu người, như đồ tể mổ thịt, thợ nghề thuộc da, thợ nghề rèn sắt, nghề ngỗ tác (*) các loại, ngày nào có người vào nghề thì lại dùng mực vẽ lên, lấy “trăm nghề đều làm, muôn hình vạn trạng, không phân chia cao thấp sang hèn, bao quát tất thảy” làm tiêu chuẩn xem xét – hộ núi từ khi chào đời đều được nhận một khoản “lương núi” khá khẩm theo tháng, có điều khoản lương núi này đều được coi là khoản vay mượn, chỉ đến khi chọn nghề vào nghiệp thì mới “xóa sạch nợ cũ, lương núi nhân đôi”.

(*) Ngỗ tác là tên gọi của nghề khám nghiệm tử thi thời xưa.

Bách Nghiệp Đồ có thiếu sót, đối với người quản lý trạm non quê, tương đương với “bộ mặt xám xịt”, có thể suy ra họ hết lòng hết dạ mực nào, “Tôi van ông đó, khu vực chúng ta còn thiếu nghề mổ lợn, ông chọn nghề này đi”.

Vì không phải là để mưu sinh nên các hộ núi vào nghề lại thường có tâm tư đi nghiên cứu tỉ mỉ, đã tốt rồi lại muốn càng tốt hơn, ví dụ như người mổ trâu dần trở thành đầu bếp, mà đầu bếp thì dần thành nhà thẩm định món ăn, nói chung là nghề nào cũng xuất hiện lớp lớp tinh anh – có thể tạo điều kiện cung ứng, điều phối sai phái cả một bầy người đông đúc như thế, nói trạm non quê gánh được sinh lão bệnh tử của hộ núi cũng chẳng phải nói ngoa, tuy rằng đến giờ, xã hội phát triển lớn, nghề nghiệp cũng chia nhỏ ra thành rất nhiều, có vài lĩnh vực yêu cầu nhân tài quá mức phức tạp tinh vi, quỷ non khó mà chu toàn hết được, nhưng miễn cưỡng bù đắp chắp vá thì cũng ứng phó được hòm hòm.

Nhóm tiếp viện đầu tiên tới trại Bát Kháng chính là do trạm non quê dãy Vũ Lăng gần đây nhất điều động, khoảng chừng hơn ba mươi người, sau khi khám nghiệm hiện trường tìm kiếm manh mối, có vài người đưa thi thể Lưu Thịnh về trạm, chỉnh trang dung nghi cho thi thể để nhập liệm, những người khác thì theo Mạnh Thiên Tư về Vân Mộng Phong.

***

Đêm đó Vân Mộng Phong đèn đuốc sáng trưng, cả phòng lại lặng ngắt như tờ.

Hộ núi vào ở đều biết lão đại ở tầng ba, bỗng nhiên có thể ở chung một đình với sếp tổng, khó tránh khỏi câu nệ gò bó, cẩn thận từng li từng tí: đi nhẹ, thậm chí còn dùng cả đệm hổ; nói khẽ, có thể ra dấu thì nhất định không phát ra tiếng; bưng bát đặt đũa đều khẽ tay khẽ chân, làm như Vân Mộng Phong xây bằng lá bài tú-lơ-khơ, tiếng động hơi lớn một chút cũng có thể rung đổ không bằng.

Bầu không khí này thậm chí còn ảnh hưởng cả tới Mạnh Kình Tùng, lúc y bố trí người canh gác xung quanh, toàn bộ quá trình đều hạ giọng thật thấp, tự cảm thấy mình chẳng khác gì đi làm trộm, nhìn từ trên xuống, người đến người đi trước nhà sau nhà đều im lặng không một tiếng động, thật đúng là kỳ dị.

Sau khi Mạnh Thiên Tư về phòng, việc đầu tiên cô làm là ngâm bồn.

Theo Tân Từ, ngâm bồn ở nhiệt độ nước 38° là một phương pháp tuyệt vời để giảm stress, đáng tiếc là hình như Mạnh Thiên Tư ngâm nước lâu bị nhũn xương, mệt mỏi rã rời, sau khi ra ngoài, vừa ngả người xuống giường la hán là hệt như bị lấy keo dính chặt xuống giường, hồi lâu không nhúc nhích, quanh người tỏa ra hơi thở người lạ chớ gần.

Tân Từ không để ý, bận rộn sấy tóc, thoa dầu dưỡng tóc cho cô.

Sấy tóc tới khô nửa, Tân Từ tắt máy sấy đi, an ủi cô: “Yên tâm đi, thế nào chuyện cũng sẽ tra ra được manh mối, giết người đền mạng, Lưu Thịnh sẽ không phải chết thiếu minh bạch đâu.”

Mạnh Thiên Tư không đáp, dù có tra ra nguyên nhân cái chết, Lưu Thịnh cũng chẳng về được, một chàng trai còn trẻ như vậy, cuộc đời lại đột ngột kết thúc trên một lưỡi dao nhỏ, càng đáng thổn thức hơn là, mãi đến khi gã chết cô mới biết người này trông ra làm sao, trước đó, đối với cô, gã chỉ là một hộ núi núi Ngọ Lăng, một chân chạy việc bận trước bận sau.

Cô lẩm bẩm: “Đến giờ tôi vẫn chưa nghĩ ra là ai gây sự với chúng ta.”

Tân Từ nói: “Chân tướng đang ở một nơi nào đó, chỉ là cô chưa lần ra đầu mối mà thôi.”

Nói cũng như không, nhảm nhí, Mạnh Thiên Tư bực mình, chẳng buồn liếc hắn lấy một cái.

Tân Từ cười hì hì, tiếp tục tìm lời khuyên cô.

“Dựa vào mình Giang Luyện thôi có thể tìm được chuông vàng sao?”

Mạnh Thiên Tư cười khẩy: “Ai dựa vào mình hắn chứ? Chúng ta cũng không phải là không tìm, là tôi thấy hắn có chút bản lĩnh, cũng có chút đầu óc… Không dùng thì phí quá, hắn là người đứng xem, góc nhìn khác với chúng ta, cũng có thể phát hiện ra cái chúng ta không phát hiện ra được.”

“Ngộ nhỡ hắn bằng mặt không bằng lòng, dùng thủ đoạn lừa gạt chúng ta thì sao?”

Mạnh Thiên Tư khẽ cười một tiếng, thân mình dựa nửa trên kỷ trà, lấy tay chống má, liếc nhìn Tân Từ: “Nhóc con, cậu còn non và xanh lắm.”

Tân Từ nổi đóa: “Chúng ta bằng tuổi nhau đấy!”

Mạnh Thiên Tư nói: “Cậu có nhận ra là Giang Luyện một mực muốn phân rõ phải trái với chúng ta không?”

Có, hơn nữa nói năng còn rất có trật tự, Tân Từ cảm thấy Giang Luyện vẫn còn rất bình tĩnh: Tình hình hôm nay nếu đổi lại là một người tính khí nóng nảy, ăn nói vụng về, suy nghĩ rối loạn thì hậu quả hai bên đối đầu nhau quả thực là không dám nghĩ đến.

“Hắn gặp chuyện muốn phân rõ phải trái, có thể nói năng rõ ràng có lý, điều này chứng tỏ hắn là người phân rõ phải trái, mà người phân rõ phải trái thì luôn có một ranh giới mà họ không vượt qua được.”

Tân Từ thắc mắc: “Là cái gì?”

“Phân rõ phải trái.”

Tân Từ ngơ ngác: Cụm từ “phân rõ phải trái” trong miệng cô nghe còn lòng vòng xoắn lưỡi hơn cả “nồi đồng nấu ếch nồi đất nấu ốc”.

Mạnh Thiên Tư giải thích: “Bởi vì hắn không rõ phải trái nên dù hắn có giỏi ăn nói giỏi biện luận thế nào đi chăng nữa thì nhắc tới dây chuyền của tôi, hắn đều sẽ đuối lý. Đúng là hắn vô tình giật mất, cũng vô tình làm mất, nhưng là hắn lấy đi, mất ở chỗ hắn, bởi vậy nên hắn chỉ có thể đi tìm, trừ phi hắn xỏ lá, nhưng người phân rõ phải trái thì lại không xỏ lá được.”

Hình như cũng có lý, Tân Từ nghĩ ngợi: “Vậy nếu hắn bất tài, cuối cùng chẳng giúp được cái gì thì sao? Hai người bạn của hắn chúng ta vẫn giam giữ à?”

Mạnh Thiên Tư lườm hắn: “Không giúp được thì tôi còn nuôi họ cho họ ăn chùa không à?”

Cô vén lọn tóc dài rủ xuống ra sau tai: Dẫu Giang Luyện không tìm được chuông vàng về thì hình như mình cũng chẳng thể xuống tay thật, đe dọa thì đe dọa thế chứ có thể thực sự chém hắn được sao?

Nhưng cứ “bỏ đi” như vậy thì khó mà hả dạ: “Lúc đó tính sau, có bảo hắn lột da cũng quá lợi cho hắn rồi. Vô ý gây ra cũng là gây ra, dù sao cũng phải trả giá chút đỉnh.”

Nói đoạn quay đầu nhìn bức tranh quỷ non trên tường: “Đúng không bà cố?”

Trên bức tranh thủy mặc có thể lờ mờ thấy xa xa có núi xanh thác đổ, phần rìa là một cây tùng xanh rắn rỏi, một con hổ lớn rực rỡ trên trán có chữ vương (王) đang nằm nhoài trên chạc cây to lớn như đang nằm chợp mắt, dựa trên lưng nó là một thiếu nữ đang độ xuân thì, vai trần chân trần, tay áo phất phơ trong gió, một tay biếng nhác chống má, sóng mắt lúng liếng, nhoẻn cười quyến rũ.

Mạnh Thiên Tư bảo Tân Từ: “Thấy không, bà cố nhà tôi cũng cảm thấy vậy đó.”

Tân Từ chỉ cảm thấy hoang đường hết nói nổi, đang hậm hực thì Mạnh Kình Tùng đẩy cửa đi vào, trong tay cầm iPad và giá đỡ: “Thiên Tư, bác cả muốn nói chuyện với cô.”

Me lớn… Cao Kinh Hồng?

Mạnh Thiên Tư ngồi bật dậy, nhìn Mạnh Kình Tùng, dùng khẩu hình hỏi hắn: “Anh nói hết rồi?”

Mạnh Kình Tùng hắng giọng: “Tôi nói chuyện của Lưu Thịnh, những cái khác cô tự cân nhắc đi?”

Từ xưa đến nay, chuyện sống chết vẫn luôn là lớn nhất, trước đây các hộ núi gặp nạn chết, tin tức xa tám trăm dặm cũng đều phải khẩn cấp gửi về Phường Quế Non, quy định này đến giờ vẫn không thay đổi, muộn nhất cũng không được để qua đêm.

***

Những cuộc trò chuyện thế này, dù là Mạnh Kình Tùng cũng không có tư cách nghe, y bèn dẫn Tân Từ cùng ra ngoài.

Mạnh Thiên Tư vội vàng ngồi thẳng dậy, hết vuốt thẳng tóc lại chỉnh trang vạt áo, cuối cùng mới quay mặt về phía chiếc iPad được dựng thẳng trong giá đặt trên kỷ trà.

Trong màn hình, me lớn Cao Kinh Hồng đang bỏ tách cà phê xuống.

Bà đã qua tuổi bảy lăm nhưng vì chịu khó giữ gìn nên trông mới chỉ hơn sáu mươi, sắc mặt hồng hào, mái tóc ngắn xám bạc uốn xoăn để xõa tự nhiên, phong cách rất giống kiểu tóc gợn sóng thời dân quốc, mặc âu phục màu trắng cổ tròn khuy vàng được may rất vừa người, trên tai đeo khuyên ngọc trai nạm vàng, môi tô một lớp son đỏ san hô nhạt.

Đã định là không thể bày hình tượng phụ nữ tinh tế trước mặt me lớn, Mạnh Thiên Tư bèn vò mẻ chẳng sợ sứt, chớp mắt thả lỏng rồi nịnh nọt: “Me lớn, trông me thời thượng ghê.”

Cao Kinh Hồng cười khẽ, đến nếp nhăn nơi khóe mắt cũng khiến người xem cảm thấy thoải mái: “Bé Tư, ngồi ngay ngắn lại đi, con gái con đứa đừng bệ rạc như thế.”

Mạnh Thiên Tư dứt khoát càng thêm tùy tiện hơn, cô nhìn bài trí sau lưng Cao Kinh Hồng: “Me lớn, me đang ở Phường Quế Non à?”

“Ở Thượng Hải, mấy ngày nay đang có buổi trình diễn nhạc kịch kinh điển của Broadway, bỏ qua đáng tiếc lắm.”

Nói đến đây lại nhuốm màu cảm thán: “Mới đó mà đã nhiều năm vậy rồi, những năm ba mươi thời Dân quốc, me Đoàn của me đã xem chiếu bóng phim Mĩ ở đây, sau đó khi dẫn me tới, nơi này đã đổi tên thành Rạp Chiếu phim Bắc Kinh rồi, con nói xem, rõ ràng là ở Thượng Hải, để tên Bắc Kinh làm gì chứ. Bây giờ lại đổi lại rồi, có cả biển hiệu đèn led nữa, tên là Majestic, tiếc là me Đoàn đã ra đi từ lâu.”

Mạnh Thiên Tư không tiếp lời.

Me Đoàn chính là Đoàn Văn Hi, Mạnh Thiên Tư không biết nhiều về bà lắm, chỉ nghe nói bà độc thân một đời, nhận Cao Kinh Hồng về làm con nuôi, kỳ thực Cao Kinh Hồng lớn lên sau giải phóng, song vì có người mẹ nuôi từng đi Tây này nên vẫn luôn ăn mặc kiểu Tây Âu.

Lúc này Cao Kinh Hồng mới cẩn thận quan sát cô: “Bé Tư, mắt con sao thế?”

“Lúc vào núi không biết bị con côn trùng lợi hại gì đốt nữa, không có chuyện gì lớn, chỉ là bị sưng lên nhìn xấu thôi me.”

Cao Kinh Hồng cười: “Con thật là, chắc chắn là lại ngại phiền phức không chịu mang theo chuông vàng rồi đúng không, núi nguy hiểm hơn con nghĩ nhiều, bao nhiêu năm như vậy mà bọn me cũng chẳng thể hiểu rõ nó được – con phải mang nó theo đó, đó là bùa hộ mệnh của con.”

Mạnh Thiên Tư không yên lòng, đang do dự không biết có nên nói thẳng chuyện chuông vàng ra hay không thì Cao Kinh Hồng lại cất tiếng: “Me đã nghe chuyện hộ núi Ngọ Lăng chết thảm rồi, chuyện này con phải tra đi, nhà quỷ non chúng ta không thể để người ta ngồi lên đầu thế được.”

Mạnh Thiên Tư gật đầu: “Đương nhiên rồi ạ.”

Nói xong câu này, cả hai bên đều yên lặng một lúc lâu, Cao Kinh Hồng không lên tiếng nhưng cũng không ngắt máy, lúc này Mạnh Thiên Tư mới cảm thấy bầu không khí có phần vi diệu.

Một lúc lâu sau, Cao Kinh Hồng mới bảo cô: “Bé Tư.”

Giọng điệu nhiều thêm phần nghiêm túc, Mạnh Thiên Tư hơi thấp thỏm.

“Thực ra chuyến này me đến Thượng Hải cũng là để tiện đường kiểm tra sức khỏe, trưa nay ngủ còn mơ thấy me Đoàn.”

Nói câu này nghe rất bình tĩnh nhưng câu nào câu đấy đều có ý khác, Mạnh Thiên Tư cũng không hỏi nhiều: Hiểu vậy là được rồi, có một số việc không cần phải làm quá rõ.

Cao Kinh Hồng cười nhẹ: “Me và các cô con vẫn thường nói, cuộc sống bây giờ tốt lành, bình an vô sự, con ngồi trên ngai vàng quỷ non, là người hưởng phúc nhiều nhất, muốn gì có đó, nghĩ gì làm nấy, thỉnh thoảng xảy ra chút chuyện cũng có Kình Tùng giải quyết cho rồi, không cần con phải nhọc lòng, con chỉ cần xinh đẹp tràn đầy sức sống ngồi đó là được. Giống y như là…hoàng đế trông giữ giang sơn vậy, lên triều một hồi, dạo vườn hoa một vòng, gió thổi không lạnh mưa rơi không ướt, chưa từng phải chịu khổ gì…”

Nghe đến câu cuối, bàn tay Mạnh Thiên Tư đặt bên người cuộn lại thành nắm đấm, môi hơi mấp máy như muốn nói gì đó xong lại thôi, sau cùng mỉm cười: “Số con tốt vậy đó.”

Cao Kinh Hồng nói: “Phải, me cũng hiểu thế, cứ như vậy rất tốt, có thể cả đời như vậy là tốt nhất, nhưng lần này kiểm tra sức khỏe xong, me lại nghĩ, các cô bác con rồi sẽ đến lúc phải ra đi, lời cáo biệt này nói bắt đầu là bắt đầu ngay được.”

“Bé Tư, me cảm thấy, thời điểm các cô bác con đều nhắm mắt xuôi tay chính là lúc bản thân con phải giải quyết mọi chuyện. Trẻ con ra ngoài bị ức hiếp sẽ chạy về tìm người lớn giải quyết cho, nhưng không ai có thể giải quyết hộ được cả đời, người già mà làm tay vịn thì thể nào cũng sẽ sụp.”

“Trước đây lúc nào cũng sợ con phạm sai lầm, giờ nghĩ thông suốt rồi, sai cũng không quan trọng, nhân lúc các cô bác còn sống, sai rồi còn có thể sửa chữa chỉ điểm cho con. Chuyện đúng sai, không phải là đi đường này thì chính là đi đường kia, chỉ cần không phải đường cùng thì thế nào cũng sẽ đi tiếp được.”

Mạnh Thiên Tư tranh luận: “Lỡ như là đường cùng thì sao?”

Cao Kinh Hồng nói: “Bây giờ con đang ở Tương Tây đúng không, Tương Tây có một đại văn hào, tên là Thẩm Tòng Văn, khi về già me Đoàn rất thích đọc sách của ông ấy.”

“Ông ấy có câu thế này, ‘Một chiến sĩ không phải chết trận nơi sa trường thì chính là trở về cố hương’, me và các cô con cũng đã bảo nhau, bọn me nên thấy mệt, chuyện cần làm đều đã làm rồi, cũng nên uống ngụm trà, xem vở kịch, sống một cuộc sống nhàn hạ, chuyện trên đời có mượn thêm trăm năm thọ nữa cũng chẳng nhọc lòng hết được. Giờ giao lại gậy, đã đến lúc con nên ra sân.”

“Con đường phía trước ra sao, kết thúc thế nào, con tự có vận mệnh của con. Cũng không thể sợ con chết sợ con thua, cứ bảo vệ mãi giữ gìn mãi như thế thì không nhắm mắt được – ngồi trên ngai vàng quỷ non không thể là một người khiếp nhược như thế.”

Nói tới đây, Cao Kinh Hồng cầm vé xem kịch giơ lên vẫy vẫy trước camera: “Me ngủ đây, dưỡng đủ sức mới có tinh thần đi xem ca kịch.”

***

Cuộc gọi kết thúc, Mạnh Thiên Tư ngồi thẫn thờ một lúc lâu.

Hơi rầu rĩ vì lời trong lời ngoài Cao Kinh Hồng đều có ý đại nạn lâm đầu, nhưng nhà có người già, ít nhiều đều phải chuẩn bị tâm lí này: cũng hơi vô lý, ở đây có người chết, me lớn lại chỉ vẫy vẫy vé xem kích, nhẹ nhàng tỏ vẻ mình không liên quan – có điều nghĩ lại, người không còn nhiều thời gian có tư cách tùy hứng mà.

Một chiến sĩ không phải chết trận nơi sa trường thì chính là trở về cố hương, câu này dùng để ẩn dụ cuộc sống của một người dường như cũng đúng: thời niên thiếu chuẩn bị chiến tranh, lớn lên rồi là trên sa trường, khi về già chính là cố hương, biết bao người chết trên sa trường, không thể trở về cố hương.

Trong vận mệnh của cô cũng chẳng biết có ngày trở về cố hương hay chăng.

Thẫn thờ một lúc, Mạnh Thiên Tư lấy điện thoại nhắn tin cho Mạnh Kình Tùng.

Mang bản đồ núi Tương Tây lên cho tôi.

***

Bên này, Cao Kinh Hồng buông vé xem kịch xuống nhưng lại không đi ngủ ngay, tay bà hơi run run, nói nhiều như vậy, thở có hơi khó thông.

Liễu thư nhi bên cạnh vội tới vuốt lưng cho bà.

Liễu thư nhi phụ trách chăm sóc sinh hoạt hằng ngày cho Cao Kinh Hồng, lúc mới nhận chức thì đúng là một thư nhi, giờ đã là gái có chồng rồi. Thím không thích trang điểm, cũng không mặc quần áo sặc sỡ, trước giờ vẫn luôn chỉnh trang cho mình thật gọn gàng nhanh nhẹn.

Cao Kinh Hồng khoát tay, ra hiệu mình không sao, lại hỏi thím: “Có tin tức gì của Cát tiên sinh chưa?”

Liễu thư nhi thuận tiện thu giá đỡ lại: “Ý chị là ông Cát Đại Đui ấy ạ? Không có, chỉ biết ông ấy chắc chắn đang ở phía bắc Trường Giang, du hành khắp nơi. Ôi, cũng thật đáng tiếc, có tài đoán quẻ xem số tốt như vậy mà lại tự chà đạp mình thành ra y như một kẻ lang thang, haiz…”

Thím hạ giọng, nghe có vẻ thần bí: “Em nghe người ta nói, làm nghề như họ, nhìn thấu vận mệnh trần thế, để lộ quá nhiều thiên cơ, thường đều không tránh khỏi ‘nghèo khó, chết yểu, cô quả’. Không phải ông ấy có một cậu em à, Cát Nhị Đui, nghe nói sống cũng không tốt, đã sớm đui mù rồi.”

Dòng nhà họ Cát có hai anh em, Cát Đại Cát Nhị, là hảo thủ đoán quẻ xem số độc nhất vô nhị, nhầm, độc nhị vô tam trên đời.

Dòng đoán quẻ này chỉ bát quái trong Chu Dịch, tuy nói phức tạp huyền diệu nhưng trên đời cũng không thiếu người tinh thông, có một số đại học lớn còn mở lớp giảng dạy, chuyện nghiên cứu Kinh Dịch, bởi vậy nên hai anh em họ Cát biết đoán quẻ cũng chẳng phải việc gì hiếm lạ, hiếm là ở chỗ cặp đôi bảng hiệu này có thể xem được số mệnh người.

Có điều, vẫn câu cũ, thiên cơ bất khả lộ, mắt xem nhiều những cái không nên thấy tất sẽ bị tổn thương, người nhà họ Cát cứ có tuổi là về cơ bản đều sẽ mù.

Cao Kinh Hồng thở dài: “Cát Nhị Đui thì thôi khỏi nói, nghe bảo lão đó lòng dạ bất chính, vì tiền chuyện bẩn gì cũng làm được, nhưng Cát Đại tiên sinh thì sao có thể so cùng lão ta được chứ? Ông ấy không vừa mắt thủ đoạn của em mình, lấy Trường Giang làm ranh giới phân chia với Cát Nhị, một người không xuống Giang Nam, một người không qua Giang Bắc, tức là cả đời không gặp. Hơn nữa, Cát Đại tiên sinh rất có thể vì xem số cho bé Tư nên mới mù! Cô sao vẫn cứ không biết kính trọng thế chứ, mở miệng ra là gọi xằng gọi bậy ‘đui mù’ lung tung.”

Liễu thư nhi nín bặt, thím có biết chuyện năm đó.

Đó là năm Mạnh Thiên Tư bắt vòng núi.

Bắt đồ vật đoán tương lai là tập tục truyền thống của người Trung Quốc, vào năm đứa trẻ tròn một tuổi, bày đủ loại đồ vật trước mặt nó, xem xem nó bắt lấy cái gì, sau đó dự đoán hướng đi nghề nghiệp tương lai của nó, ví dụ như bắt con chuột máy tính thì là sẽ làm lập trình viên, bắt gậy selfie thì rất có thể sẽ khí thế ngất trời làm livestreamer.

Bắt vòng núi thì khác, bắt vào năm ba tuổi, cái bày trước mặt là trăm ngàn núi non – dùng đá lấy từ trăm ngàn ngọn núi tới tạc thành hình những quả trứng lớn, bày kín khắp phòng, quỷ non phải thân núi, bắt cái nào thì đó chính là núi bản mạng.

Còn bởi “ba tuổi xem tám mươi (*)” mà mời Cát Đại tiên sinh tới xem số cho Mạnh Thiên Tư, vậy nhưng hoàn toàn không ngờ rằng ngã rẽ nằm chuyện “xem số” này.

(*) Ý nói có thể dự đoán được tích cách của một người từ năm người đó ba tuổi cho đến năm tám mươi tuổi, tức bản tính.

Cát Đại xem không ra.

Nói chính xác thì ban đầu rất ổn, thời niên thiếu thông thuận, nhưng sau khi trưởng thành thì ông ta càng xem càng khó khăn, cuối cùng triệt để không xem ra được, theo lời ông thì dường như có một thế lực thần bí nào đó ngăn cản ông, hoặc giả, rãnh vực nằm ngang trước mặt quá lớn, ông không bước qua được.

Điều này rõ ràng chẳng phải dấu hiệu tốt lành gì, Cao Kinh Hồng nổi lên tâm lý giấu bệnh sợ thầy, cảm thấy không tra không hỏi không tìm hiểu kĩ thì sẽ không sao, nghĩ coi như không có gì, nhưng Cát Đại khi đó đang độ tráng niên, kiêu ngạo vô cùng, nhất định phải xác thực bản thân cho bằng được. Ông tự nhốt mình trong phòng, trên bàn bày đầy vật riêng của Mạnh Thiên Tư, ví dụ như ảnh chụp, dấu chân in xuống sau khi sinh ra không lâu, giấy ghi bát tự, tóc máu…

Nhốt mình một ngày một đêm, cũng xem một ngày một đêm.

Hôm sau, tiệc tàn, tiễn khách, Liễu thư nhi đi xem Cát Đại, không gõ cửa, gõ cửa không thấy ra, gọi cũng không trả lời, thím sợ xảy ra chuyện không may, lấy chìa khóa dự bị ra mở cửa, vừa vào phòng lập tức ngây người.

Cát Đại ngồi trơ trước bàn, cũng không biết đã hao tổn bao nhiêu sức lực mà hai má hóp lại, đôi mắt mở trừng, con ngươi không một tia sáng nhìn thím chằm chằm, nhìn lại lần nữa, trong tròng mắt mọc đầy vụn màng trắng như mù lòa.

Liễu thư nhi sợ hết hồn, lảo đảo chạy đi tìm Cao Kinh Hồng, đợi đến lúc hai người quay lại, Cát Đại đã không thấy đâu nữa.

Trong phòng ngổn ngang lộn xộn, đồ đạc ném lung tung khắp sàn, còn có vài mảnh giấy viết chữ bay xuống.

Cao Kinh Hồng nhặt tờ giấy nhiều chữ nhất lên, Liễu thư nhi tò mò, cũng sáp lại xem.

Là một bài kệ.

“Trước là vinh hoa sau mênh mang, đoạn tục rời cành tiến đại hoang.

Núi không thành tiên nhận vải mục, nụ cười người đá trơ tháng năm.”



Cao Kinh Hồng ho khan, Liễu thư nhi hoàn hồn, vội đấm lưng cho bà, lại bưng nước qua: “Chị Hồng, chị đừng lo lắng quá, không phải Cát Đại tiên sinh đã nói thực sự xem không ra sao, kinh kệ, chính ông ấy cũng không tham khảo ra được là nói gì – chuyện không xem ra chắc gì đã là chuyện xấu, lỡ là chuyện tốt thì sao?”

Cao Kinh Hồng nhấp một ngụm nước, cơn ho hơi hoãn lại, mặt ửng đỏ vẻ ốm đau, lẩm bẩm: “Nói thì nói vậy nhưng tôi cứ thấy bất an, chỉ sợ bé Tư nhà mình…mệnh không tốt.”
 
Quyển 2 - Chương 9


Bản đồ núi là do nhiều thế hệ quỷ non dò núi vẽ ra, bao gồm dáng núi, thế núi và những nơi cổ quái trên núi, ghi chú vô cùng tường tận, bởi “bản đồ núi không rời núi” nên đều được cất ở các nơi, cũng không tập hợp lại để ở Phường Quế Non.

Hai ngày trước, Mạnh Kình Tùng cũng đã điều động mang bản đồ núi Tương Tây tới Vân Mộng Phong, cất riêng trong một phòng trọ, nghe cô nói muốn xem, vội phân phó Liễu Quan Quốc dẫn người vào phòng treo lên.

Tân Từ ở chếch đối diện Mạnh Thiên Tư, nghe thấy động tĩnh cũng ló đầu ra hóng, chỉ thấy hai người Liễu Quan Quốc và Khưu Đống đang chuyển từng chuyến những trục cuốn từ căn phòng trọ cuối cùng tới phòng Mạnh Thiên Tư.

Ghé sát lại nhìn mới nhận ra đó không phải trục cuốn mà là những ống cuộn dùng để cất giữ tranh ảnh, cũng không biết làm bằng loại mây tre cỏ cây gì mà mùi rất kì lạ, rất có vị thuốc bắc, khá chắc là để phòng mọt đuổi trùng, trên mỗi ống đều dán ký hiệu, như là “kinh ba vĩ hai”, “kinh sáu vĩ tám” vân vân.

Chờ đến lúc mở ống cuộn, rút lõi ra, đều là những mảnh da thuộc ngả màu da bò già, hai mặt trên dưới bôi một lớp dầu không rõ là dầu gì, khiến mặt giấy nhìn bóng loáng, bên trên chằng chịt những nét bút cực nhỏ.

Liễu Quan Quốc dẫn theo Khưu Đống chuyển bàn dời ghế, dành ra một mặt tường lớn để trống, sau đó dùng đinh dẻo ráp từng mảnh da thuộc lên theo thứ tự. Lúc này Tân Từ mới hiểu ra ký hiệu trên ống cuộc là hai điểm định vị, kinh là trục tung, vĩ là trục hoành, bức hình này rất lớn, đến đến khi ráp xong thì cả một mặt tường gần như đều bị che kín cả rồi – trên đó là dáng núi thế sông, đường đi thôn trại, nhìn rất sống động, mồn một ngay trước mắt.

Có điều cách vẽ bản đồ kiểu cổ của Trung Quốc cũng giống như sa bàn tác chiến vậy, xem mà hệt như xem “vẽ”, chẳng hạn như có một vài đỉnh núi còn điểm thêm đường nét cây tùng. Tân Từ sáp lại gần Mạnh Thiên Tư, hạ giọng: “Thực ra tội gì phải xem cái này, khó chết được, cô mở bản đồ Google lên đi, đều là ảnh chụp vệ tinh cả, cần dùng là xem được ngay.”

Không ngờ tai Liễu Quan Quốc lại đặc biệt thính: “Tôi biết cái cậu nói, bản đồ Google gì chứ, chỉ là vẽ da vẽ lông mà thôi, bản đồ núi của chúng tôi mới là vẽ xương.”

Tân Từ cười cười khách khí, trong lòng thầm nguýt: Coi thường hắn xem không hiểu à, cái này liếc cái là hiểu, xương xẩu quái gì.

***

Sau khi chỉnh lý xong xuôi, Mạnh Thiên Tư đuổi những người khác đi, chỉ ra hiệu cho mình Mạnh Kình Tùng ở lại.

Mạnh Kình Tùng lòng sáng như gương, không đợi cô phân phó đã mở giành quỷ non ra, lấy một người đồng cao chừng một gang tay ra. Gương mặt người đồng này dữ tợn xấu xí, có thể so với dã quỷ, hai tay đang cáu kỉnh gãi đầu – Mạnh Kình Tùng nắm lấy búi tóc trên đỉnh đầu nó, vặn khẽ một vòng, xoay nửa cái đầu xuống.

Thì ra người đồng này rỗng ruột, tiết diện dẹt nhỏ, nhìn khá giống mắt người, bên trong chứa đầy dầu sáp màu đen đã đông lại, ở giữa tòi ra đầu mút bấc đèn màu đỏ tươi, là một giá nến được chế tác tinh xảo, giá nến này có kèm theo bật lửa, chỉ cần nắm một chân người đồng kéo mạnh ra ngoài rồi thổi nhẹ một hơi, lửa sẽ bùng lên, cùng nguyên lý với quẹt diêm.

Làm xong, Mạnh Kình Tùng lui xuống cạnh chân tường, vươn tay bấm công tắc tắt đèn.

Trong phòng tối om, chỉ nghe thấy tiếng phát ra khi Mạnh Thiên Tư di chuyển, lát sau, chợt nghe “xoẹt” một tiếng, bật lửa lóe lên ánh lửa màu cam, phút chốc, ngọn nến được châm lên.

Ánh nến này khá kỳ dị huyền ảo, ở bấc nến có màu bạc trắng, ra ngoài dần chuyển màu đỏ tía rồi tím lạnh, dầu sáp xung quanh óng ánh, trong bóng tối nhìn rất giống một con mắt đột ngột mở bừng, đây là “mắt lửa nhận hình” chuyên dùng để xem bản đồ núi.

Mạnh Thiên Tư giơ cao mắt lửa lên để sát vào bản đồ núi, kể cũng lạ, phàm chỗ nào được ánh nến chiếu tới, trên bề mặt sẽ hiện lên những đường nét tỏa ra như tơ máu, hoặc là chú giải, hoặc là phác họa, đây mới là thành quả chân chính của dò núi, trong bản đồ có bản đồ, trong họa có họa.

Cô gọi Mạnh Kình Tùng: “Anh qua đây xem này.”

Mạnh Kình Tùng lại gần thì trông thấy ngọn nến mắt lửa đặt nghiêng, trên bề mặt bò ra một vách rìa ngoằn ngoèo, đó là vách rìa Miêu Cương, còn gọi là Nam Trường Thành – thời Minh, dân Miêu không phục sự quản chế của triều đình, để ngăn chặn xâm phạm biên giới, quân đóng giữ đã lục tục xây một vách rìa dài gần bốn trăm dặm, tách Miêu Sống và Miêu Chín (*), cho rằng phía bên ngoài tường là “dân vùng thiếu văn minh”, còn nghiêm lệnh “Miêu không xuất cảnh, Hán không nhập động”.

(*) Người Hán xưa chia người Miêu ra làm hai loại, Miêu Sống (生苗) chỉ tộc Miêu không chịu ảnh hưởng của văn hóa người Hán còn Miêu Chín (熟苗) thì ngược lại, khu vực sinh sống của Miêu Sống đều là địa khu chịu ràng buộc, không được chân chính vẽ vào bản đồ.

Mạnh Kình Tùng nói: “Còn có một đường vách rìa nhỏ phải không?”

Mạnh Thiên Tư gật đầu: “Đúng vậy.”

Cô dời mắt lửa đi, trên bề mặt quả nhiên lại hiện ra một đường đứt quãng.

Người đời đa số đều biết đến vách rìa Miêu Cương, tức vách rìa lớn, nhưng vách rìa nhỏ lại hiếm có ai biết.

Thì ra, quân trú đông khi trước sợ Miêu Sống làm loạn, nhưng người Miêu cũng sợ quân trú đóng xâm phạm, dù họ không có tài lực xây Trường Thành nhưng Miêu Sống có rất nhiều thầy mo, giỏi nuôi cổ vẽ bùa, hiểu đạo lý biến hóa sinh khắc – họ dựa theo địa thế, dáng núi, nơi hiểm yếu mà thiết lập rất nhiều cơ quan bí hiểm, những bẫy rập lấy mạng, đường đi rải rác, không phải vách rìa mà vượt qua vách rìa, thường gọi là vách rìa nhỏ.

Có điều quân biên phòng thực chất rất dè chừng Miêu Sống, tránh còn chẳng kịp, sao có thể nổi dậy chinh phục nơi sơn cùng núi hiểm mù mịt chướng khí vô vàn trùng độc này, lâu dần, vách rìa nhỏ cũng từ từ chìm vào quên lãng.

Mắt lửa chuyển khỏi hai vách rìa lớn nhỏ, tiếp tục đi vào trong, dừng lại giữa một mảng chọc trời những cột rừng đá rộng lớn.

Đó là hình dáng của rừng đá ráp thạch anh điển hình của Trương Gia Giới: những cột đá cao lớn với những góc cạnh thẳng sắc như được rìu đục tạc thành phân bố rải rác trong hẻm núi khổng lồ, rừng thẳm chằng chịt dây mây, xanh um tươi tốt – nghe nói trăm triệu năm trước, nơi này là một vùng biển cổ, trải qua mấy phen biến động vỏ Trái Đất, bị phong hóa, thủy thực, bấy giờ mới hình thành nên kiểu địa mạo hiếm thấy này. Khuôn mẫu núi nổi trong bộ phim bom tấn “Avatar” của đạo diễn người Mĩ James Cameron chính là được lấy từ nơi này.

Nói một cách công bằng thì Đại Vũ Lăng Nguyên được xưng là “non lạ ba ngàn, nước hiếm tám trăm”, chẳng hề kém cạnh Hoàng Sơn chút nào, không thể lọt vào mắt Từ Hà Khách, rớt khỏi cuộc tranh đấu xếp hạng danh sơn Trung Hoa một cách đáng tiếc, nhưng thật sự cũng chẳng phải tại nó – Từ Hà Khách chưa từng tới Trương Gia Giới, ghi chép về những nơi ông ta đến quá nửa đều là du ký, nhưng phần đề cập đến đất Tương lại ghi là “Nhật ký gặp cướp ở sông Tương”, khi đó đỗ thuyền qua đêm, gặp phải giặc cướp trắng trợn vung đao chém loạn, thân bất do kỷ nhảy xuống nước chạy trốn, khốn đốn đến mức chỉ còn lại một chiếc áo lót dài lửng chỉ tới ngang eo, phải mượn người lái đò manh vải rách, “uống gió cắt xương, cát đá toác chân” giữa trời đông buốt giá, đoán chừng cũng chẳng còn hứng thú mà đi phẩm non luận núi nữa.

Mạnh Thiên Tư chậm rãi di chuyển mắt lửa ở đây, trống ngực Mạnh Kình Tùng nổi lên: rừng đá này cũng không phải không có lai lịch, quỷ non gọi là “rừng đá treo túi mật”, là nơi đặt túi mật núi, Mạnh Thiên Tư chòng chọc xem chỗ này hẳn là có gì đó khác lạ.

Quả nhiên, cô mở miệng hỏi y: “Chuyện cấp bách quan trọng nhất của chúng ta bây giờ là làm gì?”

“Người chết lớn nhất, mạng người quan trọng, hiện giờ chúng ta hẳn là nên dồn hết toàn lực tìm ra hung thủ giết Lưu Thịnh.”

Mạnh Thiên Tư gật đầu, đổi đề tài: “Vậy vốn chúng ta tới Tương Tây là để làm gì?”

Đương nói, dưới mắt lửa đã ẩn hiện vài hàng chữ nhỏ hình dạng đầu tằm đuôi nhạn theo thể chữ Lệ màu đỏ tươi, xâu chuỗi thành mấy câu: “Đầu mỹ nhân, trăm hoa hổ thẹn, mắt nhỏ dầu, lưỡi chạy lung tung, không gan không ruột treo túi mật, có sinh có tử một tim đời…”

Mạnh Kình Tùng nín thinh không đáp, đây là bài kệ về túi mật núi được lưu truyền từ cổ xưa, kể cũng lạ, ghi chép để lại sau khi quỷ non dò núi đa số đều rất tường tận, rất nhiều bản đồ thậm chí còn có thể đối chiếu theo tỉ lệ thực, nhưng chỉ duy mấy bài kệ là suy đoán mơ hồ, giấu kín như bưng.

Mạnh Thiên Tư đọc kĩ mấy hàng chữ: “Ban nãy trong đầu tôi đột nhiên nảy ra vài ý nghĩ, quỷ non chúng ta xưa nay không có kẻ thủ, không có đối thủ, sao bỗng dưng đến nơi này mới thấy máu mất mạng? Tôi cũng đã hỏi Liễu Quan Quốc, hộ núi Ngọ Lăng luôn bỏ tiền trừ họa, dĩ hòa vi quý, trước nay chưa từng có xung đột với bất kì ai.”

Trong lòng Mạnh Kình Tùng khẽ động, liên hệ trước sau, mọi việc dần hiện ra đầu mối: “Ý cô là mục đích của hung thủ không nhằm vào Lưu Thịnh mà là không muốn cho chúng ta mổ núi?”

Vẫn câu cũ, có một số việc không thể nghĩ tỉ mỉ, càng nghĩ càng cảm thấy đúng là có chuyện như vậy – Mạnh Thiên Tư tới Tương Tây là vì túi mật núi, mở tiệc đãi khách chỉ là một bữa phải phép cho đúng lễ nghi, nhưng Lưu Thịnh bị sát hại đích xác đã bẻ ngoặt trọng tâm, chuyện túi mật núi phải gác lại ra sau…

Trống ngực Mạnh Kình Tùng dồn dập: “Nhưng người biết chuyện này chỉ có…”

Người trong nhà tuyệt đối sẽ không nói lung tung ra ngoài, cô bảy để lọt cũng chỉ là vô tình lỡ lời, chẳng lẽ mồm lão Thần Côn kia lại rộng đến vậy, rêu rao khắp nơi để người hữu tâm nghe thấy?

Mạnh Thiên Tư cũng nghi ngờ chỗ này: “Thần Côn đâu?”

“Được Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ dẫn sang Vũ Lăng Nguyên leo núi rồi, tôi nói với Thần Côn là việc này vẫn đang trong quá trình chuẩn bị, không vội, bảo ông ta chơi vài ngày trước, ông ta tưởng thật, vô cùng vui vẻ rời đi.”

Chuyện Lưu Thịnh bị giết hại cũng không rảnh thông báo cho hai Thẩm.

Mạnh Thiên Tư trầm ngâm một hồi: “Bảo hai người kia theo dõi sát sao, ngủ cũng phải mở một mắt, Thần Côn có gì không đúng lập tức báo lại ngay; chuyện Lưu Thịnh phải tra ra sao thì tra thế ấy; mặt khác, gióng trống khua chiêng tỏ ra chúng ta đang chuẩn bị tiến vào vách rìa nhỏ.”

Nếu quả thật mục đích của hung thủ là để ngăn cản cô mổ núi thì khi thấy biện pháp giết người này không có hiệu quả rất có thể sẽ lại ra tay lần nữa, cô treo cao mồi câu, đợi hắn mắc câu vậy.

Phân phó xong, Mạnh Thiên Tư không nói gì nữa, dời mắt lửa xuống, dừng lại bên bài kệ.

Ở đó còn có một dòng đề chú nhỏ nữa, viết rằng “Kinh kệ cái gì, nhảm nhí”.

Lạc khoản: Đoàn Văn Hi.

***

Cùng lúc đó, Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ đang đưa Thần Côn đi ăn đêm.

Hai người này thực ra không có quan hệ huyết thống gì, nhưng cùng họ Thẩm, bằng tuổi nhau, tính cách cũng giống nhau, may là ngoại hình bù đắp lẫn nhau nên cũng dễ phân biệt: Thẩm Vạn Cổ cao béo, mắt nhỏ, lông tóc thưa thớt, tóc trên đầu lại càng quý báu, che ở giữa thì hở bốn phương, đắp bốn phương thì giữa nguy hiểm, bởi vậy nên ngày nào cũng phải sắp xếp hợp lý, suy tính chải từng sợi một.

Thẩm Bang thì gầy lùn, mắt to, không chỉ tóc dày mà trên người chỗ nào có lông là chỗ đó rậm rạp, nhất là lông chân, nói hơi ngoa một chút thì tết thành bím cũng khả thi.

Hai người này hạn hạn chết, lụt lụt chết, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, rất hợp cạ với nhau, ra ngoài làm việc cũng thường là hai người đi chung, ghép vào gọi là hai Thẩm.

Vừa hay cũng ăn nồi ba thả, còn chọn thêm đồ nướng, lấy củ cải muối làm món nhắm rượu, ba người ở chung với nhau chừng mười tiếng đồng hồ, cũng đã quen thân, Thần Côn hớp một ngụm rượu, mặt mày đỏ rực, tiếp tục kể cho hai người nghe những trải nghiệm du hành gặp nạn của mình mấy năm trước.

“Con cổ trùng lúc đó tôi thấy to thế này, dài thế này này.”

Lão khua tay minh họa.

Thẩm Vạn Cổ nhíu mày: “Con cổ trùng này sao có vẻ giống bắp ngô thế, tôi nghe người già kể, Tương Tây chúng tôi cũng có cụ bà nuôi cổ nhưng cổ họ nuôi đều chỉ nhỏ thế này thôi.”

Gã xòe một gang tay ra, thấy vẫn dài quá, lại rút ngắn lại.

Thẩm Bang đang nghe say sưa, chê Thẩm Vạn Cổ lắm lời: “Không phải đã bảo là lấy thân nuôi cổ rồi à, dinh dưỡng tốt thôi. Hơn nữa, cổ nội Côn gặp là cổ người Hắc Miêu đất Điền, hẳn là có khác biệt với cổ người Miêu đất Tương chúng ta rồi, có thể bên đó giống cổ của người ta lớn.”

Thần Côn tiếp tục: “Tôi bèn chém một dao qua, ai ngờ lại chém thành hai nửa, hai nửa đều biết chạy, nếu để chạy thoát thì phải làm sao? Tôi thét lên một tiếng, ngồi phịch xuống đè chết một nửa, tay cũng không để lỡ, xoạt xoạt xoạt, chém chém chém, giáng chết luôn cả nửa còn lại.”

Thẩm Bang nhíu mày đến rúm ró cả khuôn mặt: “Vậy mông nội có bị làm sao không?”

“Sao có thể không sao, nứt xương, không thể nằm ngửa, ngủ sấp mấy tháng liền đó.”

Thẩm Vạn Cổ hít mạnh một hơi lạnh, vội rót rượu cho Thần Côn: “Lợi hại lợi hại, nội Côn dũng mãnh quá, kính…”

Gã định nói “kính cái mông chú”, lại cảm thấy không được lịch sự cho lắm: “Cạn, cạn chén!”

Thần Côn đắc ý vô cùng, một hớp cạn chén. Lão không biết uống rượu, dù đây chỉ là rượu đế ngọt song hai chén vào bụng cũng đã bốc lên đầu, ánh mắt mơ mơ màng màng.

Lão mở to đôi mắt say lờ đờ, ngửa cổ lên nhìn đỉnh núi tối hù trên cao, thân núi Đại Vũ Lăng Nguyên vĩ đại, dù còn cách khu thắng cảnh một đoạn song nhìn trong đêm thế này vẫn có cùng cảm giác nó đang đè xuống ngay trên đỉnh đầu: “Tôi xem tờ rơi quảng cáo du lịch, thấy nói vùng núi này đã có lịch sử hai, ba trăm triệu năm rồi.”

Thẩm Vạn Cổ vừa đút một đũa thức ăn vào miệng, quai hàm phình ra, lúng búng nói: “Đúng đó, nội lơ đãng đá phải một cục đá nhỏ thôi cũng là đá cụ tổ của cụ tổ của cụ tổ nội rồi.”

Thần Côn hơi cảm khái: “Vậy cậu nói xem, vì sao người là linh hồn của vạn vật mà tuổi thọ lại ngắn như vậy?”

Thích xây nhà cất lầu, lại không thọ hơn được nhà lầu; thích tích cóp tài sản, lại chẳng thọ hơn được vàng bạc; thích khai ruộng mua đất…

Ha ha, bỏ đi, càng không thọ hơn được.

Miệng Thẩm Bang đang tuốt miếng thịt dê trên que xiên nướng xuống, thuần thục đớp hết miếng thịt dê vào miệng: “Nội Côn, núi không quý ở cao mà quý vì có tiên, mạng không quý ở thọ mà quý ở cảm xúc – người như chúng ta quan trọng nhất là sống sao cho có cảm xúc, làm đá có ý nghĩa gì chứ, hai ba trăm triệu năm vẫn chỉ là một cục đá, nói cũng không biết nói.”

Thẩm Vạn Cổ chen ngang: “Cũng có người sống thọ mà, ai ấy nhỉ, Bành Tổ (*) ấy, không phải thọ đến tám trăm tuổi sao?”

Thẩm Bang cười khẩy: “Nói dóc vậy ông cũng tin được.”

Thẩm Côn nói: “Tiểu Bang Bang, cậu nói vậy thiếu kiến thức quá rồi. Bành Tổ, rất có thể là…mạt đại…hức hức…mạt đại…”

Rượu xông lên óc lão, lưỡi trương ra, Thẩm Bang dỏng tai hồi lâu, cũng không nghe được phần sau “mạt đại” của lão là gì.

Mạt đại gì đây? Mạt đại hoàng đế? Đó không phải là Phổ Nghi à?

(*) Bành Tổ tức Bành Khang, là một nhân vật trong truyền thuyết Trung Hoa được cho là sống lâu gần 800 tuổi. (chi tiết sự tích ở cuối chương)

***

Buổi sáng vừa thức giấc, Mạnh Thiên Tư đã vội vàng soi gương kiểm tra tổn thương bên mắt trái.

Kỳ thực có thuốc bôi của bệnh viện, cộng thêm thuốc mỡ đặc biệt của quỷ non, tốc độ hồi phục đã có thể nói là thần tốc rồi, nhưng yêu cầu của phụ nữ đối với dung nhân mãi mãi là cái hộp không đáy, Mạnh Thiên Tư chỉ cảm thấy mí mắt phù thũng, mặt mày nhìn đáng ghét chết được.

Nghĩ lại đều tại Giang Luyện cả, Mạnh Thiên Tư uất nghẹn, cảm thấy trong phòng ngột ngạt muốn chết – cô kéo roẹt rèm che, mở toang cửa sổ.

Đêm qua tí ta tí tách, không khí nhuốm mùi bùn, mùi cỏ, mùi cây rừng, được sương sớm gột rửa sạch bong, vô cùng mát mẻ, tiếc là buổi sáng đẹp trời như vậy lại bị một cục phân chuột làm hỏng.

Mạnh Thiên Tư trông thấy Giang Luyện đứng trong sân, hai tay đút túi, dáng vẻ nhàn nhã, không ai để ý tới hắn, hắn tự chơi tự vui, lúc thì tản bộ hai bước, lúc thì ngồi xổm xuống, ngắt cỏ chọc kiến trong bồn hoa chơi, đầu hết nghiêng trái lại ngả phải, chính giữa có một cái xoáy, có thể thấy tương lai đến khi có tuổi, hắn hẳn sẽ bắt đầu hói từ đấy.

Lát sau, Giang Luyện như phát hiện ra điều gì, ngó quanh ngó quất, đến lúc ngẩng đầu lên thì Mạnh Thiên Tư đã ngồi lại về giường la hán.

Cô cầm chiếc quạt tròn quạt gió một hồi, càng quạt càng chậm, sau cùng vứt quạt sang một bên, đi mấy bước tới cửa, kéo giật cửa ra.

Mạnh Kình Tùng vừa hay đang đi tới cửa phòng cô, giật nảy mình.

Tốt, đỡ mất công cô gọi.

Mạnh Thiên Tư ra hiệu về phía cửa sổ: “Tại sao tên họ Giang kia lại ở Vân Mộng Phong?”

Sự tích Bành Tổ:

Thời xưa, nhà nọ sinh được một bé trai kháu khỉnh, mặt mũi sáng sủa, đặt tên là Bành Nhi. Có một vị thầy bói đi qua thấy chú bé liền thất kinh nói rằng: “Tội nghiệp, thằng bé đĩnh ngộ thế mà 10 tuổi đã phải chết!”

Cha mẹ cậu bé hoảng hốt, xin thầy cứu giúp. Thầy liền bảo cha mẹ cậu bé phải làm theo đúng các bước ông chỉ dẫn.

Sáng hôm sau, Bành Nhi bèn bưng một mâm đào vừa to vừa ngon lên núi, tới nơi thầy bói dặn, thì thấy ở nơi đó suối chảy, hạc bay, mây vờn tùng bách, trên một tảng đá phẳng có hai ông tiên đang ngồi đánh cờ tướng. Bành Nhi rón rén lại gần, nhẹ nhàng đặt mâm đào xuống rồi vòng tay ngồi đợi. Hai ông tiên mải đánh cờ, thấy có đào ngon bèn cứ thế cầm lên, vừa đánh cờ vừa thưởng thức đào.

Khi đánh xong ván cờ, hai vị tiên mới phát hiện ra chú bé dâng đào lấy làm thích lắm, bèn hỏi chuyện. Bành Nhi bèn kể hết mọi chuyện của cậu. Té ra hai vị tiên đó là Nam Tào và Bắc Đẩu, giữ sổ sinh tử trên Thiên đình. Giở sổ ra, hai ông thấy số tuổi của Bành Nhi đến số 10 là hết. Cả hai bèn bàn nhau thêm một nét phẩy lên trên chữ “thập”, biến chữ “thập” (十) thành chữ “thiên” (千, hay nghìn). Thế là Bành Nhi được sống đến nghìn tuổi. Từ sự tích này mới có câu “Sống lâu như ông Bành Tổ”.

Theo một truyền thuyết khác Bành Tổ mồ côi cha từ khi còn trong bụng mẹ. Lên ba tuổi thì mẹ cũng qua đời. Từ đó Bành Khang lớn lên trong cảnh lang thang.

Một hôm Bành Khang nấu một nồi canh gà rừng dâng lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ưng ý, và để trọng thưởng liền bảo: “Nhà ngươi đếm xem trên mình gà rừng có bao nhiều sợi lông màu sắc rực rỡ, thì nhà ngươi sông được bấy nhiêu tuổi”. Bành Khang tìm lại đống lông gà, đếm được 1000 sợi. Bành Tổ đã lẳng lặng trốn đến một vùng hẻo lánh phía tây nước Lưu Sa(?), để lẩn tránh sự dò hỏi của mọi người về bí quyết sống lâu, sống nốt quảng đời còn lại của mình.
 
Quyển 2 - Chương 10


Mạnh Kình Tùng đến tìm cô chính là để nói chuyện này.

Đêm qua, vừa chợp mắt không được bao lâu thì y nhận được điện thoại của lão Gàn, nói là Giang Luyện cứu được một cô gái ở sau núi, cô gái này bị người thần bí tập kích, lại gặp phải cọp ngựa vây đánh, thương thế không nhẹ, cần cứu chữa chuyên nghiệp.

Vì đã quá khuya, không tiện quấy rầy Mạnh Thiên Tư nên Mạnh Kình Tùng bèn tự mình sắp xếp: phái xe tới trại Bát Kháng đón người, lại điều vài người hành nghề y tế bên trạm non quê mang theo trang thiết bị cần thiết sang đây, dành một phòng trọ ra làm phòng cứu thương lâm thời ở Vân Mộng Phong, sau khi người bị thương được đưa tới tất nhiên là một phen bận rộn, đợi đến lúc xử lý xong xuôi thì đã là lúc này.

Trong lòng Mạnh Thiên Tư khẽ động: “Anh nghi ngờ người thần bí đó có liên quan tới Lưu Thịnh?”

Mạnh Kình Tùng gật đầu, bằng không y đã chẳng để bụng đến vậy: Lưu Thịnh bị giết, hung thủ chạy trốn bằng đường ra sau núi mà ngay sau đó, cô gái kia lại bị người thần bí làm bị thương ở sau núi – chuyện như vậy nói là trùng hợp thì cũng quá miễn cưỡng.

“Cô gái đó bị thương ra sao?”

“Máu me đầm đìa, nhìn rất ghê rợn, có điều bác sĩ nói không có gì đáng ngại, sau khi khâu vết thương và dùng thuốc thì có tỉnh lại một lúc, bây giờ đang ngủ,” Nói tới đây, Mạnh Kình Tùng hạ giọng, “Lúc cô ấy tỉnh lại, tôi đã tự mình hỏi thử, cô ấy nói có thấy được tướng mạo người kia.”

Tin tốt tới hơi đột ngột quá, Mạnh Thiên Tư chẳng lấy gì làm mừng rỡ, ngược lại còn thấy có quá nhiều điểm khả nghi: “Anh có phái người đi tra xét nơi phát hiện ra cô gái đó không?”

Không, Mạnh Kình Tùng chỉ tay ra ngoài cửa sổ: “Đi cũng vô dụng, sau nửa đêm hôm qua trời đổ mưa to, bất kể là vết máu hay dấu vết thì cũng bị trận mưa này rửa trôi mất rồi, giá trị tham khảo không cao.”

“Cọp ngựa là cái con mà hổ cũng phải sợ trong truyền thuyết đó hả?”

“Phải.”

“Những năm gần đây cọp ngựa gần như tuyệt tích, không thấy xuất hiện nữa, tại sao lại xuất hiện ở một nơi gần thôn trại như vậy? Hơn nữa loài vật này còn rất hiếm khi tấn công con người.”

Mạnh Kình Tùng xòe tay tỏ vẻ mình không trả lời được: Y có phải chuyên gia nghiên cứu về cọp ngựa đâu, sao đoán được nó nghĩ gì chứ.

“Còn nữa, nếu người thần bí kia thật sự là hung thủ, có thể kết liễu Lưu Thịnh bằng một dao thì tại sao đến lượt cô gái này lại chỉ là vết thương ‘không có gì đáng ngại’? Còn gặp phải cọp ngựa nữa chứ, cọp ngựa luôn moi ruột ăn nội tạng, sao lại khách khí với cô ta như thế?”

Mạnh Kình Tùng đã sớm dự liệu cô sẽ hỏi những điều này: “Là chúng ta may mắn, đổi lại là một cô gái bình thường thì đương nhiên là không thể… Nhưng cô gái này hôm qua có đến ăn tiệc cô mời, tên Bạch Thủy Tiêu, là một lạc hoa động nữ.”

Mạnh Thiên Tư im lặng hồi lâu, sau cùng mới lẩm bẩm một câu: “Bảo sao.”

***

Lạc hoa động nữ và cổ độc, cản thi nổi danh ngang nhau, được gọi chung là “Tương Tây tam tà”.

Đất Tương Tây vốn được mô tả là “chín non nửa nước nửa ruộng đồng”, đủ để biết là lắm núi, lắm núi cũng tức là lắm hang động đá vôi, người sống nơi đây đều là dân tộc thiểu số, từ xưa đến nay vẫn luôn có quan niệm thần tiên ma quái thâm căn cố đế, cho rằng vạn vật đều có linh thiêng, không thứ nào là không có: đã có thần cây, thần hoa thì dĩ nhiên cũng có thần động.

Những cô gái trẻ tuổi xinh đẹp chưa lấy chồng không thể tùy tiện tới gần sơn động, có nàng dâu xinh đẹp nào xuất giá, lúc kiệu hoa đi ngang qua cửa động cũng tuyệt đối không được đốt pháo – lỡ làm kinh động đến thần động, bị y nhìn trúng hút hồn đi mất sẽ trở nên điên khùng ngu dại, mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác, còn gọi là “lạc động”.

Gặp phải tình huống đó, cha mẹ đương nhiên lòng nóng như lửa đốt, đi mời lão vu tộc Miêu tới hang động “gọi hồn”, nhưng quá nửa là không gọi được, ý thần linh ai dám cãi lời?

Cô gái bị thần động nhìn trúng thường không người đàn ông nào dám lấy, mà bản thân cô gái đó một khi đã có thể lấy thần thì đương nhiên cũng không vừa mắt phàm phu tục tử nữa, một lòng chờ thần động đón dâu là được.

Có người nói sau khi lạc hoa động nữ lạc động sẽ càng lúc càng im lặng hướng nội, thích sạch sẽ, thích ăn diện, khí chất càng lúc càng xuất trần, ánh mắt càng ngày càng trong vắt, vẻ mặt thường mang nét cười dịu dàng, cơ thể tỏa ra hương thơm thoang thoảng kỳ lạ, cảm thấy mình đang đắm chìm trong hạnh phúc yêu đương cùng thần động, chẳng buồn liếc nhìn người đàn ông khác lấy một cái – sau khi lạc hoa động nữ lạc động, lâu nhất cũng chỉ ba năm rưỡi là qua đời, nhưng đó không phải là “chết” mà là được thần động tới đón, cha mẹ không thể đau khổ, phải vui mừng hoan hỉ, mang của hồi môn tới đốt bên động, chúc phúc cho họ trăm năm hòa hợp.

Trong sách của Thẩm Tòng Văn có viết về con gái lạc động như sau: “Con gái Tương Tây trong ba giai đoạn tuổi tác sẽ rất dễ xuất hiện cổ bà, nữ vu và lạc hoa động nữ – nghèo mà già thì dễ thành cổ bà; chừng ba mươi tuổi thì dễ thành vu nữ; từ mười sáu đến hăm hai hăm ba, xinh đẹp khả ái tính tình hướng nội mà việc cưới hỏi không như ý thì dễ lạc động rồi chết”, lại phân tích rằng con gái lạc động thực chất là những cô gái xã hội cũ gặp phải bi kịch bị bức bách cực đoan về mặt tính dục, những cô gái điên khùng này buồn khổ vì tình, nội tâm trầm cảm, chỉ có thể mượn danh bị thần động nhìn trúng để lấy cái chết thoát khỏi xiềng xích hiện thực.

Nhiều ý kiến khác cho rằng lạc hoa động nữ là một kiểu mê tín của Tương Tây, giống với việc dùng đồng nam đồng nữ tế bái Hà Bá thời xưa – hi sinh những cô gái miền sơn cước nghèo khổ này để tế bái thần động trong suy tưởng.

Chân tướng rốt cuộc ra sao, người ngoài không thể biết được. Mạnh Thiên Tư thường xuyên ra vào hang động non núi mà cũng có thấy bị thần động nào nhìn trúng đâu, có thể thần động chỉ cư ngụ ở Tương Tây, cũng có thể dung mạo của cô không hợp gu thần động.

Mạnh Thiên Tư bần thần một hồi, lúc này mới nhớ ra chuyện Giang Luyện tới đây: “Tên Giang Luyện kia…”

“Cậu ta tới theo xe, nói là lo lắng cho bạn, muốn thăm tù. Tôi không tự quyết định được nên qua đây hỏi ý kiến cô.” Mạnh Kình Tùng quan sát sắc mặt cô, “Thực ra cô cũng không nên so đo quá, chuyện của Bạch Thủy Tiêu ít nhiều cũng là cậu ta…”

Nói nghe như cô hẹp hòi lắm không bằng, Mạnh Thiên Tư hừ lạnh: “Thăm thì thăm, cho hắn thăm, lập công thì thưởng sai phạm thì phạt, chuyện nào ra chuyện đấy, tôi tự biết.”

Dừng một chút, không quên dát vàng lên mặt mình: “Nếu không phải tôi gây áp lực cho hắn thì hắn chịu ra sức như vậy sao?”

Giam người tuy hơi ngang ngược quá nhưng có những người trên đời này tính lừa ưa nặng, không quất không đi mà.

***

Huống Mỹ Doanh ở chung với Vi Bưu trong một phòng, nghe nói là tự yêu cầu, để có thể chiếu cố lẫn nhau trong khoảng thời gian này: đều là nam nữ thời đại mới, lại quen biết nhau từ nhỏ, không câu nệ nhiều như vậy, một người ngủ giường, một người trải đệm nằm dưới đất.

Tinh thần Huống Mỹ Doanh vẫn khá ổn, Vi Bưu thì ngược lại, uể oải phiền muộn. Trước khi vào phòng Liễu Quan Quốc đã nói trước chuyện này cho Giang Luyện biết: Đêm qua sau khi tỉnh dậy, Vi Bưu hết gầm lại rống khiến gã đau đầu, bèn cho tay này dùng ít thuốc.

Giang Luyện không tức giận: Cho Vi Bưu ăn khổ chút cũng tốt, vậy y mới biết lúc bị người ta kiềm chế, có mạnh mẽ cơ bắp, gầm rống vang dội cỡ nào cũng vô dụng. Hổ gầm còn bị gió núi thổi cho viêm họng cơ mà, tung hoành bốn phương thì đã sao, còn không phải là bị thợ săn tóm được à?

Hắn cười tủm tỉm ngồi xuống ghế đối diện sofa.

Vi Bưu ngả người nằm xiêu vẹo trên sofa, sắc mặt vàng như nến, song vẻ hống hách thì vẫn hừng hực: “Rốt cuộc những người này là ai? Mang bọn tôi đến đây là có ý gì?”

Giang Luyện liếc thoáng qua cửa: cửa để mở, bên ngoài có hai người canh giữ, có điều, khoảng cách này nhỏ giọng chút thì hẳn cũng không bị nghe thấy.

Hắn nói: “Anh quan tâm làm gì, xã hội đen miền núi, anh xem người ta đánh tôi này, cũng may chỉ là hiểu lầm, đã nói rõ cả rồi.”

Vi Bưu nhấc mí mắt lên: “Vậy đi được chưa?”

Giang Luyện cười: “Sao cứ nghĩ đến chuyện đi mãi thế? Thế này không tốt à? Phong cảnh đẹp, có ăn có uống có ở, coi như đi nghỉ dưỡng đi. Anh ngại chật thì yêu cầu chuyển sang phòng khác, dù sao cũng không mất tiền.”

Lại hỏi Huống Mỹ Doanh: “Ăn ngon không?”

Huống Mỹ Doanh gật đầu: “Họ rất khách khí, còn mang thực đơn tới cho mình chọn món nữa.”

Giang Luyện ừ một tiếng, kiến nghị: “Chọn cái nào đắt đắt tí.”

Huống Mỹ Doanh muốn cười, lại cười không nổi: “Anh thì sao, anh không sao chứ?”

Giang Luyện đáp: “Anh có thể làm sao chứ, chỉ là giúp họ chạy chút việc thôi…”

Lỗ mũi Vi Bưu hừ một tiếng như phun khói, Giang Luyện có phần cảm thán: hừ mạnh được thế, thuốc của Liễu Quan Quốc cho liều nhẹ quá rồi.

Hắn nhìn quanh phòng một lượt: “Hai người ở đây tốt đấy, tốt hơn ở chỗ lão Gàn nhiều, bình nước nóng thì hỏng lên hỏng xuống, suốt ngày tịt… Còn an toàn nữa, tôi thấy tầng trên tầng dưới số lượng người canh phòng không chỉ có ba mươi thôi, thế nên là, anh Bưu à, đã tới đây rồi thì cứ yên lòng mà ở đi thôi, mấy ngày nữa rời đi cũng không muộn.”

Vi Bưu lại hừ lạnh, hơn nửa là không phục, Giang Luyện bảo Huống Mỹ Doanh: “Em để ý anh ta chút.”

Huống Mỹ Doanh gật đầu, nhìn ra ngoài cửa trước rồi bỗng ghé sát vào hắn, hạ giọng nói gấp: “Giang Luyện, anh nói thật cho em biết đi, họ bảo anh làm việc anh làm thật đó à? Có phải anh đang dự định làm việc gì xấu sau lưng không?”

Giang Luyện giương mắt nhìn cô: “Ai bảo? Từ lúc cụ nuôi giáo dục anh người sáng mắt không làm chuyện mờ ám, anh chỉ làm việc xấu trước mặt thôi.”

Huống Mỹ Doanh nóng nảy giậm chân: “Em nghiêm túc mà!”

Anh chàng này chẳng lúc nào nghiêm chỉnh được cả, lửa sém lông mày rồi hắn cũng vẫn chỉ hời hợt một câu “Không sao” hoặc là “Tốt quá”, hỏi nữa hắn sẽ cười biếng nhác, trong nụ cười còn mang vẻ xấu xa hư hỏng làm cô tức điên. Huống Mỹ Doanh không thích kiểu như hắn chút nào, khiến cô trước nay đều chưa từng mò được tới đáy, vẫn là Vi Bưu khiến người ta yên tâm vững dạ hơn.

Giang Luyện vẫn cười, có điều rốt cuộc thái độ cũng tử tế hơn: “Mỹ Doanh, anh hỏi em nhé, nếu có một người không chút để ý đánh vỡ một hạt ngọc, thì chứng tỏ điều gì?”

“Chứng tỏ hạt ngọc đó không có giá trị gì với cô ấy.”

“Còn gì nữa không?”

“Còn có, hạt ngọc không tốt, khiến cô ấy nhìn thấy là phiền, cô ấy không thích, tính khí cô ấy không tốt, trút giận vào hạt ngọc, còn có…”

Huống Mỹ Doanh nhất thời không nghĩ ra được điều gì thêm nữa.

Vi Bưu lầu bầu tiếp lời: “Có tiền, tùy hứng, lắm ngọc! Người có cả rổ ngọc thì có đánh vỡ năm mười hạt cũng chẳng để bụng.”

Giang Luyện lẩm bẩm: “Tôi cũng nghĩ vậy.”

Cái thứ thận châu này, hắn cũng chẳng biết có đáng tiền hay không, có điều, nếu là vật hiếm có khó tìm, có một không hai thì người tính khí có tợn hơn nữa cũng sẽ không thể xuống tay nói hủy là hủy được, không phải sao? Huống chi, có thể nghe hết từ đầu tới đuôi bài tự biện giải dài dòng của hắn sau khi Lưu Thịnh bị giết, chứng tỏ tính khí của Mạnh Thiên Tư cũng không phải là quá tợn.

Quỷ non gọi bức họa đốt đèn là “thận lâu núi”, có công cụ chuyên nghiệp để “câu thận châu”, câu được rồi lại tùy tiện phá hủy…

Điều này cũng có thể có nghĩa, trong tay quỷ non còn có thận châu khác, thậm chí không chỉ một viên, mà hắn thì vừa hay lại cần thận châu gấp.

Lão Gàn miêu tả thế lực của quỷ non khoa trương như thế, xem ra trộm cướp cũng không khả thi lắm, như vậy thì giữ gìn mối quan hệ với Mạnh Thiên Tư là điều thiết yếu rồi.

Bảo hắn làm việc thì hắn làm vậy, chủ động, tích cực, phối hợp, thể hiện chút, không vượt qua chút thử thách tình hữu nghị để bắc cầu xây đường thì sao hắn mở mồm ra mượn được.

***

Mạnh Thiên Tư dẫn Mạnh Kình Tùng và Tân Từ tới phòng cứu thương, tới tầng hai thì chạm mặt Giang Luyện.

Giang Luyện hơi bất ngờ, nhanh chóng nở nụ cười, rất khách khí giơ tay lên chào cô: “Chào buổi sáng, Mạnh…”

Mạnh Thiên Tư làm như không thấy, lạnh lùng lướt qua người hắn, hai người theo sau tất nhiên cũng không dừng bước. Giang Luyện chỉ cảm thấy như có một cơn lốc nhỏ vừa sượt qua, khóe mắt của hắn ở phía bên cô cũng bị cảm giác lạnh thấu xương này làm cho phải khe khẽ nheo lại.

Có điều, hắn vẫn vẫy tay cho xong với không khí trước mặt, còn hơi hơi cúi đầu như thể Mạnh Thiên Tư cũng khách khí đáp lễ hắn không bằng.

Mạnh Kình Tùng đã sớm nhìn quen điệu bộ này của Mạnh Thiên Tư, nhưng Tân Từ thì lại hơi ngượng ngùng, cũng đã quên mất cơn đau bị đánh đầu tối trước: “Thiên Tư, cô như vậy có phải là hơi không phải phép không?”

Phải phép?

Mạnh Thiên Tư nhếch mép: “Tôi từng hữu hảo với hắn lần nào chưa?”

Tân Từ thành thật đáp: “Chưa.”

“Vậy thì được rồi, người với người tốt với nhau là phải từ cả hai phía, tôi vốn đã không tốt với hắn, mặt hắn còn chưa hết sưng kia kìa, vội vàng tỏ ra hữu hảo làm gì? Không dưng ân cần, không gian cũng trá.”

Tân Từ muốn nói, biết đâu là người ta rộng lượng, có điều vẫn nuốt ngược về: làm việc cho Thiên Tư mà lại nói chuyện thay cho người ngoài thì lập trường cũng lung lay quá rồi.



Phòng cứu thương nằm ở cuối hành lang tầng một, mùi nước thuốc nồng nặc, trong hành lang có hai người canh giữ, thấy Mạnh Thiên Tư qua đây đều đứng lại nghiêng người cúi đầu, đợi cô đi qua rồi mới lại tiếp tục, dù không châu đầu ghé tai nhưng vẻ mặt vẫn rất phong phú, không cầm được đánh mắt ra hiệu với nhau, ước chừng đang không tiếng động bình phẩm cô từ đầu đến chân.

Cửa mở, đồ đạc bài trí không cần thiết trong phòng đã được chuyển đi hết, thay thế bởi các loại trang thiết bị y tế, chim sẻ tuy nhỏ nhưng nội tạng đầy đủ, xem ra nội khoa ngoại khoa tai mũi họng đều có đủ cả, ngoài chiếc giường Bạch Thủy Tiêu nằm ra thì còn một bàn mổ kiểu di động khác – chuẩn bị tất cả trong một đêm, ngoại trừ tiền tài làm nên bản lĩnh ra thì trình độ tháo vát lão luyện của đám người trạm non quê cũng thật khiến người ta phải ngước nhìn.

Bác sĩ y tá trong phòng vội ra cửa nghênh đón: “Còn chưa tỉnh lại, đang truyền dịch phòng nhiễm trùng.”

Mạnh Thiên Tư nhìn Bạch Thủy Tiêu nằm trên giường: “Nghe nói từng tỉnh lại một lần, tình trạng lúc đó thế nào?”

“Rất yếu, nói năng thều thào, muốn cử động cũng khó khăn.”

Mạnh Kình Tùng nhỏ giọng nói: “Nói chuyện được là được, cô ấy từng nhìn thấy mặt của người bí ẩn kia, đợi cô ấy tỉnh lại, tôi sẽ thu xếp người vẽ chân dung.”

Vẽ chân dung tội phạm? Hình như cái này phải có kỹ thuật mới làm được, Mạnh Thiên Tư hơi nhíu mày: “Chúng ta có người chuyên nghiệp vậy à?”

“Có chuyên gia chép tranh, có điều không ở đây, có thể tiến hành từ xa, nhưng anh ta nói trao đổi trực tiếp hiệu quả mới tốt nhất, kiến nghị chúng ta cũng tìm một người biết hội họa bên này, vẽ theo miêu tả của Bạch Thủy Tiêu trước, bên kia anh ta sẽ điều động phần mềm chuyên nghiệp hỗ trợ, hiệu suất sẽ cao hơn. Tôi có hỏi thử Giang Luyện…”

“Hắn?”

Cái loại tô màu như vẽ bùa của hắn á?

Mạnh Kình Tùng phì cười: “Thực ra dán mắt thần cũng có thể vẽ được rất tỉ mỉ, nhưng phải là cậu ta tận mắt nhìn thấy, thế nên cậu ta đề cử Huống Mỹ Doanh, nói cô gái đó học vẽ từ nhỏ, đã luyện vẽ mấy trăm tấm chân dung người, hẳn là không thành vấn đề.”

Thấy bên này nói chuyện, vị bác sĩ kia cũng biết ý mà quay trở vào phòng.

Trước đó ở cửa có thể nói là tắc nghẽn, vóc dáng Mạnh Kình Tùng và vị bác sĩ kia đều cao lớn, Tân Từ bị ngăn lại phía sau, kiễng chân lên cũng không nhìn thấy gì, hiện giờ bớt đi một người, tầm nhìn nhất thời thông thoáng hơn…

Trong lòng hắn đánh thịch một tiếng, bật thốt: “Là cô ấy!”

Nghe câu này, Mạnh Thiên Tư còn tưởng người khiến hắn kinh ngạc là Huống Mỹ Doanh, nhìn theo ánh mắt hắn mới biết là nói Bạch Thủy Tiêu, lấy làm ngạc nhiên: “Cậu biết cô ấy?”

Lúc này Tân Từ mới nhận ra mình thất thố, lắp bắp giải thích: “Không phải, không biết, là…hôm qua không phải cô ấy cũng tới…tới ăn cơm sao, tôi chỉ, nhìn thấy… Không biết, cũng chưa từng nói chuyện, chỉ là…trông quen, nhận ra.”

Bình thường Tân Từ nói năng rất lưu loát, vấp lên vấp xuống thế này thật đúng là hiếm có, hơn nữa lời giải thích này lại câu trước đá câu sau…

Mạnh Thiên Tư liếc hắn, thấy hắn liếm môi, yết hầu lăn lăn, mặt còn đỏ lên.

Cô “à” một tiếng, thu mắt lại, lạnh nhạt nói: “Nếu trong lòng nảy lửa gì đó thì sớm dập tắt đi, cô gái này không hợp với cậu đâu.”

Tân Từ thuận miệng ừ một tiếng, ừ xong mới phản ứng lại được: “Không phải, chỉ là hôm qua gặp được, có chút ấn tượng thôi, cô nói gì vậy chứ?”

Mạnh Thiên Tư không lý tới hắn nữa, song Mạnh Kình Tùng lại dang tay khoác vai hắn, dẩu dẩu miệng về phía Bạch Thủy Tiêu: “Người mà người ta sánh đôi, cậu không so được đâu, cũng không tranh được, ghìm cương trước vực, đừng để mình bị ngã vào.”

Tân Từ rùn vai xuống, vùng thoát khỏi cánh tay Mạnh Kình Tùng: “Nhàm chán.”
 
Quyển 2 - Chương 11


Tới gần trưa, Bạch Thủy Tiêu mới tỉnh lại lần nữa, giấc ngủ dưỡng tinh thần không phải nói điêu, trước khi ngủ mặt như giấy vàng mà giờ trông đã có sức sống hơn rồi.

Mạnh Kình Tùng sợ cô không đủ sức cầm cự được hết quá trình vẽ chân dung, còn sai người chuẩn bị nhân sâm.

Huống Mỹ Doanh sợ người lạ từ nhỏ, tối qua còn bị kinh sợ một trận, không thể một mình ứng phó được trường hợp này nên Giang Luyện phải vào cùng, vừa vào phòng, liếc thấy có Mạnh Thiên Tư là lại run lên, vô thức lui ra sau Giang Luyện tránh.

Mạnh Thiên Tư cáu, thầm mắng tôi có phải là bà la sát quỷ dạ xoa đâu, cô có đến mức phải vậy không.

Tiếp đó, cô càng thêm mất kiên nhẫn: bản thân chuyện vẽ vời đã là một công việc chậm rãi, tính tình Huống Mỹ Doanh lại từ tốn, nói chuyện còn nhu mì khép nép, chỉ một khuôn mặt thôi mà để làm mẫu trực quan cho Bạch Thủy Tiêu, cô vẽ đến mười mấy lần, còn kiên nhẫn giải thích “mặt hình chữ Phong (风)” là quai hàm lớn, má rộng, rồi thì “mặt hình chữ Dụng (用)” là trên vuông dưới lớn, xương hàm rộng hơn xương gò má – lằng nhằng trúc trắc vậy làm gì, nói thẳng là một kiểu giống chữ Phong một kiểu giống chữ Dụng không phải là xong rồi à?

Bạch Thủy Tiêu cũng chẳng bớt lo hơn được, cô chỉ thẳng xem là Phong hay là Dụng đi được không, lúc thì cảm thấy cái này không giống, lúc lại cảm thấy cái kia cũng không đúng…

Phiền đến độ Mạnh Thiên Tư trong góc chẳng ngồi yên được, khi thì tay trái đỡ trán, khi thì tay phải đỡ trán. Mạnh Kình Tùng biết tính cô, cúi người ghé tai cô nói: “Bên phòng Liễu Quan Quốc đang làm ảnh thân Lưu Thịnh, hay là cô qua đó xem thử xem?”

Cũng được, Mạnh Thiên Tư ra hiệu về phía giường bệnh: “Có kết quả rồi đưa sang cho tôi.”

Thấy Mạnh Thiên Tư đứng dậy muốn đi, Tân Từ vô thức cũng muốn đi theo, Mạnh Kình Tùng đưa ngang tay ra cản đường hắn: “Cậu đừng đi theo.”

Đã hiểu, lại là “không thích hợp” với người ngoài như hắn, Tân Từ cúi đầu xem điện thoại, xem xem một lúc, ánh mắt bất giác lại bay về phía giường bệnh.

Hắn xuất thân là thợ trang điểm, quan tâm đến “cái đẹp” hơn người bình thường, cũng đã sớm thoát khỏi giai đoạn nhìn bề ngoài, nói cách khác, người ngoại hình đẹp đã không còn sức hấp dẫn gì với hắn, hắn quan tâm tới phong tư và thần thái hơn: Bạch Thủy Tiêu này, nếu nhìn kỹ dung mạo thì thực chất cũng chỉ tầm tầm Huống Mỹ Doanh bên cạnh, đều thuộc kiểu xinh xắn ưa nhìn, nhưng trên người cô gái này lại hiện lên tư thái xuất trần, khiến cô chớp mắt không giống người thường, trực tiếp biến Huống Mỹ Doanh thành hạng phổ thông bình phàm, xóa mờ những người khác.

Quái thật, hắn vốn không có ý gì, nhưng hai người Mạnh Thiên Tư châm biếm vậy lại khiến hắn cảm thấy mình đúng là hơi quan tâm tới cô thái quá.

Hắn giả bộ không để tâm, dùng cùi chỏ huých Mạnh Kình Tùng, giọng nhỏ như muỗi kêu: “Này lão Mạnh, anh và Thiên Tư đều quen cô ấy à, đời sống cá nhân của người ta cũng biết.”

Mạnh Kình Tùng liếc hắn.

Cái liếc này đến là sâu xa hàm ý, làm da đầu Tân Từ tê rần, chột dạ không nguyên do, lúng túng quay mặt sang chỗ khác.

Giọng Mạnh Kình Tùng nhỏ như thủ thỉ truyền tới: “Sơn điển, tra lạc động.”

***

Mạnh Thiên Tư đẩy cửa đi vào.

Đây vốn là phòng chứa đồ linh tinh, nhỏ hơn phòng trọ rất nhiều, hai người thợ hóa trang đang bận rộn xoay quanh một chàng trai trẻ ngồi trên ghế, Liễu Quan Quốc đứng bên cạnh, thỉnh thoảng cho ý kiến, trên trước bàn rộng trước mặt bày đầy các loại chai lọ túi hộp dùng cho hóa trang, nào là rượu cồn keo dán rồi thì dầu sáp bông thấm, vô số màu sắc, chính giữa dựng đứng một khung ảnh, bên trong là ảnh chân dung HD phóng to của Lưu Thịnh, trên tường treo màn hình máy tính tinh thể lỏng, đang phát đi phát lại một số clip ngắn về cuộc sống hằng ngày của Lưu Thịnh.

Thấy Mạnh Thiên Tư đi vào, mấy người đều có phần mất tự nhiên, nhất là người trên mặt mới hóa trang được một nửa kia, một bên khuôn mắt đã được dùng keo thay đổi, bên mặt còn lại vẫn còn nguyên – anh ta rướn nửa người dậy, có phần không dám ngồi.

Mạnh Thiên Tư phẩy tay xuống, ra hiệu cho họ cứ bận tiếp, không cần để ý tới cô.

Vốn định lại gần xem, nhưng trong phòng vốn nhỏ, trên mặt đất còn lộn xộn bày đủ thứ, không thể đặt bước được, bèn dứt khoát tựa cửa xem họ bận rộn, video phát trên máy tính đa số đều là những lúc vui vẻ, trên màn hình còn có khung ảnh, gương mặt Lưu Thịnh trẻ trung bừng bừng, làm Mạnh Thiên Tư nhớ tới một câu rất thường dùng trong các lễ truy điệu, “Tuy người đã qua đời, song dung mạo tiếng nói thì như vẫn còn”.

Có đôi lúc, sinh mệnh ra đi quá mức đột ngột, như dòng nước xiết không thể ngăn cản, chỉ còn đậu lại vài giọt bóng hình nơi nhân gian.

Liễu Quan Quốc đi qua, thấp giọng giới thiệu với cô: “Cậu này tên là Vương Bằng, vốn là ảnh thân tương hỗ của Lưu Thịnh, đi suốt đêm tới đây.”

Ảnh thân, cũng chính là thân và ảnh, là những người có vóc dáng, tướng mạo, mặt mày giống nhau trong nội bộ quỷ non, sẽ được kết hợp thành ảnh thân tương hỗ, chính là để ứng phó với những vụ án giết người đột tử không thích hợp để báo cảnh sát như vụ hôm qua: dù sao cũng không phải thời đại xách kiếm làm hiệp khách, chết rồi chôn đi là xong – chế độ hộ tích hiện đại rất nghiêm mật, tuyệt đại đa số các hộ núi đều có nghề nghiệp xã hội, một khi gặp chuyện không may thì trong nhà có muốn giấu giếm cũng không được, đơn vị, trường học, tổ chức, ai cũng có quyền tìm kiếm.

Bởi vậy nên thân ra đi thì ảnh lên đài, kết màn đúng thứ tự cho vở kịch đột ngột mất diễn viên chính này: Chàng trai tên Vương Bằng này sẽ được thợ hóa trang cải trang đánh tráo, sau đó dùng danh nghĩa của Lưu Thịnh nghỉ việc, tuyên bố sắp đi xa hoặc tới nơi khác phát triển với bạn bè, nói chung là dần dần cắt đứt các mối quan hệ của Lưu Thịnh, cuối cùng mượn một phen ngoài ý muốn mà hoàn thành triệt để mất liên lạc.

Theo quy định, thân và ảnh phải liên lạc định kỳ, cập nhật cho nhau biết tình hình cuộc sống của mình, đến việc tư cũng không giấu giếm, có thể nói là rất gắn bó, nhưng đồng thời cũng phải cực kỳ xa cách, hai người đa số đều ở hai nơi khác nhau, cũng không gặp mặt, dù sao nghĩ tới chuyện làm ảnh thân tương hỗ cũng khó tránh khỏi có điều kiêng kị, sẽ luôn thầm cảm thấy có chút cảm giác mất mát số mệnh vô thương: tương lai sẽ là hắn làm ảnh của mình hay mình làm ảnh của hắn đây?

Liễu Quan Quốc hạ giọng: “Trước đó Vương Bằng còn rơi lệ, nói không thể ngờ được, quá đột ngột. Cậu ấy nghe nói Bạch Thủy Tiêu có thể đã gặp được hung thủ, nói với tôi là xong việc bên này rồi muốn qua gặp cô ấy một lần, hỏi chút manh mối.”

Mạnh Thiên Tư nói: “Bọn tôi đã sớm hỏi rõ cả rồi, anh ta cho rằng mình có thể hỏi ra được cái gì mới chắc?”

Liễu Quan Quốc vội gật đầu: “Cũng phải.”

Vậy nhưng lát sau, Mạnh Thiên Tư lại nhả miệng: “Muốn gặp thì gặp đi.”

Cô không có ảnh thân, dù sao ngai vàng quỷ non này cũng là độc nhất vô nhị, nhưng từ lần đầu tiên nghe đến sự tồn tại của “ảnh thân”, cô đã cảm thấy quan hệ này vừa hoang đường vừa kiên cố, vừa lãng mạn vừa thê lương.

***

Đến cuối chiều, sau một buổi sửa đi sửa lại, rốt cuộc Bạch Thủy Tiêu cũng gật đầu.

Muốn giống một trăm phần trăm thì đúng là điều không thể, nhưng theo lời Bạch Thủy Tiêu nói thì độ tương tự cũng được tám mươi phần trăm rồi.

Mạnh Kình Tùng mừng rỡ vô cùng, chỉ kịp liếc qua, không kịp nhìn kỹ, vội đi bảo người photocopy trước. Y đi rồi, Tân Từ cũng không tiện ở lại, lại ngại không dám nói chuyện với Bạch Thủy Tiêu, chỉ cười cười với cô. Bạch Thủy Tiêu ngẩn người, cũng cười đáp lại.

Tuy sắc mặt cô trắng bệch, búi tóc kiểu Miêu hơi rối, nhưng có nụ cười tôn lên lại mang vẻ thanh tao yếu ớt.

Một cô gái thanh tú nhũn nhặn như thế, đâu có điểm nào là giống bị hút hồn, điên khùng si dại rồi đâu? Thật sự sẽ phải lấy một một cái…sơn động quái lạ vậy sao?

Tân Từ ngơ ngẩn một hồi, lúc ra cửa suýt vấp chân ngã nhào.

Huống Mỹ Doanh vẽ lâu như vậy, đến bữa trưa cũng chỉ ăn qua loa, Giang Luyện lo thân thể cô không chịu nổi, lại sợ cô ngồi lâu tê chân đứng không vững, đỡ cô đứng dậy: “Không mệt à?”

Vẻ mặt Huống Mỹ Doanh có phần mờ mịt, một tay vân vê khuy áo, lẩm bẩm: “Hôm nay em cứ thấy là lạ, nhưng không nói rõ được là lạ chỗ nào.”

Giang Luyện hơi biến sắc, ghé sát vào Huống Mỹ Doanh, hạ giọng: “Có phải là…trong người có gì không đúng không?”

Huống Mỹ Doanh vội lắc đầu: “Không phải không phải, không liên quan tới em, chỉ là…”

Cô nhíu mày, gắng ngẫm nghĩ mà mãi chẳng bắt được manh mối nào, bỗng nghĩ tới cái khác, bật cười khúc khích: “Anh biết không, khuôn miệng trong bản sửa cuối cùng giống của anh lắm đấy.”

Má, giống ai không giống, lại giống tình nghi giết người, vẻ mặt Giang Luyện ghét bỏ: “Không phải chứ?”

Huống Mỹ Doanh nguýt hắn: “Lúc em mới luyện vẽ chân dung toàn lấy anh, Vi Bưu với nội làm mẫu, luyện đã bao lần rồi? Em mà còn lầm được à?”

Giang Luyện đang định nói gì đó, Bạch Thủy Tiêu trên giường bệnh bỗng kêu khẽ một tiếng ngắn ngủi như bị kinh sợ.

Nhìn lại, trong phòng nhiều thêm một chàng trai trẻ, Giang Luyện chưa từng thấy bao giờ, có điều tầng trên tầng dưới nơi này hắn cũng chưa thấy được bao người.

Gương mặt chàng trai này có hơi cứng ngắc, biểu cảm không nhịp nhàng lắm, Giang Luyện không biết đó là vì mặt Vương Bằng gầy hơn mặt Lưu Thịnh nên phải dán silicon thêm vào, chỉ cảm thấy tự dưng xuất hiện một người như vậy đúng là rất dọa người.

Vương Bằng lúng túng, để không làm ảnh hưởng tới hiệu quả hóa trang trên mặt, còn phải gắng nói: “Xin lỗi, chưa chào hỏi gì đã vào, tôi là hộ núi, bạn của Lưu Thịnh, muốn nói chuyện mấy câu với cô.”

Đã là chuyện của hộ núi thì người ngoài tất nhiên là phải tránh đi, Giang Luyện dẫn Huống Mỹ Doanh về phòng, lúc ra cửa, Huống Mỹ Doanh nhíu mày, quay đầu lại nhìn vào phòng.

Trong phòng này thật sự có thứ gì đó khiến cô không thoải mái, chỉ là nhất thời…nghĩ không ra.

***

Mạnh Thiên Tư một tay cầm bản photo của bức chân dung, dí vào sát mắt trước rồi từ từ chuyển ra xa, còn định nhắm một mắt lại để nhìn rõ hơn – sau đó ý thức được mình vẫn đang một mắt, nhắm lại là mù.

Bức vẽ được sao thành hai bản, gồm phần bán thân và đường nét thân hình, tổng hợp lại, người đàn ông này chừng ba bốn mươi tuổi, dáng người thấp bé, hơi gầy, tóc húi cua, có gốc tóc thô cứng, khuôn mặt hình thang, hai bên xương cằm rất nổi bật, có điều mặt mày lại có vẻ đàng hoàng.

Cô trầm ngâm một hồi: “Tôi chắc chưa gặp bao giờ.”

Mạnh Kình Tùng nói: “Phải, tôi cũng chắc chắn chưa từng gặp ai như vậy, nhưng không biết tại sao mà cảm thấy hơi quen quen, cô có thấy vậy không?”

Mạnh Thiên Tư gật đầu: “Đúng là hơi hơi.”

Vậy à? Tân Từ cầm một bản lên, nhìn trái nhìn phải nhìn trên nhìn dưới, mãi mà chẳng thấy có manh mối gì. Hình như Mạnh Thiên Tư đã nhìn ra, suýt thì phì cười.

Cô đưa tay che nửa mặt dưới của kẻ đó đi, lại ra hiệu bảo Mạnh Kình Tùng giúp che trán hắn đi: “Che cả lông mày nữa, chỉ nhìn đuôi mắt thôi, hẹp hẹp dài dài, có thấy giông giống Tân Từ không?”

Tân Từ hoàn toàn không ngờ rằng mình lại trúng phải cái số này, tức muốn tắt thở: “Nói gì đấy, sao có thể!”

Lại nhìn chòng chọc đôi mắt kẻ kia, thề thốt phủ nhận: “Không giống tí nào.”

Mạnh Thiên Tư lườm hắn: “Khẩn trương cái gì, dù có giống cậu tôi cũng sẽ không nghi ngờ cậu, chứng cớ vắng mặt của cậu rất vững chắc.”

Lại hỏi Mạnh Kình Tùng: “Gửi bản điện tử ra ngoài chưa?”

“Gửi rồi, muộn chút nữa tôi định gửi cả cho bạn bè các nơi nữa, nhiều người sức lớn, nếu thuận lợi thì một hai ngày tới hẳn là có manh mối rồi.”

***

Huống Mỹ Doanh vẽ cả một ngày, thân mình có hơi kham không nổi, bèn đi ngủ sớm.

Đến nửa đêm, đột ngột choàng tỉnh.

Là bị ác mộng đánh thức, cô mơ thấy mình đang ở căn nhà sàn trong trại Bát Kháng kia giúp Giang Luyện dán mắt thần, xung quanh rất yên lặng, chim không hót, gió không thổi, yên lặng như thể một cái kim rơi xuống đất thôi cũng có thể nghe được tiếng vang.

Sau đó, ngoài cửa vang lên tiếng gõ, thình thình thình thình, tiếng động trong mơ rất khoa trương, như vung chày gõ trống vậy, nhà sàn như tờ giấy, bị tiếng trống làm chấn động muốn rụng rời, trên vách tường rào rào rơi xuống bụi bặm.

Cô ngỡ là Vi Bưu gây rồi, sợ Giang Luyện bị quấy nhiễu, vừa tức vừa cuống, chạy nhanh ra mở cửa. Cửa vừa mở ra, một thi thể máu me đầm đìa đổ ập xuống.



Giấc mơ này quá thật, đến mùi máu tanh cũng như ngay trước chóp mũi. Tim Huống Mỹ Doanh đập thình thịch, cô ngồi dậy trong bóng tối, đưa tay xoa xoa lồng ngực, không hít thở nổi, màng nhĩ cũng bị tiếng tim đập làm trướng lên.

Trong phòng chỉ có mình cô, đêm nay Giang Luyện ngủ ở phòng bên, Vi Bưu chuyển sang chung phòng với hắn rồi.

Huống Mỹ Doanh ngồi một lúc, giơ tay lau mồ hôi trên trán, đợi đến khi trái tim đập điên loạn bình ổn hơn mới lại mệt nhoài nằm xuống.

Lúc vươn tay kéo chăn, trong đầu chợt lóe lên gì đó, cơ thể đột nhiên cứng đờ.

Rốt cuộc cô cũng biết cảm giác quái dị ban ngày lúc ở phòng cứu thương là vì sao rồi.

Trên người Bạch Thủy Tiêu có một mùi hương rất nhạt, không giống với bất kỳ hương hoa hương phấn nào, mùi thuốc trong phòng cứu thương rất nặng, miếng nhân sâm lại có mùi đắng đặc thù, có hai cái này bốc lên, mùi hương kia lại càng nhạt hơn, lúc vẽ, vì phải hỏi xác nhận nên có mấy lần cô kề lại rất gần Bạch Thủy Tiêu, nhờ vậy mới ngửi thấy.

Mà mỗi lần ngửi thấy, trong lòng đều nổi lên chút cảm giác mờ mịt, nhưng không nghĩ ra được là vì sao.

Ác mộng này đã nhắc nhở cô.

Lúc thi thể đẫm máu kia đổ về phía cô, cô tất nhiên là sợ đến hai mắt tối sầm, bất tỉnh, ngay cả khuôn mặt thi thể ra sao cũng không thấy rõ, nhưng khứu giác của cô thì còn kéo dài được nhiều hơn thị giác và ý thức vài giây.

Cô nhớ rằng trong mùi máu tanh che trời lấp đất kia dường như cũng xen lẫn một…mùi hương ngòn ngọt nhàn nhạt như vậy.
 
Quyển 2 - Chương 12


Huống Mỹ Doanh lại ngồi dậy, ôm chăn ngẫm nghĩ sự việc một hồi, chỉ cảm thấy cả người run lên cầm cập.

Phải nói chuyện này cho Giang Luyện biết mới được.

Cô lần tìm điện thoại, vừa mở WeChat của Giang Luyện ra, lại bỏ xuống: Hai giờ sáng, sao hắn còn thức mà xem tin nhắn được chứ? Huống hồ, điện thoại của hai người này còn do chính tay cô thiết lập chế độ không làm phiền sau mười hai giờ nữa chứ, lúc đó đã làm Vi Bưu cảm động, cứ khen cô săn sóc mãi.

Nhà nghỉ không thể so với khách sạn, không lắp đặt điện thoại nội tuyến, đợi sáng mai mới nói thì có khi lại hỏng việc rồi, đêm dài lắm mộng, Huống Mỹ Doanh suy nghĩ vài giây rồi dứt khoát xuống giường, khoác một chiếc áo mỏng ra ngoài váy ngủ hai dây rồi nhẹ tay nhẹ chân mở cửa phòng.

Trong hành lang vô cùng yên lặng, ánh đèn tối mờ, tầng này vốn có hai người canh đêm, cũng không biết đã đi đâu rồi. Huống Mỹ Doanh giơ ngón tay lên gõ cửa, gắng hạ giọng xuống thật thấp: “Vi Bưu? Giang Luyện?”

Gọi nhỏ vậy, người bên trong có thức cũng chưa chắc đã nghe thấy được chứ đừng nói tới đang ngủ say. Huống Mỹ Doanh hơi do dự, Vi Bưu và Giang Luyện đều là người một nhà, quấy rầy cũng không sao, nhưng trời tối người lặng, hơi to tiếng một chút là sẽ ảnh hưởng tới những khách trọ khác. Nhà cô gia giáo cẩn thận, trong lòng rất phản cảm làm những chuyện thiếu tố chất này.

Hay là quay về gọi điện thoại? Không được, màn hình điện thoại sáng một lúc rồi sẽ tắt, sao có thể đánh thức được hai người họ?

Đang lưỡng lự, chợt nghe thấy một tiếng keng rất khẽ, như có chiếc vòng kim loại rất nhỏ nào rơi xuống.

Huống Mỹ Doanh giật mình, theo tiếng nhìn lại.

Đây là tầng hai, một tầng có chừng hơn mười gian phòng, nằm ở giữa đoạn cầu thang lên xuống, người trong hành lang trừ phi đến gần, bằng không sẽ không thể xem được tình hình trên cầu thang.

Tiếng vang đó phát ra từ đầu cầu thang.

Như đáp lại ánh mắt cô, một chiếc nhẫn vàng óng chậm rãi lăn từ đầu cầu thang ra, hết đà rồi thì trơ trọi đứng lại trên mặt đất như một con mắt không có con ngươi.

Ai đánh rơi nhẫn vậy, người gác đêm à?

Huống Mỹ Doanh đoán người đó sẽ xuống nhặt, vậy nhưng lại không có, sau một tiếng keng khẽ vang lên thì không còn âm thanh gì nữa.

Lạ thật, dù thế nào cũng không thể là đột nhiên xuất hiện được, chẳng lẽ người đó làm mất đồ mà không phát hiện ra? Huống Mỹ Doanh nhịn không được đi về phía đầu kia, lúc gần đi tới đầu cầu thang, cách chiếc nhẫn kia một bước ngắn, cô lại dừng bước.

Con người ít nhiều đều có trực giác đối với nguy hiểm: Trong bầu không khí ban đêm này lẩn khuất điều quái dị nào đó không rõ, dù không thấy được nhưng nghe cẩn thận thì dường như sau bức tường thông ra cầu thang có tiếng ai hít thở rất khẽ.

Ai đang ở đó? Nghe thấy động tĩnh vì sao không đi ra gặp cô mà lại phải núp sau tường?

Huống Mỹ Doanh nhìn chằm chằm gờ mép bức tường kia, cơ hồ nín thở, sự yên tĩnh khác thường này khiến tim cô đập mạnh hơn, khựng lại một thoáng, cô nhấc gót, khẽ khàng lùi bước ra sau.

Bất kể phía sau bức tường có xảy ra chuyện gì thì cô cũng không muốn dính dáng vào, chỉ mong không ai nhận ra sự tồn tại của cô để cô có thể an toàn trở về phòng.

Đã muộn.

Sau bức tường lộ ra một khuôn mặt người.

Bạch Thủy Tiêu.

Gương mặt vẫn tái nhợt như trước song môi lại đỏ au, búi tóc buộc lệch, vài lọn tóc mai rủ xuống, so với khi trước trông như hai người khác nhau: Bạch Thủy Tiêu nhìn thấy lúc ban ngày yếu ớt, hiền dịu, khiến người ta sinh lòng thương xót, nhưng hiện giờ lại cứng cỏi, lạnh lùng, trong mắt ngập tràn tính công kích, như một con rắn đang uốn éo, bất cứ lúc nào cũng sẽ phun lưỡi ra.

Trong đầu Huống Mỹ Doanh ong ong, chân như mọc rễ, không sao nhổ lên được.

Thực chất chỉ gương mặt này thôi thì chưa chắc đã hù dọa được cô, hỏng ở chỗ, sau cơn ác mộng, cô suy đi nghĩ lại, tưởng tượng ra rất nhiều thứ, mà gương mặt lại cũng lắm ý vị.

Bạch Thủy Tiêu từ sau tường đi ra, trong bàn tay phải buông thõng kẹp một con dao mổ dài nhỏ, lúc tay trái buông ra, sau tường có thứ gì đó trượt xuống đất.

Trực giác Huống Mỹ Doanh cảm thấy nhất định là một người.

Cả người cô lạnh run, phản ứng đầu tiên là muốn hét lên, nhưng há miệng ra rồi, trong họng lại nghẹn ứ không phát ra được tiếng nào: bệnh cũ của cô tái phát, lúc sợ hãi quá độ, nghiêm trọng nhất sẽ trực tiếp ngất xỉu, thứ hai là tắt tiếng, sống chết không kêu lên được. Giang Luyện từng đùa cô, “Máy báo động tai họa khí tượng chia ra làm bốn cấp bậc xanh vàng cam đỏ, Mỹ Doanh mà lạc giọng nứt phổi hét lên thì nhiều nhất được tính là cấp vàng, chứng tỏ tình hình hãy còn ổn, em ấy còn chịu được.”

Trong mắt Bạch Thủy Tiêu lướt vụt qua vẻ khinh thường, tựa hồ chẳng cảm thấy phản ứng của cô có gì kỳ lạ, con dao trong tay chuyển hướng, xông ập tới.

Cú xông này như phá vỡ một sự cân bằng nào đó, chân Huống Mỹ Doanh bỗng nhẹ bẫng, vậy mà lại nhấc lên được, cô xoay người bỏ chạy, dùng hết sức lực lao về phía căn phòng của Giang Luyện và Vi Bưu.

Kỳ thực, nếu muốn tạo ra tiếng động thì biện pháp tốt nhất phải là đập cửa phòng gần nhất, mặc kệ là phòng của ai, nhưng trong cơn kinh hãi tột độ, Huống Mỹ Doanh lại chui đầu vào ngõ cụt, cảm thấy chỉ có căn phòng của Giang Luyện và Vi Bưu mới có thể cứu mạng mình được.

Còn cách một hai mét, cô nắm tay lại nhào tới đập về phía cửa phòng – họng không phát được ra tiếng, không hề gì, tay đánh chân đá vẫn có thể tạo ra âm thanh.

Lúc nắm tay sắp chạm được tới cửa phòng, chân bỗng bị siết, là bị Bạch Thủy Tiêu tóm lại, kéo giật ra sau. Mắt thấy khoảng cách tới cánh cửa phòng màu trà chỉ còn thiếu có mấy centimet, trái tim Huống Mỹ Doanh như rơi xuống đáy vực, nhưng ham muốn cầu sinh mãnh liệt khiến cô nhanh chóng xoay người lại ứng phó: chỉ thấy trước mắt lóe lên ánh dao, không chút nghĩ ngợi, vô thức giơ cánh tay lên cản.

Cái lạnh sắc bén cắt từ cánh tay phải thẳng sang cánh tay trái, trong nháy mắt máu nóng trào ra, Bạch Thủy Tiêu nhíu mày, đang định vung dao lên lần nữa, ánh mắt chạm phải một chỗ, chợt ngẩn ra.

Máu Huống Mỹ Doanh rất kỳ lạ.

Máu cô phun ra khỏi vết thương không khác gì người thường, đều là màu đỏ tươi, nhưng rất nhanh sau đó lại như được đun sôi, dọc theo ranh giới giữa máu và thịt cuộn lên bong bóng, vỡ nổ, hệt như kẹo nổ vậy, liên tiếp tạo thành những chuỗi bắn ra và vỡ nổ rất nhỏ.

Người lúc chảy máu là như vậy à?

Cũng may, một thoáng lưỡng lự này của Bạch Thủy Tiêu đã cho Huống Mỹ Doanh đang rơi vào đường cùng thời gian phản kích, cô vận hết sức lực toàn thân, một cước đạp ngã Bạch Thủy Tiêu, xoay người liều mạng nhào tới bên cửa, vung nắm đấm đập lên.

Tiếng đập cửa thùng thùng cuối cùng cũng giúp cô phá vỡ phong ấn tắt tiếng, cô nghe thấy cổ họng mình bật ra tiếng hét như điên loạn: “Vi Bưu! Giang Luyện!”

***

Lúc Mạnh Thiên Tư xuống dưới tầng nửa đoạn hành lang bên trái đầu cầu thang đã bị vây chật như nêm.

Chỗ cuối hành làng y hệt như một nồi canh đang sôi lên sùng sục, giữa cảnh người người nhốn nháo, chỉ có thể nhìn được đại khái: Bạch Thủy Tiêu kẹp lấy Huống Mỹ Doanh, lưng áp vào tường, không ngừng cười gằn, Vi Bưu như muốn xông lên trước, lại sợ ném chuột vỡ đồ, không dám manh động, chỉ lớn tiếng quát mắng, Giang Luyện cũng có mặt, dẫu không kích động như Vi Bưu nhưng vẻ mặt cũng rất nghiêm trọng, cho thấy tình thế không mấy lạc quan.

Quỷ non khống chế hiện trường đầu này là Mạnh Kình Tùng, Mạnh Thiên Tư nghe thấy y cao giọng: “Cô cho rằng nhiều người như vậy, cô có thể đi được sao?”

Bạch Thủy Tiêu cười khẩy: “Mạnh Thiên Tư còn chưa lên tiếng, nhà quỷ non từ bao giờ đến lượt anh làm chủ?”

Mạnh Thiên Tư lẩm bẩm: “Giọng sang sảng ghê.”

Ban ngày không phải là bệnh tật yếu đuối không bò dậy nổi à?

Liễu Quan Quốc ở vòng ngoài vội tiến lên đón, gắng sức tóm tắt tình huống một cách súc tích nhất.

Thì ra, Mạnh Kình Tùng bố trí an ninh, đặt trọng điểm ở bên ngoài, trong nhà bởi chỉ toàn quỷ non ở nên mỗi tầng chỉ sắp xếp hai người canh gác.

Người gác tầng một tầng hai đều bị Bạch Thủy Tiêu dùng khói gây mê đánh ngã, Tiền Sanh ở tầng hai thân thể cường tráng, hai ngày nay lại bị cảm ngạt mũi, trong mơ hồ lại cầm cự được không ngã, nhưng tứ chi không có sức lực, lúc bị Bạch Thủy Tiêu bóp gần bất tỉnh thì nghe thấy trong hành lang có tiếng người.

Anh ta còn tưởng là hộ núi, nhớ tới nhiệm vụ mà liều mạng tuốt nhẫn cưới xuống, quăng ra muốn gây sự chú ý của đồng bạn, nào ngờ người tới lại là Huống Mỹ Doanh.

Liễu Quan Quốc chỉ về phía đầu kia: “May mà Huống Mỹ Doanh kêu lên kinh động những người khác, trên dưới đều là quỷ non, thế này còn chạy đi đâu được chứ? Bạch Thủy Tiêu chó cùng rứt giậu, bắt Huống Mỹ Doanh làm con tin, buộc chúng ta nhường đường.”

Mạnh Thiên Tư đang định cất lời, khóe mắt lại trông thấy Tân Từ: cũng không biết hắn xuống từ lúc nào, đang chết lặng nhìn chằm chằm phía bên kia – dù trợn mắt nhưng đuôi mắt lại vẫn hẹp dài.

Đuôi mắt này…

Một ý nghĩ vụt lướt qua trong đầu.

Đúng lúc đó, Bạch Thủy Tiêu quát lớn: “Lắm lời thế, muốn chết thì cùng chết!”

Đầu kia loạn cào cào, xen lẫn vào đó là vài tiếng kêu kinh hãi: “Anh xem máu cô ấy kìa! Sao lại như thế!”

Xem ra đang căng thẳng, Mạnh Thiên Tư ra hiệu bảo Liễu Quan Quốc giúp cô mở đường.

Những hộ núi vây xem này đều quá căng thẳng quá tập trung, cũng không biết cô tới, được Liễu Quan Quốc nhắc nhở mới hồi thần, bận rộn người nọ kéo người kia, nhanh chóng nhường ra một lối đi.

***

Đến giờ phút quan trọng rồi.

Môi Bạch Thủy Tiêu phát khô, nuốt một miếng nước bọt cực khẽ, Huống Mỹ Doanh bị cô ta kẹp đến gần như không hít thở được nữa, giày vò lâu như vậy, đến sức giãy giụa cũng chẳng còn, trên cổ từng vệt từng vệt vết thương do bị cứa phải – sắc mặt lúc này đã trắng bệch như tờ giấy, lại có vết máu làm nổi bật, trông càng thêm rợn người, huống hồ ở máu mép vết thương còn không ngừng phun bong bóng vỡ nổ với biên độ rất nhỏ.

Bấy giờ Mạnh Thiên Tư mới hiểu vì sao quỷ non lại có người ngạc nhiên với “máu” như thế: Cô thì lại không kinh ngạc gì nhiều, chỉ cảm thấy có lẽ là Huống Mỹ Doanh có bệnh hiếm thấy nào đó về máu.

So ra thì, cô có hứng thú với Bạch Thủy Tiêu hơn.

Mạnh Thiên Tư nhìn chằm chằm Bạch Thủy Tiêu một lúc, chợt mỉm cười: “Cô nói cô bị người thần bí tấn công, còn làm bộ làm tịch kéo chúng tôi vẽ vời cả một ngày, thực ra người đó căn bản không tồn tại phải không? Bức vẽ đâu?”

Câu cuối là nói với phía sau, rất nhanh sau đó, có người truyền một tấm qua đây, Mạnh Thiên Tư nhận lấy, mở ra xem: “Trước đó tôi còn bảo, đuôi mắt góc mày này giống Tân Từ ghê… Thực ra là cô lấy vật liệu ngay tại chỗ, mượn đông một ít mượn tây một ít, tạo ra một người không tồn tại, gom góp lại thành một khuôn mặt, đúng không?”

Sắc mặt Bạch Thủy Tiêu không chút thay đổi, nhưng Giang Luyện thì lại nhớ tới câu đùa bảo khuôn miệng của hắn giống người trong hình của Huống Mỹ Doanh sau khi vẽ xong.

Hóa ra mình cũng bị mượn.

Mạnh Thiên Tư vo bức vẽ lại: “Vương Bằng đâu?”

Vương Bằng đang đứng trong đám người vây xem, chợt nghe thấy mình bị điểm danh, vội chen ra: “Đây ạ.”

“Tôi nhớ anh nói sau khi hóa trang xong muốn gặp Bạch Thủy Tiêu hỏi chút manh mối – sau đó anh có đi gặp cô ta không?”

“Có ạ.”

“Phản ứng đầu tiên của cô ta khi nhìn thấy anh là gì?”

Vương Bằng suy nghĩ rồi đáp: “Lúc đó…cô ta rất hoảng sợ, còn kêu ra tiếng. Tôi tưởng là hóa trang trên mặt tôi nhìn đáng sợ, lỗ mãng xông vào dọa đến cô ta nên nói xin lỗi với cô ta.”

Mạnh Thiên Tư nhìn Bạch Thủy Tiêu, nói có hàm ý: “Người bình thường có lẽ đúng là sẽ bị dọa giật mình, nhưng cô Bạch đây can đảm thế này, gặp biến cố không sợ hãi, đối mặt với vòng vây chặn của nhiều người như vậy mà cũng không hoảng sợ rối loạn…”

Bạch Thủy Tiêu mím mồi, giả bộ nghe không hiểu ý châm chọc trong lời cô.

“Sở dĩ cô sợ là bởi Vương Bằng đeo khuôn mặt của Lưu Thịnh, mà cô thì biết rất rõ rằng Lưu Thịnh đã chết.”

“Mà lạ nhỉ, sao cô lại biết anh ta đã chết? Chúng tôi chỉ bảo cô vẽ người tấn công cô, những cái khác đều chưa từng hé răng nửa lời với cô. Chẳng lẽ… Lưu Thịnh là do cô giết?”

Đám người vây xem rộ lên một trận xôn xao, Mạnh Kình Tùng cũng biến sắc: Nửa đêm nửa hôm Bạch Thủy Tiêu làm ra chuyện bắt giữ này, tuy y biết cô ả này chắc chắn là có vấn đề nhưng chuyện xảy ra đột ngột nên vẫn chưa kịp nghĩ kỹ.

Tiếng huyên náo nhanh chóng chuyển sang kích động và phẫn nộ, có người gầm lên: “Mẹ kiếp, dám động tới người của chúng ta, giết cô ta đi!”

Nhất thời người người hưởng ứng, “Giết cô ta đi”, “Một mạng trả một mạng”, “Giết người phải đền mạng” không ngừng vang lên bên tai, Vi Bưu nóng ruột, mắt thấy Huống Mỹ Doanh không ngừng chảy máu, nhỏ tí tách xuống mặt đất, gần như nối liền thành vũng, cuống đến siết chặt hai nắm tay, trong mắt cơ hồ muốn phun ra lửa, nhưng lúc nhìn sang Giang Luyện, Giang Luyện lại chỉ lắc đầu với y.

Mạnh Thiên Tư giơ tay lên đè xuống, ý bảo mọi người im lặng, mãi đến khi trong hành lang không còn tiếng động nào nữa, cô mới một lần nữa mở miệng.

“Cuối cùng, cô dùng khói gây mê đánh gục người gác tầng một tầng hai, tôi rất ngạc nhiên, nếu không phải người ở tầng hai làm vướng chân cô, lại có Huống Mỹ Doanh bất ngờ xuất hiện thì cô vốn định làm gì? Tiếp tục lên tầng, thừa lúc trời tối người lặng, hạ gục người trên tầng ba? Cô nhằm vào ai? Tôi à?”

Cô chỉ cảm thấy thật khó mà tin nổi: “Tôi có thù oán gì với cô? Hay là hộ núi từng đắc tội cô?”

Bạch Thủy Tiêu rốt cuộc cũng có phản ứng.

Sắc mặt cô ta cũng không có vẻ gì là sợ hãi, thậm chí còn có vẻ bình thản: “Không sai, không sai chỗ nào cả.”

Đương nói chuyện, bàn tay cầm dao bất động, tay còn lại dời khỏi đỉnh đầu Huống Mỹ Doanh, không nhanh không chậm gom tóc cô lại thành một túm, nắm trong lòng bàn tay trước ánh nhìn chăm chú của tất cả mọi người.

Mạnh Thiên Tư nhíu mày, đang không rõ cô ta định làm gì, Bạch Thủy Tiêu đột ngột siết chặt tóc Huống Mỹ Doanh kéo giật ra sau như khi giết gà kéo ngược cổ gà ngửa ra để cắt họng, miệng lẩm bẩm: “Thực sự không nhẫn nại được nữa rồi.”

Đám người phát ra một tràng tiếng kêu sợ hãi, có vài người nhát gan, thậm chí còn vội nhắm mắt lại không dám nhìn. Giang Luyện và Vi Bưu gần như đồng thời xông ra, hét lên: “Gượm đã!”

Mạnh Thiên Tư còn tưởng là họ nóng lòng cứu người, mãi đến khi Giang Luyện sáp lại gần mình mới phát hiện ra không đúng: Sự chú ý của cô đặt hết vào Bạch Thủy Tiêu, lúc nhìn chằm chằm cô ta đặt câu hỏi, Giang Luyện đã sớm lặng lẽ chọn xong phương hướng, ý định một kích tất trúng, đâu còn thời gian cho cô phản ứng.

Bên kia, Vi Bưu cũng không hướng về phía Bạch Thủy Tiêu, mục tiêu của y là Mạnh Kình Tùng, đại khái là ngừa y cứu trợ Mạnh Thiên Tư – Mạnh Kình Tùng bị bất ngờ, cộng thêm xung quanh lại chật ních người, không có chỗ nào để di chuyển né tránh, cứ thế bị Vi Bưu xô ngã vào đám người. Vi Bưu dùng sức rất mạnh, xuống tay lại nhanh, sau khi đắc thủ thì rèn sắt khi còn nóng, tiếp tục kéo cả hai xô về phía đám người. Đến lúc đám người thoát khỏi hỗn loạn phản ứng lại thì Mạnh Thiên Tư đã sớm dao sắc kề họng, bị Giang Luyện ôm khóa lấy.

Trong lòng Mạnh Thiên Tư rét lạnh, vẻ mặt lại vẫn bình tĩnh, chỉ thấp giọng nói: “Họ Giang, anh muốn chết à?”

Tình thế đột ngột xoay chuyển, Mạnh Kình Tùng giận điên, rống về phía Giang Luyện: “Cậu dám…”

Nửa câu sau nghẹn lại, bởi dao găm trong tay Giang Luyện nghiến thẳng xuống, nếu không phải Mạnh Thiên Tư vội vã lùi ra sau thì đã rách da thấy máu rồi.

Giang Luyện cười cười, ra hiệu về phía Bạch Thủy Tiêu: “Có dám hay không cũng không phải do tôi quyết định.”
 
Quyển 2 - Chương 13


Bạch Thủy Tiêu nhếch miệng.

Cô ta buông tóc Huống Mỹ Doanh ra, lưỡi dao đè trên họng cô cũng hơi lỏng ra, phân phó Mạnh Kình Tùng: “Chuẩn bị xe cho tôi.”

Thừa lúc ánh mắt mọi người tập trung hết lên Bạch Thủy Tiêu, Giang Luyện ghé xuống sát tai Mạnh Thiên Tư.

Mạnh Thiên Tư chỉ cảm thấy một hơi thở ấm áp ập lên vành tai, trong lòng ác cảm, theo bản năng nghiêng đầu muốn tránh, lại bị mũi dao của Giang Luyện chặn lại, khiến cô không thể di chuyển, sau đó mượn mái tóc dài của cô che giấu, nhỏ giọng thì thầm: “Cô Mạnh, mong cô hiểu cho, cô ta là kẻ điên, thật sự sẽ giết người, tôi cũng là bất đắc dĩ, tạm kéo dài chút thời gian trước.”

Mạnh Thiên Tư cười xì một tiếng rất khẽ.

Lần trước hắn động thủ với cô là “bị tình thế ép buộc”, lần này lại là “bất đắc dĩ”, ông trời rảnh ghê nhỉ, toàn bức bách một mình hắn.

“Cô xem…hay là phối hợp trước đã? Tôi nghĩ cách giữa chừng tìm sơ hở, cứu Mỹ Doanh ra, đến lúc đó chúng ta liên thủ đối phó với cô ta sẽ dễ dàng hơn.”

Mạnh Thiên Tư đến cười khẩy cũng lười, ai là “chúng ta” với hắn chứ, tên Giang Luyện này lúc quỷ lúc thần, lời hắn nói nghe xong chỉ coi như gió thoảng qua tai, cơ mà, có điều này cô tán thành: trên người Bạch Thủy Tiêu đúng là có một sự điên cuồng cố chấp, người như vậy dù có bị bắt được cũng sẽ không cậy miệng ra được cái gì, cô ta sẽ chỉ cười âm hiểm nhìn anh, không hé răng nửa lời, cứ thế khiến anh cồn cào ruột gan.

Bởi vậy nên, so với bắt cô ta, chẳng thà giả bộ thả cô ta nghe theo cô ta, xem xem rốt cuộc cô ta muốn làm gì…

Chợt nghe Mạnh Kình Tùng lạnh lùng đáp: “Tôi bưng bát quỷ non ăn cơm, không nghe người ngoài sai khiến. Thiên Tư vẫn đang ở đây, cô còn chưa có tư cách kêu tôi làm việc đâu.”

Sắc mặt Bạch Thủy Tiêu trong nháy mắt khó coi tột độ.

Giang Luyện bắt lấy khe hở này, nói ngắn gọn: “Cô Mạnh, cứ bế tắc thế này không phải cách hay. Tôi thật sự sẽ không giết cô, cô có thể hạ lệnh tấn công vũ lực, nhưng như vậy Mỹ Doanh sẽ phải chết.”

“Lưu Thịnh chết, Bạch Thủy Tiêu biết rơi vào tay các cô sẽ không có kết cục tốt đẹp, thà đồng quy vu tận còn hơn, cũng sẽ không để các cô bắt sống, hơn nữa cũng sẽ không mở miệng – không phải cô muốn biết tại sao cô ta lại muốn đối phó với các cô, sau lưng có người nào khác hay không sao? Bế tắc ở đây, cô sẽ mãi mãi không biết.”

Trong hành lang vô cùng yên lặng, chỉ còn lại tiếng hít thở phập phồng, Giang Luyện cảm thấy đã nói hết những lời có thể nói, nhiều hơn nữa cũng chỉ phí công.

Xem ra cần phải ra quyết định xấu nhất rồi.

Hắn nhìn về phía Huống Mỹ Doanh: cướp người khỏi tay Bạch Thủy Tiêu quá khó khăn, động tác có nhanh hơn nữa cũng không thể nhanh bằng lưỡi dao cô ta dán trên họng cô, trừ phi Mỹ Doanh liều mạng phối hợp tránh thoát một dao này, hoặc là nhát dao này cắt đi đâu cũng được, chỉ là đừng cắt vào họng cô.

Huống Mỹ Doanh như nhìn hiểu ánh mắt hắn, cánh tay buông thõng bên người chậm rãi di chuyển.

Đúng lúc đó, Mạnh Thiên Tư lên tiếng.

Cô nói: “Nếu cô Bạch muốn đi thì chuẩn bị xe đi.”

***

Mạnh Thiên Tư đã lên tiếng thì chuyện dễ làm hơn nhiều, có điều Mạnh Kình Tùng cẩn thận tính toán, sau khi hỏi một vòng thì bảo Liễu Quan Quốc lái xe van đưa đón khách của nhà nghỉ tới – xe này chạy không quá nhanh, đuổi theo không quá tốn sức.

Bạch Thủy Tiêu không còn lòng dạ nào mà bận tâm đến loại xe, đoạn đường xuống nhà mới là quan trọng nhất, dù sao bốn phía đều là quỷ non, mà người cô ta có thể chân chính dùng sức mạnh ép buộc thì lại chỉ có một mình Huống Mỹ Doanh, mỗi bước rút lui ra ngoài, mỗi ngã rẽ đi qua đều có thể xuất hiện biến cố, cũng may hữu kinh vô hiểm, toàn bộ hành trình đều thuận lợi bất ngờ.

Cô không biết là Mạnh Kình Tùng đã lĩnh hội dụng ý của Mạnh Thiên Tư qua ánh mắt, ngầm kêu dừng tất cả mọi hành động nỗ lực cứu người, còn thầm nhủ là thần động phù hộ, liên tiếp mặc niệm mấy câu “Giáp khấu mạc (cảm tạ)”.

Đến cạnh xe, Bạch Thủy Tiêu ra lệnh Vi Bưu lên lái xe, lại bắt Giang Luyện áp giải Mạnh Thiên Tư lên trước. Mạnh Thiên Tư rất phối hợp, không cần đẩy kéo gì, chỉ là sau khi ngồi xuống có hỏi Giang Luyện một câu: “Hai người các anh cấu kết nhau lúc nào? Kỹ xảo không tệ.”

Giang Luyện có miệng mà khó lòng trả lời, chỉ cười khổ.

Trời đất chứng giám, nào có cấu kết gì đâu, cấu kết cấu kết, đầu bên kia vừa câu, đầu bên này đã kết, nhưng bất kể là hắn hay Vi Bưu cũng đều không nói được câu nào với Bạch Thủy Tiêu…

Sau khi nghe thấy tiếng đập cửa và tiếng hét sợ hãi của Huống Mỹ Doanh, hắn và Vi Bưu gần như đồng thời ngồi dậy, lại đồng thời xông về phía cửa, giữa lúc cuống cuồng mắc phải sai lầm, Vi Bưu sốt ruột cứu Huống Mỹ Doanh, khổ người lại to lớn, bất chấp xông ra ngoài, thế năng không thể khinh thường, vậy nhưng lại đụng hắn ngã lăn.

Hắn bị đụng phải ngã ngồi xuống bên tường, mông đau, đầu đau, cộng thêm đang ngủ vừa tỉnh, có hơi hoa mắt váng đầu. Vi Bưu kéo cửa ra, ánh đèn mờ tối bên ngoài bao bọc lấy tiếng người loáng thoáng, hắn ngẩng đầu nhìn về phía cửa, chỉ cảm thấy bóng đen đang đứng khuất sáng kia vừa quái dị vừa cồng kềnh.

Chờ đến lúc hắn nhìn rõ ra được thực ra đó là hai người, tầng trên tầng dưới đã ầm ĩ tiếng người, Bạch Thủy Tiêu kẹp Huống Mỹ Doanh lui vào giữa hành lang, chỉ nói một câu.

“Giúp tôi bắt cóc Mạnh Thiên Tư, bằng không…”

Cô ta không nói hết, cũng không cần phải nói hết, lưỡi dao lơ lửng loang lổ vết máu kia rét lạnh hơn bất kỳ ngôn từ uy hiếp nào.

Bởi vậy nên, thật sự không có cấu kết nào ở đây, Bạch Thủy Tiêu ra một đầu đề mở, hắn và Vi Bưu “tích cực” phát huy tính năng động chủ quan mà thôi.

Nhưng lời này không thể nói với Mạnh Thiên Tư được, con thuyền hữu nghị vốn đã chế tạo rất gian nan, giờ còn chưa được khua mái chèo đã dò nước, Giang Luyện qua loa đáp: “Thì là bị ép…rất đột xuất.”

Mạnh Thiên Tư nói: “Rất đột xuất mà còn phối hợp được tốt như vậy, có tính lập đội lâu dài không?”

Đang nói chuyện, Bạch Thủy Tiêu đã kẹp Huống Mỹ Doanh chen vào ghế phó lái, quát Vi Bưu: “Lái xe.”



Xe van cỡ nhỏ xì khói nhanh chóng chạy đi, tất cả hộ núi đều xúm lại quanh Mạnh Kình Tùng, chỉ chờ y ra lệnh.

Mạnh Kình Tùng hỏi Liễu Quan Quốc trước: “Trên xe có thiết bị định vị không?”

Đó là thiết bị gắn kèm cho mọi xe quỷ non dùng.

Liễu Quan Quốc gật đầu: “Có.”

***

Xe van vù vù lao ra khỏi thành phố.

Ghế phó lái chen chúc hai người, vốn đã chật chội, Bạch Thủy Tiêu còn phải nghiêng người ra sau để thu hết ghế sau và ghế lái vào tầm mắt, phòng ngừa mấy người này làm gì mờ ám – song cô ta tựa hồ rất thuộc đường, hệt như có mắt sau đầu, đến mỗi một ngã rẽ đều chỉ ngắn ngủi một câu “Rẽ trái” hoặc “Đi thẳng”, không chút rề rà, khống chế xe ngựa không dừng vó.

Rất nhanh đã đi hết đường cái, lên tới đường núi.

Đường núi không bằng phẳng như đường cái, không chỉ xóc nảy mà còn chật hẹp, lúc tới khúc cua, một bên dán núi, bên kia gần như không che không chắn, hơn nửa đêm, tinh thần lại căng thẳng cao độ, tay nắm tay lái của Vi Bưu đổ đẫm mồ hôi, Bạch Thủy Tiêu còn nạt y: “Đừng hòng giở trò, bắt chước người khác đột ngột bẻ lái – anh có nhanh nữa cũng chẳng nhanh bằng dao của tôi đâu, tôi không có hứng thú gì với cô bé vẽ tranh này, các anh không cần phải chôn theo.”

Vi Bưu đầy một bụng những câu “Mẹ kiếp cái quái gì vậy” không nói ra miệng, kiểu đường núi này thì còn bẻ lái được cái gì nữa, y đã sống đủ đâu.

Chỉ có Mạnh Thiên Tư là giật mình, cô ả này quả nhiên là nhằm vào cô.

Cô không nhịn được nhắc lại câu cũ: “Cô lạc động của cô, tôi giữ núi của tôi, nước sông không phạm nước giếng, thú không chen lời chim, nói rõ ràng ra đi, làm thế này là để làm gì?”

Bạch Thủy Tiêu đổi tay cầm dao, lưỡi dao vẫn đặt trước họng Huống Mỹ Doanh như cũ, tay phải rờ thẳng lên búi tóc.

Giang Luyện theo hướng nhìn qua.

Bạch Thủy Tiêu hẳn là người Miêu, búi tóc kiểu phụ nữ Miêu, người bình thường khi đề cập tới cái này đều sẽ nghĩ đến đầu đầy trang sức bạc óng ánh nặng trịch, thực ra đó chỉ là trang phục khi gặp đại hội đại sự cấp quốc gia, phụ nữ Miêu hằng ngày cũng không ăn diện gì, mặc vậy không tiện lao động.

Con gái Miêu bình thường đều vấn mái tóc dài lên buộc thành búi tóc trên đỉnh đầu, búi tóc này rất lớn, bởi vậy nên để ngừa bị rối còn có thể quấn khăn đen lên, sau đó cắm vào chính diện một đóa hoa, biểu trưng cho mặt trời, phía sau cắm lược, biểu trưng cho mặt trăng, ai đỏm dáng sẽ tô điểm thêm cái khác cho búi tóc, nói chung là thế nào đẹp thì làm thế ấy.

Bạch Thủy Tiêu thò ngón tay mò mò một lúc, lấy từ bên trong khăn quấn ra một cái que nhỏ hình trụ dài chừng một tấc ra kẹp giữa ngón tay, lại liếc sang Giang Luyện, hỏi: “Có lửa không?”

Chẳng lẽ là thuốc lá?

Giang Luyện từng nghe cụ nuôi nói, ở vùng Vân Nam có một loại gỗ có thể coi như thuốc lá – dân bản xứ chặt ra thành que mảnh cùng kiểu với thuốc lá, châm lửa ngậm lấy, vừa có thể qua cơn nghiện thuốc, vừa không có chất có hại như nicotin, chỉ là không ngờ ở Tương Tây cũng có. Bạch Thủy Tiêu vô tư ghê, rơi vào tình cảnh này rồi còn nhớ nhung chuyện hút thuốc, cách giấu thuốc lá còn khá là…gợi cảm nữa.

Hắn lắc đầu: “Tôi không hút thuốc.”

Bạch Thủy Tiêu giơ giơ cái que hình trụ kia lên cho Mạnh Thiên Tư xem: “Tôi chính là đốt cái này rồi ném vào hành lang, qua một lúc là người của cô gục. Đáng tiếc lượng quá ít mà không gian lại quá lớn, hiệu quả giảm đi nhiều.”

Mạnh Thiên Tư ngoài cười trong không cười: “Không gian trong xe nhỏ, đủ để cô thi triển đó.”

Bạch Thủy Tiêu cũng cười: “Đang lái xe mà, hơn nữa, cũng không có lửa.”

Nói tới đây, cô ta nhìn ra ngoài cửa sổ xe, nói: “Dừng xe.”

Vi Bưu đạp phanh thắng gấp.

Tiếng xe tắt hẳn, bốn phía lập tức yên lặng đến có phần rùng rợn, núi trên vách dưới đều như một quầng tối đen đặc như mực, đường núi quanh co thì lại được ánh trắng chiếu rọi sáng loáng.

Giang Luyện nhìn ra ngoài cửa sổ: vị trí dừng xe vô cùng kỳ quặc, đúng tại chỗ ngoặt của khúc cua, là khu vực đỗ xe nguy hiểm, cơ sở hạ tầng trong núi không tân tiến, vách núi không có hàng rào bảo vệ, chỉ cắm vài thanh gỗ tượng trưng – dừng ở đây, ngộ nhỡ trước sau có xe đến nhất định sẽ va chạm, mà một khi ngã xuống, vách núi cao như vậy, ngoài chết ra thì cũng chẳng còn cách nghĩ nào khác.

Bạch Thủy Tiêu cắn lấy que trụ vào giữa hai hàm răng như ngậm nửa điếu thuốc lá, một tay bẻ cằm Huống Mỹ Doanh giơ lên, lưỡi dao lại dí sát vào yết hầu nhô ra, tội nghiệp Huống Mỹ Doanh chỉ có thể phát ra những âm thanh vụn vặt nơi cổ họng, đến lời cũng không nói ra được.

Vi Bưu vừa cuống vừa tức: “Cô làm gì vậy hả!”

Bạch Thủy Tiêu cứ thế cắn que trụ nói, phát âm hơi mơ hồ: “Không gì cả, chỉ là đề phòng các người quấy rối thôi.”

Lại cười với Mạnh Thiên Tư: “Tôi cũng chỉ làm việc cho người khác, đã hẹn giao người ở đây, không muốn bước chân vào cửa, còn có thể gây loạn gì nữa chứ.”

Quả nhiên, sau lưng còn có người khác.

Trước khi gặp được chính chủ, Mạnh Thiên Tư cũng không muốn phát sinh rắc rối gì, cô cười cười, ngồi càng thêm vững: “Ai ra tờ thế, có thể cho chút phong thanh không? Đợi đến lúc gặp mặt, tôi cũng chuẩn bị tốt được.”

Ra tờ tức là bỏ tiền, chỉ kẻ chủ mưu, gần một trăm năm qua, tiền mặt được thế chỗ vàng bạc, tiền tài không tính bằng “đĩnh” hay “lượng” nữa mà tính tiền bằng “tờ”, ngôn ngữ trên đường cũng liền thân mật gọi nó là “tờ”, Mạnh Thiên Tư mở miệng dùng ngôn ngữ trong nghề thứ nhất là thuận miệng, thứ hai cũng là tò mò địa vị của Bạch Thủy Tiêu, muốn thăm dò thử nguồn gốc của cô ta.

Bạch Thủy Tiêu dường như cũng không biết tờ này là tờ gì, nhưng điều đó cũng không ngăn cản cô ta luận ra ý nghĩa, cô ta nhìn chằm chằm Mạnh Thiên Tư một lúc nhưng đang suy tính xem có được hay không, sau cùng vậy mà lại sảng khoái gật đầu: “Cũng được.”

Nói đoạn cúi người về phía Mạnh Thiên Tư, mà Mạnh Thiên Từ thì cũng ngồi thẳng người tự nhiên, ngẩng mặt lên.

Đúng lúc đó, Giang Luyện để ý thấy trong mắt Bạch Thủy Tiêu gợn lên một làn sóng vi diệu.

Hắn cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng còn chưa nghĩ rõ đã không còn kịp nữa rồi: Bạch Thủy Tiêu mím môi một cái, sau đó, trong que trụ đang ngậm phun ra một chùm bột phấn màu trắng.

Giang Luyện thầm biết không ổn, lập tức nín thở. Kỳ thực bột phấn không phun về phía hắn, dẫu vậy, bởi vì ngồi gần nhất nên vẫn bị dính một chút, chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, có điều hắn coi như vẫn ổn, Mạnh Thiên Tư mới là người bị phun đầy mặt đầy cổ, đừng nói nín thở, đến nhắm mắt cũng đã muộn, Giang Luyện chỉ nghe thấy tiếng cô không ngừng ho khan.

Tiếp đó cô thế nào, Giang Luyện cũng thật sự không chú ý tới được – cửa xe bị thô bạo đá văng ra, Bạch Thủy Tiêu kéo Huống Mỹ Doanh, xem phương hướng là đi thẳng về phía vách núi.

Sống lưng Giang Luyện buốt lạnh, vội vàng xuống xe đuổi theo, Vi Bưu cũng gấp gáp từ bên kia vòng qua, nhưng khoảng cách chỗ Bạch Thủy Tiêu đứng lại quá gần vách núi, hai người cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ. Huống Mỹ Doanh thì đã sợ đến tắt cả tiếng, chỉ có thân mình là không ngừng run rẩy.

Bạch Thủy Tiêu cười với hai người, nửa người tựa hồ chìm vào bóng tối bên dưới vách núi: “Thử xem các người có đủ nhanh hay không.”

Lời còn chưa dứt, nụ cười vụt tắt, lực tay cô ta không nhỏ, lưu loát nhấc cả người Huống Mỹ Doanh lên ném mạnh ra ngoài vách núi.

Giang Luyện chỉ cảm thấy trong não ầm ầm chấn động, mẹ kiếp, con ả đúng thật là kẻ điên!

Tình thế nguy cấp, chẳng có nửa giây mà lưỡng lự, gần như cùng lúc khi cơ thể Huống Mỹ Doanh bay ra ngoài, Giang Luyện đã co giò chạy tới vách núi, dưới chân giẫm mạnh một cái, mượn lực lao thẳng xuống chỗ Huống Mỹ Doanh rơi xuống, đồng thời gào lên: “Bắt lấy anh!”

Cũng may là ít nhiều gì thì thân thể Huống Mỹ Doanh cũng gầy yếu, váy ngủ và áo khoác mặc trên người lại căng gió, nhất là áo khoác, trải qua cả một đường giày vò, vốn đã nửa cởi nửa rơi, cú ném này lại khiến nó rời hẳn khỏi thân, bị gió thổi phồng lên tung bay. Tuy Giang Luyện không thể xuất phát sau mà đến trước được, nhưng cũng vừa vặn tóm được eo Huống Mỹ Doanh, lật mình giữa không trung, đúng lúc trông thấy Vi Bưu rống to một tiếng, hai tay ôm lấy cọc gỗ, cả người vươn ra ngoài vách núi, lấy thân làm thừng cho hắn bắt lấy.

Giang Luyện áng chừng vị trí chân y, trực giác cảm thấy không bắt được, trái tim thình lình chìm xuống, chợt lại trông thấy cái áo khoác, không chút nghĩ ngợi tóm lấy, ném về phía chân Vi Bưu quấn quấn, cái áo cuốn lấy mắt cá chân Vi Bưu nhưng rốt cuộc cũng không phải nút thắt, lại long ra, nhưng Giang Luyện nương theo lực quấn này, đột ngột rướn người lên, cánh tay vươn dài, rốt cuộc cũng bắt được mắt cá chân Vi Bưu.

Ba người, người này treo lên người kia, xâu thành hình hồ lô, cứ như vậy lung lay treo dưới vách núi.

Chuỗi hành động rơi kéo quấn bắt này nhìn thì phức tạp nhưng kỳ thực chỉ trong sát na, mỗi thời cơ vụt qua rồi đều là mất hẳn: giả như không bắt được Huống Mỹ Doanh, hoặc là vóc người Vi Bưu không cao lớn như vậy, hay không có cái áo khoác, hậu quả đều không dám tưởng tượng.

Lúc này Giang Luyện mới cảm thấy nghĩ mà sợ, sau lưng mồ hôi ra như mưa, gió núi thổi qua, lại lạnh buốt lưng, chỉ cảm thấy tứ chi cứng ngắc, bất kể là cánh tay đang ôm lấy Huống Mỹ Doanh hay cánh tay nắm mắt cá chân Vi Bưu cũng đều không nhúc nhích được nữa. Huống Mỹ Doanh đã nghẹn thở, đầu rũ oặt xuống, hiển nhiên là lại bị sợ đến ngất đi rồi.

Trên vách núi vọng xuống tiếng xe van khởi động.

Tiếng vang này lập tức kéo Giang Luyện trở lại hiện thực: Bạch Thủy Tiêu không nói dối, cô ta chỉ muốn Mạnh Thiên Tư, tới vách núi này chỉ là khôn ngoan ném những vướng víu là họ đi mà thôi, chết sống cũng không quan trọng.

Giang Luyện ngẩng đầu lên, muốn thúc giục Vi Bưu mau kéo hai người họ lên.

Thực ra nào cần đến hắn thúc giục, Vi Bưu lo lắng cho an nguy của Huống Mỹ Doanh, chỉ hận không thể dài thêm mấy cánh tay xuống kéo. Y ôm cọc gỗ mượn lực, gắng gượng kéo nửa người trên lên mặt vách núi, lại rờ tay bám chặt lấy mặt đất, từng tấc từng tấc di chuyển. Thân mình lực lưỡng trâu bò như thế thật sự không phải là để trưng cho đẹp, trên chân treo hai người, vậy nhưng lại không chậm trễ chút nào, đợi đến lúc nửa người trên đã thỏa đáng, lập tức xoay người ngồi vững như xây móng, trầm giọng thét dài, vận lực, kéo cả Giang Luyện và Huống Mỹ Doanh lên.

Giang Luyện vừa tiếp đất đã lập tức buông Huống Mỹ Doanh ra đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh, nhìn nhìn một hồi, cuối cùng cũng trông thấy ánh đèn xe van như đom đóm lập lòe, ẩn hiện dưới bóng cây rậm rạp dày đặc.

Hắn chỉ bỏ lại một câu “Anh chăm sóc Mỹ Doanh”, người đã chạy vội ra ngoài.

Vi Bưu đang kiểm tra thương thế cho Huống Mỹ Doanh, chợt nghe câu này, tức đến nhảy dựng lên: “Người nhà đã thế này rồi cậu còn quản người khác làm gì!”

Lúc ngẩng đầu lên nhìn, Giang Luyện đã lao vụt đi, nhấp nhô mấy cái, bóng người cũng không thấy đâu nữa.
 
Quyển 3 - Chương 1


Sắc trời mờ tỏ, ban mai trong núi còn thấm đẫm sương đêm, giăng khắp nơi như lưới, lúc sà xuống lúc bay lên, bên một ao nước trong thung lũng vang rộn tiếng người huyên náo khác thường.

Nước ao không sâu, bên trong xiêu vẹo một chiếc xe van màu trắng chổng ngược, không ít người đứng trên bờ nước, người kéo thừng, người đẩy xà beng xuống nước, còn có người bơi từ dưới thân xe ra, loạt xoạt đưa tay lau nước trên mặt.

Mạnh Kình Tùng ngồi xổm trên vách đá trên cao, đưa tay lần sờ vết bánh xe trên mặt đất, mép vách ẩm bùn, vết bánh xe vô cùng rõ ràng: xe hẳn là đã mất khống chế từ nơi này, lao xuống ao nước cách vài mét bên dưới, sau đó giữ tư thế lật ngược như thế chờ họ chạy tới.

Rơi từ độ cao này xuống thì có bị lật xe cũng không gặp thương tổn gì lớn, huống hồ đã xác nhận được rằng trong xe không có ai.

Người đi đâu hết rồi, là Bạch Thủy Tiêu như ý hay là Thiên Tư đắc thủ? Nhưng nếu là Thiên Tư chiếm thế thượng phong thì tại sao lại không tìm cách liên lạc với họ?

Mạnh Kình Tùng cau mày, trước đó hắn chỉ hơi không yên lòng: Ánh mắt Mạnh Thiên Tư nhìn y khi ấy khiến nhìn ra vụ bắt cóc đó cũng không quá nguy hiểm, giống như cô đang tương kế tựu kế hơn, bởi vậy nên y không gấp gáp cứu người mà cố gắng phối hợp, yên lặng theo dõi diễn biến.

Mãi đến khi Liễu Quan Quốc báo điểm đỏ trên màn hình theo dõi đã bất động hồi lâu, hơn nữa xem vị trí hoàn toàn là ở trong núi, xung quanh không có bất kỳ thôn trại nào, y nghe mà bồn chồn, lúc này nỗi lo âu mới dần lên men.



Phía sau vang lên tiếng bước chân quen thuộc, Mạnh Kình Tùng chà chà ngón tay, thổi bụi trong lòng bàn tay, đứng lên: “Thế nào?”

Người tới là Liễu Quan Quốc, y bôn tẩu cả một đêm, mặt mày sưng phù, dưới mắt cũng thâm xanh: “Đã tìm kiếm xung quanh, phát hiện được vài vết chân trong bụi cỏ nhưng không có giá trị gì – căn bản là không nhìn ra đi về hướng nào.”

Mạnh Kình Tùng ừ một tiếng, ý bảo gã tiếp tục.

“Bạch Thủy Tiêu có hai nơi ở, một căn hộ ở huyện Long Sơn, nhà cũ thì ở trại Lạp Khoa, hai nơi đó chúng tôi đều đã tới, không người, cô ta hẳn còn có chốn dừng chân khác, hỏi hàng xóm đều nói là không gặp cô ta thường xuyên lắm, cũng chưa từng thấy cô ta có bạn bè qua lại nào.”

Điều này thực ra cũng nằm trong dự liệu, Bạch Thủy Tiêu là kẻ xảo quyệt đến vậy kia mà.

Mạnh Kình Tùng có phần bực dọc: “Không còn gì khác? Người được mời tới ăn bữa cơm chúng ta mời mà chỉ biết có chừng đó về cô ta thôi?”

Mặt Liễu Quan Quốc nóng ran, khó mà mở miệng được.

Lạc hoa động nữ kỳ thực hơi đặc biệt, không có thanh thế lớn như đi chân hay Thần tự đầu, về mặt bản chất thì chỉ là những cô gái bơ vơ si dại, được thần động phù hộ, có chút bản lĩnh vượt trội hơn người, không thích qua lại với người khác, gần gũi với núi rừng hơn – Lần này Mạnh Thiên Tư mời khách muốn chu toàn mọi mặt không để sót bên nào, chỉ cần lai lịch hơi kỳ dị một chút là đều nhận được thiếp mời, giống như lão Gàn vậy, chỉ là một thợ làm mặt nạ rước thần thôi nhưng cũng được một ghế.

Ai mà ngờ được sau lưng con ả này lại phức tạp như vậy.

Mạnh Kình Tùng dứt lời rồi cũng biết là nói thế không ổn, hơi mang ý giận chó đánh mèo, nhưng tự phụ với thân phận của mình nên cũng chẳng bỏ qua sĩ diện mà nói lời mềm mỏng với Liễu Quan Quốc được, bèn chuyển sang để tài khác – đúng lúc này trông thấy có một chiếc xe từ đằng xa đang phóng tới.

Y còn tưởng là xe cô đi ngang qua nán lại hóng hớt, mãi đến khi có hai người vội vàng xuống khỏi xe, Liễu Quan Quốc sốt sắng tiến lên đón, mới biết người tới cũng là quỷ non.

Lại nhìn thử mặt, trông có hơi quen quen, ngẫm nghĩ một lát thì nhớ ra: là Thẩm Vạn Cổ và Thẩm Bang, không phải họ đưa lão già dở hơi kia đi du sơn ngoạn thủy rồi à?

Nghĩ tới ai người đó hiện ra: Cửa hàng ghế sau xe bật mở, nhô ra nửa người hết nhìn đông lại nhìn tây, người đó chính là Thần Côn.

Mạnh Kình Tùng hơi phiền người này, cảm thấy người này như keo dính vậy, vung không rời còn vướng tay vướng chân, nhưng lại không thể không nể mặt cô bảy, vì vậy nên lúc ánh mắt hai bên chạm nhau, y khách khí cười cười với lão.

Không ngờ nụ cười ấy lại cổ vũ lão già này, lát sau, Thần Côn vui vẻ chạy tới: “Nghe nói cô Mạnh bị một lạc hoa động nữ bắt cóc đi mất rồi?”

Bắt cóc cái gì! Mấy tên thủ hạ này lúc nào cũng thích nói chuyện giật gân, tam sao thất bản, Mạnh Kình Tùng có phần không vui, lại không tiện thể hiện ra: “Là Thiên Tư chủ động đi cùng cô gái đó, cô ấy có quyết định của riêng mình.”

Vẻ mặt Thần Côn ân cần quan tâm: “Tôi nghe nói không tìm ra cái cô Bạch Thủy…gì gì đó?”

Hỏi lắm thế, có thấy mình hơi bị tọc mạch quá rồi không? Mạnh Kình Tùng sốt ruột: “Phải.”

“Cái cô Bạch Thủy gì đấy thực sự là lạc hoa động nữ à? Không phải giả đấy chứ?”

Cái này còn giả được nữa à? Mạnh Kình Tùng nhất thời không đáp được, cũng may đám Liễu Quan Quốc cũng đi tới, vừa vặn nghe thấy, trả lời giúp y: “Chắc không phải giả đâu, Bạch Thủy Tiêu lạc động đã nhiều năm rồi, người trại Lạp Khoa đều biết chuyện này cả.”

Thần Côn ừ một tiếng, ra chiều đăm chiêu: “Động mà cô ta lạc là cái nào?”

Lão Thần Côn này hình như hỏi rất có trật tự, Mạnh Kình Tùng giật mình: “Chuyện này quan trọng lắm à?”

Thần Côn nguýt y: “Nói nhảm, đương nhiên là quan trọng rồi, cậu có hiểu thế nào là lạc động không?”

Thẩm Vạn Cổ bên cạnh sợ hết hồn, vội túm góc áo lão: “Chú…chú Côn, chú nói chuyện với trợ lý Mạnh nên…lễ độ một chút.”

Trước mặt Mạnh Kình Tùng và Liễu Quan Quốc, gã không dám gọi lão là “nội Côn”, sợ bị mắng: Ai là ông nội anh? Làm quỷ non mà lại gọi người khác là nội à?

Nếu là thường ngày, bị người khác vô lễ mỉa mai như vậy, Mạnh Kình Tùng đã sớm trở mặt rồi, nhưng hơn thua với loại người bừa bãi như Thần Côn thật chẳng có nghĩa lý gì, y bèn dịu giọng lại: “Chú Thần…từng nghiên cứu về lạc động ạ?”

Thần Côn khoe khoang: “Tôi tới Tương Tây khá nhiều lần rồi, từng gặp lạc hoa động nữ, còn từng chứng kiến lão vu người Miêu đến chỗ thần động cướp hồn nữa cơ, cậu thấy bao giờ chưa?”

Câu cuối là nói với hai Thẩm, hai người ra sức lắc đầu.

Thần Côn càng nói càng hứng khởi: “Cướp hồn là phải dùng võ, tay cầm gậy, hết gõ lại đục xuống đất rồi thì đập mạnh lên vách động, còn phải niệm chú: Cổn ba bắt hồn, thân ở nơi giếng lớn giếng nhỏ, động to động bé, kênh rộng kênh hẹp… Phải thảo phạt mi, khiến mi không được sống yên ổn…”

Nói được nửa thì ngắc ngứ, thở dài một hơi: “Không xong rồi, trí nhớ không rõ ràng nữa rồi, thế mới nói trí nhớ tốt chẳng bằng ngòi bút tồi, may mà tôi có ghi lại trong sổ, đoạn đó dài lắm, đợi tôi về lật tìm xem.”

Mạnh Kình Tùng mở cờ trong bụng, kỳ thực quỷ non không hiểu biết nhiều lắm về lạc động, lật qua lật lại cũng chỉ có vài câu qua loa trong sách bách khoa, nhưng những lời Thần Côn nói quả thật nghe có vẻ khá chuyên nghiệp, y bắt đầu khách khí: “Tại sao chú lại cảm thấy cái động Bạch Thủy Tiêu lạc rất quan trọng?”

Thần Côn đáp: “Rõ ràng thế còn gì, nếu cô ta đúng là lạc hoa động nữ thì chuyện cô ta làm đều là nghe thần động sai bảo, lạc động tiếng Miêu gọi là gì, anh có biết không?”

Xem chừng mấy người này đều không hiểu, Thần Côn giơ tay biểu thị số “hai”: “Hai cách gọi, một là cổn ba, ý nghĩa rất rõ ràng, là hồn rơi mất trong động; còn một cách gọi khác là trảo đỉnh bạc lược, nghĩa của cách gọi này rất thâm sâu, biểu trưng cho trời long đất lở.”

Nói vậy, Mạnh Kình Tùng vẫn ổn nhưng đám Liễu Quan Quốc thì hoàn toàn ngơ ngác, Thần Côn thở dài, cảm thấy giao tiếp với người thiếu học thức thật sự quá mệt mỏi: “Trời long đất lở ở đây ý là người đi sang thế giới bên kia, cậu nghĩ mà xem, trời long rồi không còn là bầu trời trước đó nữa, đất lở rồi, cậu cũng ngã oạch xuống, thế giới của cậu có còn là thế giới ban đầu không?”

Thẩm Bang gãi đầu: “Theo nghĩa rộng thì thế giới vẫn là thế giới đó nhưng theo nghĩa hẹp, lấy con người làm trung tâm thì thế giới nhỏ quanh người quả thực là có thay đổi.”

Ai thèm quan tâm nghĩa rộng nghĩa hẹp gì chứ, Thần Côn tiếp tục đĩnh đạc nói: “Như cái lạc động không phải là cơ thể mà là hồn phách, là tâm linh, bởi vậy nên, trảo đỉnh bạc nhược ý là hồn rơi vào thế giới bên kia, cô gái đó rất khó giao tiếp với người thường, thứ giao tiếp với cô ta là một thế lực khác mà người thường không nhìn thấy, không sờ được, cũng không tiếp xúc được.”

Liễu Quan Quốc nghe mà giật mình: Trong truyền thuyết, hình như lạc hoa động nữ đúng là rất khó giao tiếp với người bình thường, hằng ngày độc thoại, lúc khóc lúc cười, nói chung là đắm chìm trong thế giới của mình không cách nào thoát ra – trong mắt người ngoài thì chính là thất hồn lạc phách, hoặc nói tợn hơn chút thì là bị điên, bị dại rồi.

Giao tiếp với thế lực siêu hình nào đó không nhìn thấy? Lông tóc Liễu Quan Quốc dựng đứng cả lên, nhìn quanh nhìn quất, cứ cảm thấy như có một luồng khí lạnh đang muốn bò lên người mình.

Mạnh Kình Tùng mặt không đổi sắc: “Ý chú là, Bạch Thủy Tiêu bị một thế lực…thần động kỳ quái nào đó bày mưu đặt kế?”

Thần Côn xòe hai tay ra: “Tôi đâu có nói vậy, chọn từ nói ra cẩn thận chút đi, tôi chỉ nói là, nếu Bạch Thủy Tiêu không phải giả mạo mà là một lạc hoa động nữ thật thì việc cô ta làm đều là vì thần động, không còn ai khác. Bởi vì trong mắt cô ta căn bản đều chẳng là cái thá gì, ông trời bảo cô ta làm việc cô ta cũng phớt lờ.”

Dừng một chút lại bổ sung: “Còn nữa, thần động chỉ là một cách gọi quen nếp mà thôi, người Miêu không giống người Hán, trong văn hóa của họ không phân biệt quỷ thần, thần ma tiên tổ, miễn là thế lực siêu phàm, bất kể nó có phải thần thánh hay không, họ đều gọi là thần hết. Bởi vậy nên thần động không phải kiểu thần tiên mà cậu nghĩ đâu, gọi là quỷ động cũng chẳng sao, dù sao…cũng chính là loại thế lực mà họ không lý giải được, cố gắng tôn kính, không động chạm gì đến.”

Phải nói thế nào nhỉ, bị dồn ép thì cũng dám đi thảo phạt, đi chiến đấu đấy, nhưng đấu không lại thì chỉ có thể cúi đầu cam chịu số phận mà thôi, không giống với người Hán: trong văn hóa người Hán, bái thổ địa kính thành hoàng, song xưa nay chưa từng thấy có ai lập đội cầm dao cầm gậy đi đánh đấm thần linh bao giờ.

Thần Côn hơi thất thần: Ừm, nhận thức về quỷ thần của người Miêu…thú vị đấy, rất thú vị.

***

Lúc gà cất tiếng gáy đầu tiên, Mạnh Thiên Tư đã tỉnh lại, có điều không mở mắt ra nổi, tay chân bị trói đến tê rần, tứ chi bủn rủn, đầu cũng nặng trịch.

Cô đoán là dược tính còn chưa hết, dứt khoát nhắm mắt điều tức, lắng nghe động tĩnh trong ngoài phòng: trực giác cảm thấy là một sơn trại hoang vắng, bởi nghe một hồi lâu mà không thấy có tiếng xe, tiếng điện thoại đổ chuông, hay thậm chí là tiếng ti vi – trái lại, tiếng gà gáy bò kêu, tiếng khua đục thì lại liên tiếp không dứt, thỉnh thoảng có người nói chuyện lớn tiếng, còn nói giọng địa phương, xì xà xì xồ toàn tiếng địa phương cả nên căn bản là nghe không hiểu.

Một lát sau, miễn cưỡng đã có thể mở mắt, nhìn thấy mình đang ở trong một phòng chứa đồ, chật chội cũ nát, nhưng theo ánh sáng có thể nhìn ra được quét dọn sạch sẽ lạ thường.

Trong phòng không có ai, điều này khiến cô tạm thời thở phào, chợt sững lại, cảm thấy nằm sấp thế này rất không có khí chất, không phù hợp với thân phận, theo lời dạy của các cô bác thì “chết cũng phải chết có phong phạm của bậc vương giả”, bèn vận hết sức lực lên, từng chút chút hoạt động cơ thể ngồi dậy.

Ngồi dậy được rồi, có phần thổn thức: Chuyện đặt mình vào nguy hiểm này biến số có hơi to, dù cô là phối hợp bị bắt cóc nhưng hiện giờ, quyền chủ đạo hiển nhiên đã hơi lệch rồi, cô có nên mạnh tay ra chiêu không?

Không, chưa thấy thỏ chưa thả chim ưng, kẻ chủ mưu đứng sau còn chưa lộ diện, cô khoe mẽ cho ai xem chứ?

Lại suy tính tình cảnh: cũng không đến nỗi sẽ bị giết chết, muốn giết thì đã giết từ đêm qua rồi, nhưng có phải ăn đau chịu khổ hay không thì khó mà nói được, có thể sẽ bị đánh…

Mạnh Thiên Tư nhíu chặt mày, trực giác cảm thấy chịu đau thể xác là không thể tránh khỏi, có thân phận hạn chế thể diện, lại không thể khép nép xin tha, chỉ có thể gắng gượng chịu đựng, thế nên mới nói ở trên cao khó chịu được gió lạnh – giống như mất nước thời cổ đại vậy, dân đen có thể chạy trốn có thể đầu hàng, song tầng lớp quý tộc thì về cơ bản cũng chỉ có thể lấy cái chết tuẫn quốc, có đầu hàng cũng sẽ bị vô số người chê trách sau lưng.



Đương lúc suy nghĩ lên xuống, chợt nghe có tiếng mở cửa, xem ra sắp tới đoạn giao chiến rồi: Mạnh Thiên Tư ngồi thẳng người, gắng sức khiến mình trông không có chật vật.

Khóa móc rơi xuống, cửa gỗ két một tiếng mở ra, ngoài cửa trắng lóa nắng ban mai trắng lóa, trong ngoài chênh lệch sáng tối, Mạnh Thiên Tư nhất thời không thích ứng được, chỉ thấy có hai hình bóng một cao một thấp.

Cao chắc là Bạch Thủy Tiêu, thấp thì…

Cô trực giác cho là kẻ chủ mưu, không rảnh để ý đến nắng sớm lóa mắt mà nhìn chòng chọc, rốt cuộc cũng thấy rõ là một mụ già hơn sáu mươi, hẳn là cuộc sống khốn khó, mặc áo quái tử vải xanh, đi đôi giày vải mũi vuông, quần áo và giày đều có dấu vết giặt nhiều đến bạc màu, khuôn mặt trông có vẻ cay nghiệt, ấn đường ngập tràn lệ khí, nhìn là biết là loại đàn bà nhà quê rất khó dây vào, hàng xóm cũng phải lánh xa vài phần.

Mụ già ôm một cái bình bịt miệng đen bóng, miệng nhỏ bụng lớn, người thường trông thấy có lẽ sẽ cho là bên trong đựng dưa muối, nhưng Mạnh Thiên Tư lại không đoán vậy, liên hệ trước sau, một ý nghĩ chớp lóe, cô bật thốt: “Bà là thảo quỷ bà?”

Thảo quỷ bà là cách gọi “cổ bà” của dân bản địa, nghe đồn nhà nuôi cổ đều vô cùng sạch sẽ bởi cổ trùng ghét bẩn tưởi, bởi vậy nên cách giải cổ cấp thấp nhất chính là đổ đồ cứt đái vào, bẩn thỉu như vậy sẽ khiến cổ trùng rời khỏi cơ thể.

Bữa mời khách hôm trước của Mạnh Thiên Tư, phàm liên quan đến cổ bà đều chỉ “nhận quà không dự tiệc”, bởi cổ bà rất sợ để lộ thân phận của mình – hàng xóm biết anh nuôi cổ, sẽ sống nơm nớp biết bao, lỡ ngày nào đó dính vào thì thật sống không bằng chết, so ra thì thà tiếp xúc với cản thi cũng không muốn có hàng xóm là thảo quỷ bà.

Mụ già kia cười cười, trong mắt ẩn chứa hàm ý “cô tự biết rồi đấy”, hiển nhiên là ngầm thừa nhận.

Mạnh Thiên Tư cũng mỉm cười, trong lòng thầm mắng: tặng quà thật đúng là để nuôi chó rồi.
 
Quyển 3 - Chương 2


Có điều, giữa người với người vẫn luôn có sự cao thấp về khí chất khí thế, Mạnh Thiên Tư trực giác, cổ bà này thấp hàng hơn Bạch Thủy Tiêu, nói bà ta là kẻ chủ mưu là đề cao quá rồi.

Cô nhìn lại về phía Bạch Thủy Tiêu: “Vết cào của cọp ngựa hẳn không làm giả được, nhưng vết dao kia…là chính cô chém phải không?”

Bạch Thủy Tiêu cũng rất sảng khoái: “Đúng vậy, hôm đó không may, tránh được quỷ non truy lùng rồi lại đụng phải bầy cọp ngựa, thân bất do kỷ trèo lên cây thoát thân, ai ngờ tên Giang Luyện kia lại nhiều chuyện vậy, tìm tới.”

Dù sao cũng sẽ bị phát hiện, mà một khi bị phát hiện sẽ rất khó thoát khỏi tình nghi, bèn hạ quyết tâm chém mình hai nhát, cũng may là: xuống tay như vậy, vết thương toàn thân chảy máu ở những cấp độ rất khác nhau, bác sĩ am hiểu có thể nhìn ra được vết thương cũ mới nhưng Giang Luyện thì không chuyên nghiệp như vậy, hơn nữa lúc cô ta được đưa tới Vân Mộng Phong thì cũng đã qua gần một đêm, có mới hơn nữa cũng thành cũ; ông trời cũng tốt bụng, không lâu sau khi được Giang Luyện cứu về thì đổ mưa, có mưa to cọ rửa, mọi vết tích đều không thể tra tìm được nữa.

Mạnh Thiên Tư làm động tác giãy giãy, nhắc nhở Bạch Thủy Tiêu rằng mình cũng có khả năng thoát được: “Dù sao tôi cũng rơi vào tay cô rồi, thế nên mới nói, cô trăm phương nghìn kế như vậy là có mưu đồ gì?”

Bạch Thủy Tiêu ngồi xổm xuống, mắt ngang với tầm mắt cô: “Cô nói trước cho tôi biết đã, tới Tương Tây là để làm gì?”

Mạnh Thiên Tư giật mình, nghĩ tới bài kệ chữ nhỏ màu đỏ óng dưới ngọn lửa của mắt lửa nhận hình.

Chẳng lẽ tất cả mọi chuyện đúng thật là vì túi mật núi?

Cô cố ý chuyển chủ đề sang hướng khác: “Tương Tây có trạm non quê mà, tôi thân là gia chủ, tới thăm thú một vòng, giao lưu cảm tình với thuộc hạ thì liên quan gì tới cô?”

Bạch Thủy Tiêu nhìn cô chằm chằm một hồi, từ kẽ răng tóe ra mấy chữ: “Cô nói dối.”

Xem ra cô ta quả thật có biết gì đó, Mạnh Thiên Tư cười rạng rỡ: “Tôi có cơ nghiệp ở đây, qua đây đếm của cũng là nói dối? Vậy cô nói xem, tôi tới đây làm gì?”

Bạch Thủy Tiêu cũng không cắn câu, đáp rất sâu xa: “Cô sẽ nói ra thôi.”

Dứt lời lùi ra sau, như đã thương lượng từ trước: mụ già ôm vò bước lên một bước rồi ngồi xổm xuống, trịnh trọng đặt cái vò lên mặt đất, hai tay xoa xoa bên thân rồi mới mở nắp.

Có lẽ là để tạo áp lực tâm lí cho cô, động tác rất chậm, trước cởi ghim vải, lại chậm rãi xoay nắp.

Mạnh Thiên Tư hừ mũi, vậy mà lại rất sốt ruột: “Bớt làm ra vẻ đi, đều là người biết nghề cả, ai mà chẳng biết ai chứ, bà mở chậm nữa, trong vò sẽ bay ra rồng được chắc? Nhanh lên đi, một hơi thở chia ra hai ngụm khí làm gì.”

Mụ già bị cô nói cho đỏ mặt, hơi tức giận, có điều động tác đúng là nhanh lên.

Nắp vò mở ra rồi, mới đầu chẳng có tiếng động gì, trùng hợp là bên ngoài cũng yên lặng trong chốc lát, có lẽ là vì mặt trời đã lên cao, gà đã nghỉ ngơi, trâu cũng xuống ruộng rồi, chỉ còn lại tiếng đồ bạc đập gõ, lúc lúc lại một tiếng, rất nhịp nhàng.

Ba người trong phòng không hẹn mà cùng nín thở.

Trong vò vang lên tiếng xột xoạt như một đám vuốt nhỏ xíu dày đặc đang cào lên vách vò, sau đó, một cái đầu côn trùng màu nâu bóng loáng thậm thà thậm thụt thỏ lên từ mép vò – bất kể là đầu người hay đầu trùng thì đều có tỷ lệ nhất định với cơ thể, con trùng này nhìn đầu là biết không lớn, “nhỏ mà độc”, rất hợp với hình tượng của cổ trùng: người trong nghề đều biết, cổ trùng là nhiều loại trùng độc bỏ chung vào một vò, để chúng tàn sát cắn nuốt lẫn nhau, con sống sót cuối cùng, chân chính làm vương, là cổ.

Mà trải qua một ngày một đêm chém giết, cơ thể, hình dạng của con cuối cùng thành cổ đó đã không còn giống như lúc đầu, bởi vậy nên đến Mạnh Thiên Tư cũng không nói rõ được con vật bò lên mép vò là con gì: chiều dài và số chân có hơi giống rết, hình thể lại như mềm mập như giun, hai con mắt căng và dẹt, to bằng hạt vừng, há miệng ra, hai hàng răng trên dưới giống như những mũi kim rậm rạp xếp thành hàng.

Mạnh Thiên Tư lạnh lùng nhìn con trùng bò bên ngoài thân vò, chỗ đi qua đều để lại vệt nước dãi nhạt màu lại óng ánh.

Mụ già kia nhìn Mạnh Thiên Tư, cười như không cười: “Nếu cô Mạnh đã biết nghề thì tôi cũng không dài dòng nữa. Thả cổ có hai loại minh ám, ám cổ là cô đến chỗ tôi ngồi, ăn cơm uống trà, bản thân mình còn chưa phát hiện ra đã dẫn cổ lên thân rồi. Minh cổ là không giấu giếm, quang minh chính đại – Bạch thư nhi nói cô Mạnh là người có thân phận, chúng tôi phải tôn trọng một chút, đứng đắn mà thả.”

Mạnh Thiên Tư nói: “Không dài dòng mà còn lắm lời vậy, thế lúc bà dài dòng chắc chết người luôn quá.”

Mỗi lần mụ già kia muốn khoe khoang thủ đoạn của mình đều bị cô móc mỉa, có hơi không kìm được lửa giận, đang định vặc lại thì Bạch Thủy Tiêu chen lời: “Bà Điền Miêu, phí lời với cô ta làm gì, đợi đến lúc xong việc rồi, cô ta còn chẳng phải là cọng rơm khô cho bà muốn bện thế nào thì bện thế ấy hay sao.”

Bà Điền Miêu thu lại cơn tức, từ trong ống tay áo kéo ra một cái lá xanh biếc, trông hơi giống lá trúc nhưng to bè hơn, hai mặt chính trái đều có chất men – bà ta cuốn cái lá lại đặt vào giữa hai cánh môi, môi răng cùng hoạt động, vừa bập vừa mài, phát ra những tiếng nhỏ vụn khiến người ta vô cùng không thoải mái, nghe còn rất giống tiếng con trùng cào vuốt lên vách ban nãy khi còn trong vò.

Kể cũng lạ, con trùng vốn đang làm ổ dưới mép đáy vò, lúc cuộn lúc xoắn như đang duỗi chân ưỡn lưng, âm thanh này vừa vang lên, bỗng dưng có phương hướng, quay đầu chuyển thân, bò về phía Mạnh Thiên Tư.

Đây là còi trùng.

Mạnh Thiên Tư coi Bạch Thủy Tiêu và bà Điền Miêu như người trong suốt, buông lời với cổ trùng: “Bảo mày tới là mày tới thật, mày không muốn sống nữa phải không?”

Tiếng còi trùng vẫn đang tiếp tục, sau thân trùng kéo vệt càng lúc càng dài. Khóe miệng Bạch Thủy Tiêu khẽ nhếch lên một nụ cười khinh miệt.

Mạnh Thiên Tư vẫn chưa hết hi vọng: “Mày có biết tao là ai không? Mày dám cắn tao thật đấy à?”

Bạch Thủy Tiêu chê cô ồn ào: “Cô Mạnh, cô tỉnh táo lại đi, con súc sinh này không hiểu tiếng người, không biết cô vừa có tiền vừa có thế đâu.”

Vừa dứt lời, chỉ thấy sắc mặt Mạnh Thiên Tư sầm xuống, nụ cười vụt tắt, ngước mắt lên lạnh lùng nói: “Chưa chắc, tôi cảm thấy có đôi lúc súc sinh còn biết điều hơn vài người đó.”

Nói đoạn, răng mài nghiến một cái lên môi, phì một tiếng phun ra một miếng nước bọt dính máu, chặn lại đúng trước mặt con trùng, có mấy giọt nước bọt còn văng lên người con trùng.

Con trùng chớp mắt cứng ngắc bất động.

Bà Điền Miêu thoáng sửng sốt, dừng huýt còi trùng, đang định chạy qua xem, con trùng đột nhiên co thân lại như giun, kế đó dựng đứng dậy – rất giống với cụm “kinh hãi quá độ, nhảy dựng lên” hay được miêu tả trong truyện – đáng tiếc đứng thẳng đi lại không phải nghề của nó, giây tiếp theo lại đổ ngược ngã xuống, bụng hướng lên trên, cỡ mười cái chân chổng võ quơ loạn.

Trận quơ này cũng không duy trì quá lâu, con trùng nhanh chóng lật người lại, cuống quýt xoay quanh như một con ruồi không đầu. “Phía trước” chỗ Mạnh Thiên Tư đã trở thành cấm địa, trái phải dường như cũng không an toàn, sau cùng quay đầu lại tại chỗ, chạy thẳng về phía cái vò, mỗi bước dưới chân đều như gắn Phong Hỏa Luân, vội vã khua khua di chuyển, như nung như nấu, liên tục không ngừng, trong chớp mắt đã bò vào vò.

Chuyện xảy ra quá nhanh, hoặc giả là con trùng rút lui quá lanh lẹ, bà Điền Miêu nhất thời không phản ứng lại được, hoàn hồn lại rồi cũng cuống lên, vội ngồi xổm xuống bên vò, đưa tay vỗ vỗ thân vò, lại nắm mép vò lắc qua lắc lại, thấp giọng gọi: “Tiểu Lượng! Tiểu Lượng!”

Quan hệ giữa cổ bà và cổ trùng vừa gần gũi vừa vi diệu, vì để củng cố thêm cho mối liên hệ giữa hai bên, không ít cổ bà còn đặt tên cho cổ trường, đại loại như “A Hoa”, “Thiết Đầu”.

Mạnh Thiên Tư giả bộ kinh ngạc: “Ơ, hóa ra nó có thể bò nhanh vậy cơ à, ban nãy lề mà lề mề cho ai xem thế? Quả nhiên chủ nào tớ nấy… Công không xòe đuôi các người lại tưởng tôi là gà rừng.”

Bà Điền Miêu vừa tức vừa cuống: “Cô đã làm gì!”

Mạnh Thiên Tư cười khẩy, không để ý tới bà ta.

Bà Điền Miêu sợ cổ trùng mình khổ cực mãi mới có được xảy ra sơ xuất, trong lúc nóng nảy, thò tay tóm lấy vai cô: “Tôi hỏi cô đấy, cô câm rồi hả…”

Tay vừa chạm tới áo cô, trong mắt Mạnh Thiên Tư như lóe lên ánh điện, ánh mắt sắc bén vô cùng, quát: “Nơi này là miền núi, quỷ non là vua, một con trùng cũng biết không được chọc vào tôi, bà là ai, ăn gan chó nào mà dám mó vào tôi!”

Bà Điền Miêu tuy cay nghiệt chanh chua nhưng cũng chỉ là tính thượng đội hạ đạp, Mạnh Thiên Tư bệ vệ lên một cái là lòng bà ta sợ ngay, tay sững lại giữa không trung, vậy mà lại không dám đụng vào vai cô thật.

Mạnh Thiên Tư không đếm xỉa đến, mắng một người là mắng, mắng hai người cũng là mắng, thừa dịp đang đúng tâm trạng, dứt khoát chửi thẳng cho sướng miệng.

Cô lại nhìn Bạch Thủy Tiêu: “Cả cô nữa, tôi đếch cần biết cô là ai, cũng mặc kệ cô cưới thần động hay quỷ động, tôi chỉ nhắc nhở cô, chuyến này tôi mà làm sao, cô sẽ phải chịu gấp bội; tôi bị thương cô tàn tật, tôi chết, cô cũng phải xuống chôn cùng với tôi, bao gồm cả trong nhà ngoài nhà, chó mèo gà lợn…”

Nói tới đây, làm như lơ đãng liếc qua bà Điền Miêu: “… Cả Tiểu Lượng Tiểu Hắc, Tiểu Hoa Tiểu Quả gì gì đó nữa, một tên cũng không trốn thoát.”

Sắc mặt bà Điền Miêu tái đi vài phần.

Vẻ mặt Bạch Thủy Tiêu thì vẫn tự nhiên, cũng không biết có phải nhìn lầm hay không, Mạnh Thiên Tư cứ cảm thấy trong mắt cô ta hiện thoáng qua một tia khác thường: “Tôi dám động dao với các cô thì đương nhiên cũng không có ý định sống thêm bao lâu, thần động hiểu lòng tôi, chấp nhận lễ bái của tôi, cũng sẽ dẫn độ cho vong hồn tôi.”

Mạnh Thiên Tư nhất thời im lặng, nói thật ra là, nghe không hiểu nên không phản bác được.

Bạch Thủy Tiêu thủng thỉnh nói tiếp: “Cổ trùng không làm gì được cô cũng chẳng sao, tôi vẫn còn kế khác, kế khác không hiệu quả, tôi còn có thể giết cô – tôi nghe nói, ngai vàng quỷ non đã để trống vài thập niên, cô chết, quỷ non chí ít sẽ loạn vài năm, đến lúc đó, ai còn nhớ được đến chuyện bên Tương Tây này chứ…”

Nói tới đây, chợt cao giọng: “Kim Châu Ngân Châu, đốt nhang cho cô Mạnh!”

Bên ngoài có hai người lần lượt lên tiếng đáp, giọng nghe lanh lảnh, còn mang vẻ non nớt, sự thực cũng là vậy, tiến vào là hai cô bé, giỏi lắm chỉ mới mười hai mười ba, ngoại hình đều vừa đen vừa gầy, mỗi người ôm bốn, năm cái que cao bằng một người, Mạnh Thiên Tư thấy rõ rồi, trong lòng trầm xuống.

Những que dài này thực ra đều là hai đoạn, bốn phần năm bên trên là que gỗ, một phần năm bên dưới là đinh kim nhọn hoắt to bằng ngón út, chiều dài như vậy có đâm xuyên qua cô cũng chẳng khó khăn gì. Mạnh Thiên Tư đã hiểu được đại khái “đốt nhang” ở đây nghĩa là gì, tám chín que như thế đâm xuống, miễn là vào chỗ yếu hại thì kiểu gì cũng chết, hơn nữa còn không toàn thây.

Da đầu cô hơi tê tê: Chỉ cần là ở vùng núi, cô sẽ luôn có chiêu mạnh bảo toàn tính mạng, nhưng dù sao thi triển chiêu này ra cũng cần nhất thời nửa khắc – còn người ta đâm cô thì chẳng tốn đến một phút.

Cứ thế bị đâm chết, chỉ sợ là cái chết uất ức nhất trong tất cả các ngai vàng quỷ non từ xưa đến nay, xuống rồi lấy đâu ra mặt mũi mà gặp bà cố tổ chứ…

Đương lúc ý nghĩ xoay chuyển cấp tốc, chỉ thấy Bạch Thủy Tiêu nhận lấy một que trong đó, cắm mạnh xuống mặt đất: sàn căn phòng này là đổ bằng bùn, dẫu có rắn chắc cũng không chịu được đinh kim đâm đục, chỉ thấy que dài cắm vững vào lòng đất, đứng thẳng tắp, cao gần đến cằm Bạch Thủy Tiêu.

Chiều cao của Kim Châu Ngân Châu không đủ, xách ghế qua, giẫm lên châm lửa.

Mạnh Thiên Tư hơi ngớ ra, nhìn mấy người họ cắm chín “nhang cao” vây quanh cô, châm lửa, khói nhang bốc lên dày đặc, lên được mấy tấc lại sà xuống, nhìn khá đẹp, tựa như chín thác khói cực nhỏ màu trắng sữa.

Hạnh phúc tới hơi đột ngột quá, Mạnh Thiên Tư nhịn không được hỏi Bạch Thủy Tiêu xác nhận: “Đây chính là đốt nhang?”

Bạch Thủy Tiêu ngoài cười trong không cười: “Cách này thực ra không ổn lắm, liều lượng cũng không dễ khống chế: dùng vừa đủ, cô sẽ ngoan ngoãn nghe lời; lỡ quá liều, cô sẽ thành ngu si; nhiều hơn nữa thì chẳng khác gì giết người – nhưng ai bảo cổ trùng không dám chạm vào cô chứ, chỉ có thể thử chiêu này thôi.”

Là vậy à, Mạnh Thiên Tư càng thêm vững dạ, cô nằm dài ra đất, làm như Bồ Tát trên bàn thờ không bằng: “Đốt lâu chút, con người tôi không gây mê được với lượng bình thường đâu.”

Cô nhìn ra chút đầu mối rồi: So với khiến cô chết, Bạch Thủy Tiêu này có khuynh hướng muốn khống chế cô, khiến cô ngoan ngoãn nghe lời hơn.

Tại sao vậy?

Bởi nếu cô chết, tuy không còn ai ngồi trên ngai vàng nữa song các cô bác thế nào cũng có thể đẩy một người ra chưởng quản, tất cả những chuyện bị trễ nải, cần tiếp túc đều sẽ tiếp tục như cũ.

Nhưng nếu cô ngoan ngoãn nghe lời, cô có thể kêu dừng chuyện mà Bạch Thủy Tiêu không thích: So với chịu giày vò qua lại, mệt mỏi ứng phó, con người có khuy hướng vất vả một lần cả đời nhàn nhã hơn.

***

Cách trại Lạp Khoa về phía tây có một sơn động cửa nhỏ bụng lớn nhưng cũng không phải là sâu, bên trong rộng cỡ một sảnh tiệc.

Bình thường, dân trại Lạp Khoa đều không muốn xớ rớ tới gần đó, thà đi đường vòng còn hơn, bởi vậy nên chỗ này cũng rất ít dấu vết con người, tương đối hoang vắng, nhưng hôm nay thì khác, ngoài động chỉ tính xe thôi cũng đã lớn nhỏ hơn bảy chiếc, cửa động không ngừng có người ra vào, trên đầu đeo đèn còn chưa đủ, trong tay lại thêm một cái đèn pin sáng loáng như mắt sói, có người còn cầm máy ảnh cảm ứng nhiệt, dụng cụ dò tìm kim loại – nơi tiếng người huyên náo, ánh đèn điện ngang ngang dọc dọc, chiếu vào động lớn tối tăm chẳng khác nào đèn tụ sân khấu.

Không ít dân trại phấn khích chạy tới hóng hớt, gái trai già trẻ đều đủ cả, “gái” ở đây là chỉ các bà lão – trong đó không có gái đôi mươi nàng dâu trẻ, đến cả bé gái cũng không có, cho thấy dân trại dè chừng chuyện “lạc động” đến mức nào.

Có một ông già hói nửa hông giắt tẩu thuốc, miệng bô bô thứ tiếng phổ thông sứt sẹo, khoa chân múa tay trước mặt đám người Mạnh Kình Tùng, nói đến tung tóe mưa xuân: “Tôi bích (biết) tôi bích (biết), cô nhóc họ Bạch, rất đẹp rất đẹp, được thần động nhìn trúng, chính là động nài (này), động nài (này)…”

Ông ta chỉ vào cửa động, kích động đến đỏ ửng mặt già, trong đỏ còn chồng chéo gân xanh: “Con bé đi về phía động nài, lúc đó trong động thổi ra một trận gió, vù vù…”

Ông già hói nửa rất có khát khao biểu diễn, còn phồng má thổi hơi bắt chước hiệu quả của gió: “Ập thẳng tới, thổi trúng cô nhóc họ Bạch. Con bé rùng mình một cái, bước đi cũng liêu xiêu, mắt cũng mờ mịt, tóc cũng xõa bung ra, giài (giày) cũng rớt mất một chiếc, lảo đà lảo đảo đi về chà (nhà).”

“Cô nhóc này không có thầy u, chỉ có bà ngoài (ngoại), bà ngoài khóc ngất, giết dê đầu đàn, mời lão vu tới cướp hồn, lão vu khai đàn ở đai (đây), bận rộn cả buổi mà thần động không đồng ý, vợ vào tay rồi, không chịu nhả ra… Thế là xong, thế là xong, một cô bé đang yên đang lành cứ thế mà chờ chết thôi.”

Ông ta chép miệng, vẻ mặt tiếc hận, đồng thời lại cảm thấy kiêu hãnh gấp bội vì mình cò thể đĩnh đạc nói trước mặt đám người ngoài này.
 
Quyển 3 - Chương 3


Mạnh Kình Tùng cảm thấy lời ông già này quá khoa trương, cũng không để vào đâu, phân phó Liễu Quan Quốc tiếp tục hỏi thăm dân trại, bản thân thì rùn người xuống, chui vào động.

Trong động toàn người là người, còn có trang thiết bị và dây kéo. Mạnh Kình Tùng nhất thời không nắm được trọng điểm, không biết nên đi về phía nào, đang lưỡng lự thì Khưu Đống bước vội lên đón, vội vàng báo cáo với y: “Trợ lý Mạnh, đã kiểm tra mọi góc, còn có anh em leo lên trên xem xét, đều không có gì khác thường.”

Mạnh Kình Tùng không yên lòng, vừa nghe vừa ừ à, mắt liếc ra xung quanh, chợt trông thấy Thần Côn.

Giữa cả đám người bận rộn, lão thật đúng là hạc giữa bầy gà, bắt mắt dễ thấy nhất, chỉ thấy lão ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn, hai bàn tay chống lên đầu gối, mắt nhắm lại, lúc thì gật gù đắc ý, lúc thì lẩm bà lẩm bẩm, Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ thì y như ông hầm ông hừ, đứng hai bên lão, thỉnh thoảng giúp người khác chuyển đồ, kéo dây.

Chẳng lẽ lão già này có chỗ nào hơn người? Mạnh Kình Tùng sinh lòng nghi hoặc, vẫy vẫy tay với Thẩm Bang.

Thẩm Bang chạy vội qua, động tác lanh lẹ như khỉ.

Mạnh Kình Tùng trỏ vào Thần Côn: “Ông ta đang lẩm bẩm gì thế?”

“À, chú ấy bảo là không chừng mọi người đều bị che mắt rồi, Bạch Thủy Tiêu lừa dối người trong trại, cô ta hẳn không lạc động ở đây.”

Mạnh Kình Tùng ngẩn người: “Dựa vào đâu mà nói như vậy? Có chứng cớ gì không?”

Vẻ mặt Thẩm Bang khó xử, cảm thấy nói không nên lời, đây cũng là lý do vì sao gã không báo cáo ngay lập tức: “Chú ấy nói… chú ấy dùng tâm cảm nhận, trong lòng không có chập chờn gì, bởi vậy nên cái động này không có gì đặc biệt hết.”

Lý do chó má gì vậy, Mạnh Kình Tùng phát cáu, nhưng kể ra cũng kỳ, sau khi xua Thẩm Bang đi, lý do này cứ quẩn đi quẩn lại trong đầu y, lại nghĩ tới lời Khưu Đống nói trước đó, càng thấy lời này có lý: Bạch Thủy Tiêu nói dối như cuội, mặt ngoài và bên trong chênh lệch nhau quá lớn, bất kỳ tin tức nào của cô ta đều cần chứng thực nhiều lần, không thể dễ dàng tin vào.

Y ra khỏi động, vẫy tay với ông già hói nửa, ông già kia cảm thấy hãnh diện hết sức, lúc đi tới bước chân như đạp gió, vẻ mặt kiêu ngạo.

Mạnh Kình Tùng hỏi ông ta: “Lúc Bạch Thủy Tiêu trúng gió lạc động ở đây, có ai khác nhìn thấy không?”

Ông già xua tay: “Hông (không), hông có, thần động lén lút làm, sao có thể để người khác nhìn thấy.”

“Vậy sao các ông biết là cái động này?”

“Tìm được một chiếc giài (giày) ở trước cửa động nài, về sau cô nhóc họ Bạch cũng nói là ở đai (đây).”

Không ai khác nhìn thấy, tự mình nói ra, giày có khi nào cũng là tự mình cởi ra để đây không?

Mạnh Kình Tùng trầm ngâm một lúc đó: “Trước đó cô ta còn bình thường, chính là từ sau ngày đó thì không giống như trước nữa.”

Ông già hói nửa gật đầu như giã tỏi: “Đống đống (đúng đúng).”

Dừng một chút lại bổ sung: “Bà ngoài con bé cũng nói lúc tiễn nó đi vẫn còn bình thường.”

Tiễn cô ta đi? Đi đâu? Mạnh Kình Tùng nghe không hiểu.

Ông già hăng say giải thích: “Chà (nhà) bà ngoài con bé ở dốc cũ, chuyến ấy nó phải đi thăm người thân bà ngoài, lúc đi vẫn bình thường, lúc bà ngoài tiễn nó đi nó cũng vẫn bình thường, cơ mà lúc trở lại trại thì đã hỏng.”

Mạnh Kình Tùng cảm thấy đã có chút đầu mối, y lại nhìn về phía cửa động: “Động này cách trại các ông gần như vậy, trước Bạch Thủy Tiêu có cô gái nào khác từng lạc động không?”

“Hông (không) có,” ông già lại hưng phấn, “Chúng tôi đều hưa (chưa) từng nghe nói tới lạc động, là lão vu bà ngoài con bé nói phải đánh nhau với thần động cướp hồn, chúng tôi mới biết. Mọi người vây xem đều rất ngạc nhiên, sau đó hông cướp được, bà ngoài nó khóc đến ngã cả xuống.”

“Vậy giờ thì sao, bà ngoài cô ta đâu?”

“Chết rồi, chết mùa đông năm ngoái, già rồi, không vượt qua được.”

Một người già mà còn khóc đến ngã xuống, đúng là thật lòng thật dạ, khả năng hợp mưu diễn kịch với Bạch Thủy Tiêu không lớn, xem ra Bạch Thủy Tiêu đã gặp chuyện không may trên đoạn đường từ dốc cũ về trại Lạp Khoa.

“Dốc cũ ở đâu?”

Câu này quá thử thách đối với khả năng địa lý của ông già, ông già há miệng, không biết phải nói từ đâu, cũng may bên cạnh có quỷ non cơ trí, nhanh chóng lấy bản đồ nơi này ra, có hai bản, một bản là kiểu thông hành, một bản là của quỷ non.

Ông già xem không hiểu thước tỉ lệ, chữ biết cũng có hạn, tất nhiên là thích bản của quỷ non hơn, núi là núi cây là cây, rất dễ nhận biết.

Ông ta nheo mắt, đầu ngón tay sần sùi với móng tay đen đen lướt trên mặt bản đồ, lúc lúc lại kinh ngạc: “Ôi, đai có phải là Mương Đất Hố Trời không? Á, sông nài lúc trời mưa nước lớn lắm, năm ngoái tôi đi họp chợ, suýt nữa bị nước cuốn mất…”

Mạnh Kình Tùng sốt ruột vô cùng, lại không thể thúc giục ông ta, đang nóng lòng thì đầu ngón tay ông già chọc mạnh hai cái vào một chỗ: “Đai, ở đai, hẳn là ở quanh đai.”

Mạnh Kình Tùng nhìn theo, trong lòng bốc lên cảm giác dị thường: “Ông chắc chứ?”

Ông già rất tự tin: “Tôi sống trong núi mấy chục năm nay rồi, chánh (chính) đai, chánh đai.”

Tim Mạnh Kình Tùng đập như nổi trống.

Y không biết có phải mình cả nghĩ quá rồi không: vị trí ông già chỉ vượt qua cả hai vách rìa lớn nhỏ của dân Miêu trong truyền thuyết, lại cách vị trí hiện thời của ngọn núi treo túi mật trong bản đồ núi rất…gần.

***

Mạnh Thiên Tư nói liều lượng bình thường không hạ gục nổi mình cũng không phải khoác lác.

Từ nhỏ cô đã tiếp thu sự huấn luyện nghiêm khắc của bảy vị cô bác, ăn vô số thảo dược quý hiếm, sức chịu đựng khi bị thương của cô tốt hơn người thường, lành khỏi cũng nhanh hơn, khả năng tiếp nhận một số khói mê khí độc cũng tốt hơn – miễn là không phải cả đống bột phấn tinh luyện bất chợt phun về phía cô như đêm qua.

“Nhang cao” này làm bằng loại cổ mộc vô cùng hiếm thấy của miền núi, nghe đồn, cổ Miêu đa số là dùng cổ trùng, duy chỉ có cổ tình là cần dùng đến cổ mộc, chủ yếu là vì loài thực vật này có tác dụng mê hoặc và làm loạn óc, thao túng được tâm trí con người.

Có điều, đúng như lời Bạch Thủy Tiêu nói, liều lượng rất khó khống chế, hơn nữa còn tùy vào từng người, sơ ý một chút là sẽ khiến người đó bị ngu dại, bởi vậy nên chỉ có thể gắng sức càng ít càng tốt, đốt chậm phóng chậm, chín que nhang cao nhìn thì đáng sợ song thực ra đều rất nhỏ, lại cháy rất chậm, đến mãi gần trưa, đợt một mới vật vã đốt xong, mà đối với Mạnh Thiên Tư mà nói thì chẳng khác nào mưa bụi chỉ làm ướt được bề mặt, không thể thấm qua da thịt vào đến tim phổi, mặc dù nhìn mắt cô cũng coi như mờ sương sũng nước, cả người có vẻ ngơ ngẩn, nhưng lúc Bạch Thủy Tiêu thử hỏi cô “Cô là ai”, cô vẫn có thể rất chuẩn xác mà đáp “Bà ngoại cô”.

Làm Bạch Thủy Tiêu tức điên, sai Kim Châu Ngân Châu bỏ thêm cho cô hai que nữa.

Trại này rất hẻo lánh, trong vòng mười dặm xung quanh không có hộ gia đình nào, trước khi trúng khói mê, Mạnh Thiên Tư vừa bị trói vừa bị nhốt, giờ lại còn đốt “nhang cao”, có thể nói là ba vòng đảm bảo, Bạch Thủy Tiêu cũng không sợ cô chạy trốn – dù sao căn cứ vào phản ứng của đợt một, nhang cao này không đến hoàng hôn sẽ không có hiệu quả gì lớn, Bạch Thủy Tiêu không đủ kiên nhẫn trông giữ bên cạnh cuối cùng khóa cửa rồi dẫn Kim Châu Ngân Châu đi làm việc của mình.

Mạnh Thiên Tư ngoài miệng càn rỡ nhưng trong lòng cũng đang đấu tranh dữ dội: cứ đốt tiếp như thế, gân cốt của cô sẽ chịu không nổi mất, cô đã bắt đầu xuất hiện ảo giác vụn vặt, cứ cảm thấy ở chân tường có một đàn kiến nhỏ đang bò lên mặt tường, lúc thì xếp thành hình chữ Nhất (一), lúc thì xếp thành hình chữ Nhân (人).

Nhưng cứ ra chiêu rời đi như vậy, cô lại cực kỳ không cam lòng: Đến cả kẻ chủ mưu phía sau là ai cũng không tìm ra, lại còn khiến gà bay chó sủa, thực sự chẳng vinh quang chút nào, hơn nữa, như thế chẳng phải uổng phí lần thâm nhập vào lòng địch này của cô sao? Thế có khác nào bị bắt cóc chơi không.

Cô suy đi nghĩ lại, tâm lý hi vọng vào may mắn chiếm thế thượng phong: Chịu đựng chút đi, chờ thêm lát nữa, biết đâu kẻ chủ mưu thiếu kiên nhẫn sẽ đến gặp cô thì sao? Lại biết đâu Mạnh Kình Tùng đang trên đường tới rồi, có y ra tay, cô việc gì phải tốn công?



Hơn bốn giờ chiều, mặt trời ngả về tây, nắng chiều xuyên qua cửa sổ, lồng lên người Mạnh Thiên Tư, cô mơ màng mở mắt, trông thấy cả người phủ lửa.

Nhang cao này thật sự rất lợi hại, cô ngơ ngẩn biết đây là ảo giác, nhưng lại không ngừng cảm thấy ngọn lửa trên người thật chướng mắt, nhịn không được đưa tay phủi đi, phủi phủi mấy cái lại chuyên tâm vào – phải biết rằng người trúng phải khói mê sợ nhất là chuyên tâm, trái tim như rễ mầm, vốn phải sinh trưởng ở chỗ thực, nếu chuyên tâm vào chỗ ảo thì chính là bị bật gốc khỏi hiện thực, nếu tâm niệm không vững vàng, lại bị người có dụng tâm dẫn dụ, sẽ rất dễ đi theo.

Phủi đến nóng nảy, chợt có người đẩy vai cô, một giọng nam quen tai gọi cô: “Cô Mạnh! Cô Mạnh?”

Mạnh Thiên Tư tò mò quay đầu.

Quái thật, nhìn thân hình, bả vai, khung xương, rõ ràng là đàn ông, nhưng cái đầu hắn đỡ trên cổ lại là một quả cầu thịt bóng lộn trắng xứ. Quanh người hắn và giữa không trung đều là những tấm da mặt mỏng dính đang vỗ cánh, những khuôn mặt này cô đều biết cả, có Mạnh Kình Tùng, Tân Từ, me lớn, u hai Đường Ngọc Như, thậm chí cả Bạch Thủy Tiêu…

Lúc gã trai kia nói chuyện với cô, thường xuyên có một tấm da mặt bay vèo tới, tấm da dán lên mặt quả cầu thịt, lại vèo một cái tróc ra bay đi, tấm da mặt thứ hai lại dán lên, thế nên nhân vật nói chuyện với cô cứ biến đổi liên tục, nửa câu trước là u bảy nói, nửa câu sau lại đổi thành Liễu Quan Quốc…

Hiện giờ, là Thẩm Vạn Cổ đang hỏi: “Cô Mạnh, cô không sao chứ?”

Chắc chắn là Bạch Thủy Tiêu, lại giở trò gì đây, cho là cô sẽ bị mánh khóe này dọa sợ à? Nực cười.

Mạnh Thiên Tư nhíu chặt mày, nghiêng đầu quan sát rìa quai hàm hắn, rốt cuộc cũng nhìn ra đầu mối: Tấm da mặt này là từ từ vén từ cằm lên, sau đó tróc ra bay đi.

Người mở miệng lại đổi thành Thần Côn, dựng ngón tay lên nói với cô: “Nào, cô Mạnh, thần chí cô bây giờ đang hơi mơ hồ, mắt cô nhìn vào ngón tay này của tôi đi, tôi di chuyển đến đâu cô nhìn theo đến đó…”

Tróc ra rồi tróc ra rồi, tấm da mặt này lại tróc ra rồi, Mạnh Thiên Tư nhanh tay nhanh mắt, đưa tay chộp mạnh lên má hắn, quả nhiên, tấm da này không bay đi nữa, hốt hoảng vùng vẫy giãy giụa, Mạnh Thiên Tư cười khẩy: “Để xem mi còn chạy đi đâu.”

Giang Luyện cụp mắt, nhìn phần thịt quai hàm bị chộp cho biến dạng của mình, trong lòng lặng lẽ rủa một câu: Tiên sư.

***

Giang Luyện đuổi theo đoạn đường này thật đúng là mệt như chó.

Ban đầu, hắn tưởng rằng Bạch Thủy Tiêu là muốn bỏ rơi ba người họ, một mình lái xe đào tẩu, sau đó lại phát hiện ra, con ả này rất thông minh, cô ta ngại mục tiêu xe quá lớn, sau khi kéo Mạnh Thiên Tư xuống xe thì tạo thành một hiện trường giả xe ngã vào ao nước rồi cõng Mạnh Thiên Tư vào rừng.

Giả sử tiếp đó là vượt rừng băng núi thì cũng không khó tìm tung tích, song, Bạch Thủy Tiêu lại xảo quyệt ở chỗ, cô ta không chỉ thay đổi đường nhỏ mà còn sử dụng giúp sức: tỷ như dùng thừng trượt khi vượt núi, qua rồi lập tức thu thừng, cô ta qua rất nhanh nhưng Giang Luyện lại chỉ có thể leo núi.

Lại tỷ như lúc qua sông có đò lạp lạp (*), còn lợi dụng một vài lối đi hang động, trong núi thẳm không tránh khỏi tín hiệu không thông, cô ta sẽ giấu pháo hiệu đi trước, pháo hiệu vừa bắn lên trời là có máy kéo tới đón ngay, ngay sau đó lại đổi xe, nói chung là chuyển qua chuyển lại – cũng chẳng thể trách quỷ non không tra ra được manh mối, đến Giang Luyện theo sát cả một đường như vậy còn mất dấu mấy lần, lộn ra lộn vào mãi, đến lúc gà gáy ba lần, rốt cuộc mới lần mò ra trại này.

(*) Đò lạp lạp là loại đò đặc trưng của miền sông nước dọc sông Tương, mũi đò dựng một cây gậy trúc, trên gậy treo một cái khuyên sắt, hai bên bờ sông vắt ngang một đoạn chão sắt, lúc có người sang đò thì treo khuyên sắt lên chão sắt, người trên thuyền dùng một thanh gỗ đặc chế dựa thế sợi chão chậm rãi dắt đò sang bờ bên kia.

Vào trại rồi, càng thêm nhức đầu.

Trại Bát Kháng của lão Ca đã cho hắn cảm giác rất hoang vắng rồi, trại này lại càng hẻo lánh hơn, dùng “ngăn cách với đời” để hình dung cũng chẳng ngoa, càng khiến hắn kinh ngạc hơn là, trại này vẫn chưa bước vào thời kỳ cắm điện, không có cột điện cũng không có dây điện.

Người ở đây cũng lạ, bình thường thì người miền núi đều ôn hòa chất phác, nhưng trong trại này, trong nhà ngoài nhà hắn đều chỉ thấy mặt mày ai nấy đều có phần dữ tợn: Hắn men theo tường bao của một hộ thợ bạc đang phát ra những tiếng gõ đập nhịp nhàng, trông thấy, người tời đoạn bạc ở trần nửa thân trên, sau lưng có vết sẹo dài chừng mười tấc; hắn trông thấy có một bà già tựa cửa bện hoa, bện chán rồi, thành thục châm điếu thuốc, xem logo bao thuốc, lại còn là thuốc lá Tây; còn trông thấy một người phụ nữ trung niên tóc tai bù xù, chân trần, mặc áo hai dây đỏ, mỗi bước đi vạt váy đều tung lên, chân bên trong một to một nhỏ, cái chân nhỏ kia trông như cuống đay, còn đặc biệt vặn vẹo.

Nói chung là chẳng giống một cái trại bình thường chút nào, quần áo trang phục cũng đủ loại, người nào người nấy ánh mắt đều lạnh nhạt, khí chất âm u, điều này khiến Giang Luyện sinh lòng cảnh giác. Hắn không dám để lộ tung tích, che che giấu giấu như làm trộm, vượt qua một nhà, lại một nhà, trong lòng dần mất hi vọng: Thời gian dài vậy cũng đủ để Mạnh Thiên Tư bị giết chôn tám mươi lần rồi.

Nhưng rồi lại ôm hi vọng: Muốn giết thì đã sớm giết rồi, mất nhiều công sức bắt cóc như vậy không đến nỗi chỉ vì muốn mạng cô thôi đâu chứ.

Thời gian không phụ lòng người, rốt cuộc cũng nhìn thấy Bạch Thủy Tiêu trong một căn nhà. Hắn cũng không hành động thiếu suy nghĩ, đợi rồi lại đợi, đến khi cô ta theo một mụ già ra ngoài, hai cô bé ở lại giữ nhà lại ham chơi, loay hoay chỗ cổng lớn tìm chim sẻ gì đó – hắn tìm cơ hội vượt tường vào trong vào gian phòng gần nhất tìm thử, vậy mà lại tìm thấy thật.

Chỉ là cảnh tượng rất kỳ dị, đốt chừng mười cột nhang cao thấp không đều, trong không khí lững lờ mùi hương ngọt nhạt. Giang Luyện cảm thấy chắc chắn không phải thứ gì tốt lành, vội tắt từng cái đi, lại cởi áo khoác vẫy vẫy trong phòng một hồi cho mùi hương này nhanh chóng tản đi, lúc này mới cúi người quỳ gối, cởi thừng trói cho Mạnh Thiên Tư.



Giang Luyện thò tay nắm lấy cổ tay Mạnh Thiên Tư, cương quyết kéo tay cô ra khỏi mặt mình. Vẻ mặt Mạnh Thiên Tư tiếc hận nhìn không trung, lẩm bẩm: “Trượt tay mất rồi.”

Đáng chết, xem ra cô là tạm thời mơ hồ, Giang Luyện đau đầu.

Trại này hơi kỳ quặc, Giang Luyện trực giác không thể làm huyên náo gà bay chó sủa, có thể lặng lẽ ra vào không một tiếng động là tốt nhất, nhưng mang Mạnh Thiên Tư đi thế nào là một vấn đề: Một mình hắn tránh thoát nhiều tai mắt như vậy đã rất trầy trật rồi, sao mang theo nổi một người điên điên khùng khùng như vậy được…

Giang Luyện cau mày nhìn Mạnh Thiên Tư: Cô cắn môi, mắt nhìn chằm chằm một chỗ trong không trung, bỗng ra tay như chớp, bắt mạnh một cái vào không khí – ờ, thân thủ còn linh hoạt lắm đấy – sau đó nhìn chằm chằm nắm tay trống không, cười đến là đắc ý, gần như gian trá.

Đương nhiên Giang Luyện không biết “da mặt” mình đang liều mạng vùng vẫy, nước mắt giàn giụa trong bàn tay cô, trong đầu hắn nhanh chóng xoay chuyển ý niệm nghĩ cách đối phó, thừa dịp cô xoay người đi bắt một chỗ không khí khác, quyết định thật nhanh, bổ thẳng một chưởng xuống gáy cô.

Mạnh Thiên Tư đến rên cũng không rên được một tiếng, cứ thế mềm oặt ngã xuống.

Giang Luyện thở phào một hơi, mang một người không động đậy được dù sao cũng thuận tiện hơn là mang một người quấy đông nhiễu tây. Hắn nhặt đống thừng tán loạn trên mặt đất lên nhét bừa vào lòng, lại lấy diêm trên bàn châm lại nhang lên, lúc này mới bế cô đi ra.

Đóng kín cửa, bấm lại ổ khóa nãy vừa cạy, cố cho tất cả đều nhìn như thường, vậy nhưng vừa rẽ qua góc nhà, chợt nghe ngoài cổng có tiếng cọt kẹt, hai cô bé choai choai vừa cúi đầu bện rạ mạch vừa tiến vào.
 
Quyển 3 - Chương 4


Giang Luyện nhanh chóng lùi về, song hai cô bé liên miên trò chuyện, bước chân đúng là hướng về phía này, mắt thấy hai người sắp rẽ đến cửa đối mặt với hắn, Giang Luyện vội ôm Mạnh Thiên Tư, tránh sang một mặt khác của căn nhà, bên ngoài mặt này cũng chính là tường bao, có thể leo tường rời đi.

Tiếng trò chuyện của hai cô bé gần như ở ngay bên tai.

“Có phải vào xem cô ta không?”

“Không cần đâu, chị Bạch nói cô ta cứng lắm, người thường đốt ba nhang cao đến quá trưa là gục rồi, cô ta đã mười mấy que mà vẫn bình thường, không đến trời tối thì không có hiệu quả. Hơn nữa quỷ non biết ‘phản nhập điên’, em đừng để bị cô ta lừa gạt.”

Giang Luyện thầm thở phào nhẹ nhõm, lòng nói Nghe lời chị Bạch nhóc đi.

Vậy nhưng hai cô bé vẫn chưa đi.

“Chị có thấy cái vòng đeo trên cổ cô ta không? Đẹp ghê đó.”

Vòng cổ?

Giang Luyện thắc mắc cúi đầu, nhìn về phía Mạnh Thiên Tư đang cuộn tròn trong lòng mình, trên cổ cô thật đúng là đeo một chiếc vòng cổ, cũng đúng là rất đẹp, mặt vòng là vàng mài thô thành hình mây trôi tinh xảo, đầu đám mây móc xiên một miếng ngọc bích rung rinh, trong trẻo bóng loáng, nhìn là biết giá trị không nhỏ.

“Cả vòng tay nữa, vòng tay cũng đẹp, nhìn như kim tuyến lấp lánh tỏa sáng trên cổ tay cô ta ấy.”

Ánh mắt Giang Luyện lại rơi xuống cổ tay Mạnh Thiên Tư, không phải nhìn như kim tuyến mà vốn là vài sợi kim tuyến kéo thành tơ, hẳn là cùng bộ với vòng cổ, trên dây đan xen xâu chuỗi những hạt ngọc xanh biếc cực nhỏ, có ánh nắng rọi vào sẽ óng ánh phát sáng.

Hắn nhớ là cô nửa đêm thức dậy rồi xuống tầng, tiện đà bị “bắt cóc”, đi ngủ đeo nhiều trang sức vậy làm gì?

“Không lấy được đâu? Lỡ tỉnh lại rồi cô ta đòi thì sao, sẽ bị chị Bạch biết mất.”

“Đeo thử thì sao? Em chưa từng đeo cái gì đẹp như thế…”

Lời còn chưa dứt, tiếng khóa vang lên lạch cách, hành động cũng thật nhanh, Giang Luyện thầm kêu hỏng bét, còn chưa kịp phản ứng gì, cửa đã bị đẩy ra, mà gần như đồng thời, tiếng con gái chói tai chẳng khác gì còi báo động vang lên: “Chị Bạch!”

***

Giang Luyện đoán không sai, người trong trại này hầu như là cùng một phe, bên này vừa có tiếng hét, ngoài sân đã nhanh chóng rộ lên tiếng bước chân xen lẫn với tiếng huyên náo…

“Sao thế? Xảy ra chuyện gì?”

“Là nhà chồng Điền Miêu à?”

“Kim Châu, cháu kêu gì thế?”

May mắn là hai cô bé trong cơn hoảng hốt luống cuống đều đã chạy ra cổng khiến khu nhà này tạm thời vắng tanh. Giang Luyện bế Mạnh Thiên Tư lên, nhanh chóng chui vào một gian phòng ngủ bên mé, đa số phòng ốc nơi này đều xây bằng đá gỗ, hứng sáng rất kém, phòng ngủ này như là của một bà lão. Tất cả bài trí đều cũ kỹ xám xịt, Giang Luyện đẩy Mạnh Thiên Tư vào dưới gầm giường trước rồi cũng chui vào theo nằm thẳng, nằm yên một lúc, đưa tay chỉnh sửa khăn trải giường rủ xuống, lại bày ngay ngắn dép lê đặt dưới mép giường.

Bên ngoài nhao nhao tiếng người, dưới gầm giường lại ẩm ướt yên lặng, Giang Luyện gắng dỏng tai lên nghe xem những người đó nói gì, song tiếng ồn quá hỗn loạn, lại cách tường đá, nghe không rõ ràng, chỉ loáng thoáng phân biệt được có cả giọng Bạch Thủy Tiêu trong đó.

Một lát sau, đám người tản đi, nhưng có tiếng bước chân lộn xộn đi thẳng tới phòng ngủ. Tim Giang Luyện run lên, chỉ sợ đã bị phát hiện hoặc sắp bị phát hiện, lại dịch thêm vào trong.

Xuyên qua viền mép khăn trải giường, hắn trông thấy vài cặp chân phụ nữ nhấc lên hạ xuống, đầu tiên là ngồi vào mép giường, giữa gót giày và viền ống quần lộ ra đoạn mắt cá chân trắng trẻo.

Đây hẳn là Bạch Thủy Tiêu, ba người nghênh diện cô ta, hai người đi giày hoa thiếu nữ phỏng chừng là hai cô bé, một người đi giày rộng vải xanh chắc chắn là bà Điền Miêu.

Giang Luyện nín thở.

Chợt nghe Bạch Thủy Tiêu hỏi: “Chắc chắn lúc ấy cửa đang khóa?”

Có cô bé đáp: “Đang khóa ạ, nhang vẫn đốt nhưng người không thấy đâu.”

“Không thấy từ lúc nào?”

Cô bé kia hơi sợ hãi, im lặng một lúc mới đáp: “Em không biết… Buổi trưa qua đó đổi nhang một lần, bây giờ mặt trời đã sắp xuống núi, không biết là chạy từ lúc nào.”

Bạch Thủy Tiêu vừa tức vừa cuống: “Có phải là có người tới cứu không?”

Lời này hẳn là hỏi bà Điền Miêu, mụ già đáp rất lưỡng lự: “Chắc không phải đâu, không phải cháu nói trên đường đã xử lý rất sạch sẽ, cắt đuôi họ rất dứt khoát à, không thể theo tới được đâu chứ? Hơn nữa, tôi vừa hỏi thử xung quanh rồi, không ai thấy có người lạ, cháu cũng biết nơi này của chúng ta rồi đó, phàm là có người nhìn lạ mặt nhất định sẽ cản lại không cho đi, cả trại đều biết.”

Giang Luyện thầm bội phục mình nhìn xa trông rộng: ẩn nấp là đúng, trại này quả nhiên không bình thường.

Bạch Thủy Tiêu không nhịn được nổi cáu: “Vậy tại sao lại không thấy đâu? Cứ như vậy đột nhiên biến mất?”

Trong giọng bà Điền Miêu có phần rụt rè sợ hãi: “Cô Mạnh này thật không đơn giản, Tiểu Lượng cũng không dám lại gần cô ta, trước nay tôi chỉ biết là có quỷ non chứ họ có bản lĩnh gì, sống bằng cái gì thì đều chưa từng nghe nói đến. Quỷ non này chắc coi như thần núi, cô ta còn trẻ mà đã là thủ lĩnh của họ rồi, có khi nào cô ta…có thể chui xuống đất không?”

Giang Luyện buồn cười, hắn liếc Mạnh Thiên Tư bên cạnh: có thể chui xuống đất được hay không thì không biết nhưng nằm trên mặt đất thì đúng là có đấy.

Bạch Thủy Tiêu cáu nhặng lên: “Bà nói vớ vẩn gì đấy!”

Quát lên vậy nhưng giọng điệu không ổn định, hiển nhiên trong lòng cũng không chắc, bà Điền Miêu bỗng hốt hoảng: “Nhóc Bạch, cô ta chạy đi rồi có khi nào sẽ dẫn người tới trả thù không? Bên cô ta đông người lắm thủ đoạn, chúng ta có nên…tạm tránh đi trước?”

Bạch Thủy Tiêu không tiếp lời, lát sau mới lẩm bẩm: “Không đúng, nếu cô ta thật sự có thể chui xuống đất thì đã sớm chui rồi, hay là có người cứu cô ta, có lẽ người đó thân thủ tốt, vào trại không bị ai phát hiện.”

Yết hầu Giang Luyện khẽ lăn một cái: kiểu bố trí vội vàng này không lừa được bao lâu, sợ nhất là đối phương bình tĩnh lại suy nghĩ.

“Trước trưa người vẫn còn, tuy cháu không trông giữ gian phòng nhưng cháu vẫn luôn ở trong sân, có ai đi vào cháu chắc chắn sẽ biết. Cháu với bà rời đi một lúc, nếu cứu người thì chỉ có thể là vào khoảng thời gian này, nhưng cháu đã để Kim Châu Ngân Châu lại…”

Nói tới đây, giọng đột nhiên vút lên: “Có phải hai đứa lén ra ngoài chơi không?”

Cũng không biết là Kim Châu hay Ngân Châu trả lời: “Không ạ, bọn em chỉ ra ngoài một xíu, nhổ rạ mạch bện chim sẻ chơi, nhưng chúng em vẫn nhìn cổng mà, không có ai đi ra…”

Mép giường nhẹ đi, là Bạch Thủy Tiêu đột nhiên đứng dậy, sau đó là một tiếng chát vang dội: “Phế vật, nhìn cổng thì có ích gì, người ta không biết leo tường đi à?”

Cô bé nhỏ giọng hít mũi, không dám khóc thành tiếng.

Bà Điền Miêu cuống quít giậm chân: “Nhanh lên nhanh lên, còn quan tâm mấy cái này làm gì, Kim Châu Ngân Châu cũng phải đi, quỷ non sao có thể chọc vào được chứ, cháu còn giết người của họ…”

Bạch Thủy Tiêu nghe không vào, vẫn đang tự lẩm bẩm: “Không đúng, bên ngoài người qua người lại, Mạnh Thiên Tư dù không ngất thì khẳng định cũng đã nhũn chân run rẩy rồi, thời gian ngắn như vậy, họ tuyệt đối đi chưa xa!”

Giọng cô ta kích động: “Nói không chừng đang núp trong nhà ai quanh đây, bà Điền Miêu, bà ra ngoài một chuyến, nhờ người ta kiểm tra trong sân trong phòng, bếp biếc, nhà kho, tủ bát, gầm giường…”

Nghe đến hai chữ “gầm giường”, Giang Luyện choáng váng, con ả Bạch Thủy Tiêu này đầu óc xoay chuyển nhanh thật, hiện giờ cô ta đang “đứng sau đèn thì tối”, mới hoài nghi xung quanh chứ còn chưa nghi tới gầm giường nhà mình, nhưng cũng đã manh nha có ý nghĩ đó rồi.

Chợt nghe cũng không biết là bé Châu nào ra vẻ thông minh, giòn giã nói một câu: “Gầm giường ạ? Cái giường này nhà chúng ta gầm cũng rộng lắm đó, có thể giấu người.”

Vừa nói vừa chống tay xuống sàn.

Cách lớp ga giường, Giang Luyện nhìn thân hình gầy nhỏ kia gập eo, ngay giây tiếp theo sẽ thò đầu xuống dưới, căng thẳng tột độ, song cũng nhẹ nhõm: dù sao cũng sắp bị phát hiện, thua người không thua trận, có nên nghiêng người, chống má, mỉm cười chào cô bé đó không? Ít nhất tư thế cũng đẹp mắt…

Đúng lúc đó, bên ngoài vọng vào tiếng rung chuông đinh đinh đang đang, âm thanh đó ban đầu yếu ớt nhưng rất nhanh sau đó mạnh mẽ hơn: lục tục có những tiếng rung chuông khác hùa theo vào, còn xen lẫn một tiếng chiêng đánh “cheng”, rung động tỏa ra bốn phía, hồi lâu không dứt.

Thân hình gầy nhỏ sững lại, đứng vụt dậy, mà bà Điền Miêu cũng như bị giẫm đuôi, suýt nữa nhảy dựng kên: “Nguy rồi! Quỷ non đuổi tới cửa, còn rề rà nữa chỉ sợ không đi được!”

***

Giang Luyện trực giác không thể là “quỷ non đuổi tới cửa”, đám Mạnh Kình Tùng có giỏi nữa cũng không thể chuẩn xác tới mức này, nhưng hắn cũng mừng vì có chuyện chen ngang này, ít nhất cũng xóa tan nguy cơ mấy giây trước, cho hắn thời gian cứu vãn – tiêu điểm của cả đám quả nhiên dời khỏi “gầm giường”, Bạch Thủy Tiêu hơi nghi ngờ: “Sao có thể đến nhanh vậy chứ, đừng hoảng hốt lung tung, ra xem tình hình trước rồi lại nói.”

Cả đám vừa nói vừa ra ngoài, rất nhanh sau đó đã không còn động tĩnh. Tận dụng thời cơ, Giang Luyện nhanh chóng chui ra ngoài, trong sân trống không, cổng lớn mở nửa, hắn náu mình sau cổng xem xét con đường nhỏ bên ngoài trước, lại thò nửa cái đầu qua tường, mắt đảo quanh, thầm lấy làm mừng rỡ.

Trại này phân bố rải rác trên một dốc núi, nhưng khác hẳn với bất kì một trại nào khác, chung quanh có một tường bao bằng đá cao bằng một người, có thể nhìn ra được là đắp thêm dần từ năm này qua năm khác, càng xuống dưới đáy đá tảng càng cũ, cũng không biết là để phòng gì, nếu nói là phòng dã thú thì những trại khác trong núi cũng chịu nạn này mà, có thấy người ta đắp tường cao vậy đâu.

Cổng trại tất nhiên là mở ở chỗ thấp nhất, căn nhà này của bà Điền Miêu địa thế hơi cao, bởi vậy nên phạm vi tầm mắt nhìn ra ngoài từ đầu tường rất rộng rãi, hắn trông thấy người người túm năm tụ ba đi về phía cổng trại, mà ở cổng trại thì chen chúc một đống – không dám nói là người cả trại đều đã đi ra đó nhưng ít nhất cũng chứng tỏ hiện giờ trại này đang tụ tập phía trước, đằng sau trống vắng, hơn nữa mặt trời đã về tây, cách lúc trời tối chẳng còn bao lâu…

Cơ hội trời ban, muốn chạy trốn thì chính là lúc này! Nếu người tới thực sự là quỷ non, hai bên hội hợp tất nhiên là tốt nhất, nhưng ngộ nhỡ không phải thì sao? Cứ bảo đảm chạy thoát trước rồi nói sau.

Giang Luyện không chút lưỡng lự, chạy lại về phòng, kéo Mạnh Thiên Tư dưới gầm giường ra trước, cô vẫn bất tỉnh nhân sự như cũ, Giang Luyện cõng cô lên lưng, lại dùng thừng quấn một vòng cho cô khỏi chảy xuống, trong lòng tiếc nuối không ai livestream cho hắn: nếu có thể quay lại thành video, đợi đến lúc cô tỉnh lại, thấy hắn tận tâm tận lực nghĩ cách cứu viện như thế mà cảm động, quên hết ân oán khi trước, thắp sáng tình hữu nghị giữa hai người, đến lúc đó mở miệng mượn cô thận châu là nước chảy thành sông.

Hắn nhảy ra khỏi tường bao, dựa theo phương hướng ghi nhớ lúc trước mò mẫm trong trại, lúc nấp lúc đi hướng ra sau núi, may mà dọc đường coi như cũng thuận lợi, lúc rút được một nửa nhìn lại, quả nhiên không giống như quỷ non đánh tới cửa, người tụ tập ở cổng trại đã lục tục trở về, đa số dáng đi đều thong dong.

Thời gian không còn nhiều, Giang Luyện sốt ruột trong lòng, cũng không quan tâm đến cẩn thận núp tránh nữa, co giò bỏ chạy, lúc chạy qua cửa một nhà, chợt nghe trong cửa có người quát lên: “Anh là ai!”

Giang Luyện bị bất ngờ, vô thức dừng bước lại quay đầu.

Chỉ thấy một người đàn ông gầy gò bò nhanh ra cửa, y không có chân, chắc là đã cắt chân, chỉ dựa vào hai tay chống đỡ di chuyển cơ thể, nửa thân trên để trần, xương sườn hằn rõ lên từng vệt lên làn da ngăm đen, nhìn đến là đáng sợ, lúc trước y quát hỏi, trong lòng còn chưa chắc chắn, đợi đến lúc nhìn thấy rõ mặt Giang Luyện, biết là người lạ, sắc mặt chuyển dữ dằn đáng sợ chỉ trong một sát na, đưa tay ra sau hông rút một cái búa nhỏ ra, nện về phía hai người.

Tính tình gì vậy, chưa nói gì đã đánh? Cũng may ném cũng không quá chuẩn xác, Giang Luyện nghiêng người né, không ngờ người đàn ông kia vô cùng hung hãn, vậy mà lại xông thẳng về phía Giang Luyện, vóc người y ngắn hơn người thường một nửa, cánh tay cứng cáp dũng mãnh, đung đưa trái phải, nhanh chẳng thua gì bánh xe – cảnh tượng này quá mức kỳ dị, Giang Luyện bất giác ngẩn người, chỉ trong khoảnh khắc đó, người đàn ông đã gầm rú nhào tới, xem chừng muốn ôm chân hắn.

Giang Luyện thoáng do dự, hơi băn khoăn chuyện động thủ với người tàn tật, nhưng gặp chuyện gấp không có câu nệ, cũng không rảnh mà lo nghĩ nhiều vậy, hắn phóng một cước, đạp cho người nọ ngã lăn, đang định nhìn xem y có bị thương không thì trong cánh cửa một nhà cách đó, có một người phụ nữ ló đầu ra, cũng chính là người phụ nữ trung niên mặc áo hai dây đỏ chân có tật từng thấy trước đó.

Giống hệt người đàn ông kia, ánh mắt ả cũng dữ dằn chỉ trong chớp mắt, vậy mà lại xách xẻng ra, khập khiễng chạy về phía này.

Điên hết rồi à? Trong lòng Giang Luyện khiếp sợ, lại nghĩ đằng nào cũng bại lộ rồi, guồng chân chạy luôn đi.

Bèn xoay người chạy như điên ra sau trại.

Người đàn ông kia xoay người dậy, hai tay nắm chặt thành quyền, điên cuồng đập hai phát xuống mặt đất, sau đó nhanh chóng leo tới cạnh cửa, nắm lấy một sợi thừng rủ xuống, ra sức rung lên.

Thì ra, cạnh cửa treo một chiếc chuông đổng rỉ sét, trên lưỡi chuông buộc thừng rủ, y kéo rung liên tục như vậy, tiếng đinh đang nhất thời vang lên, rất nhanh sau đó, hai ba chỗ xung quanh đáp lại, đều là những người ở lại giữ nhà, không ra cổng trại hóng, nghe thấy báo hiệu giúp đỡ, xa hơn chút nữa, lại thêm một hai nơi khác gia nhập, âm thanh này nhanh chóng truyền tới đám dân trai túm năm tụm ba dáng đi thong dong.

Từ trên cao nhìn xuống, nhà trại như tranh vẽ, người trên tranh vẽ chợt nghe thấy tiếng động, khựng lại một chớp nhoáng, hệt như dừng hình trong phim điện ảnh.

Sau đó nữa, chỉ trong sát na, người người khắp nơi chuyển động, như sóng trào thủy triều, như điên như dại, đều chạy ầm về đầu nguồn âm thanh.
 
Quyển 3 - Chương 5


Giang Luyện chỉ cảm thấy sóng âm nện ngay sau lưng mình, nào dám chậm trễ giây nào, càng guồng chân chạy nhanh hơn.

Tốc độ có thể tính là sở trường mạnh nhất của hắn, bằng không đêm qua cũng đã chẳng thể đuổi kịp, hơn nữa, vốn cũng đã sắp ra tới sau núi, chiếm được tiên cơ – hắn ngựa không dừng vó, cũng chẳng buồn cẩn thận phân biệt phương hướng nữa, có đường thì đi, có khe thì nhảy, lên núi xuống dốc, băng đường vượt sông, đến lúc đứt hơi dừng lại, trời đã xâm xẩm tối, mà trong rừng thì lại càng có vẻ u tối – thôn trại và đám người kì quái kia, và cả làn sóng âm đè ép thần kinh, đã sớm bị vứt lại sau lưng.

Bấy giờ, Giang Luyện mới nhận ra Mạnh Thiên Tư nặng muốn chết: đừng chỉ nhìn thể trọng của một người, vác một người ngủ mê mệt hoặc say rượu nặng hơn người đang tỉnh táo nhiều, người chết lại càng nặng, bằng không đã chẳng có cách nói “sức nặng của cái chết” này.

Giang Luyện cởi thừng, thả Mạnh Thiên Tư xuống, bản thân cùng ngồi bệt xuống đất, bôn ba một ngày một đêm, một hạt cơm cũng chưa vào bụng, lúc căng thẳng thì không cảm nhận được nhưng một khi thả lỏng là thực sự không đứng dậy nổi nữa, chân cẳng đều run lên. Hắn thở hổn hển, lại hít mũi một cái, tỉnh táo lại rồi, nhìn sang Mạnh Thiên Tư bên cạnh, lầu bầu: “Cô nhàn ghê cơ.”

Cách đó không xa vọng lại tiếng nước rào rào, là một khe suối nhỏ trong núi. Giang Luyện lê bước đi qua ngồi xổm xuống, nương ánh mặt trời mỏng manh kiểm tra: nước suối trong suốt, chảy không ngừng, là nước thông; trên vách tảng đá ngâm nửa trong nước bám rêu xanh, thực vật bình thường có thể mọc được, về cơ bản là không có độc.

Hắn vốc nước táp lên mặt, lại uống vài ngụm, lau miệng, nhìn bóng đêm mà phát sầu.

Hắn tin chắc là mình lạc đường.

Trên thực tế, lần theo dấu vết cả một đêm, hắn đã sớm bị “chuyển qua chuyển lại” của Bạch Thủy Tiêu làm cho đầu óc rối tung rồi, hơn nữa ban nãy vừa chạy trốn một trận, triệt để mất phương hướng, tối khuya thế này, lạc trong thâm sơn cùng cốc tuyệt đối không phải chuyện gì có thể khiến người ta cảm thấy vui vẻ. Chỗ này so với tất cả những nơi hắn từng đến từ khi vào Tương Tây tới này sâu xa và hẻo lánh hơn hẳn, chỉ trong mấy giây uống ngụm nước này thôi đã loáng thoáng nghe thấy không chỉ một lần tiếng động vật gầm rú, vừa như sói như hổ, lại cũng không phải sói hổ, bởi không biết nên lại càng khiến lòng người e sợ hơn.

Giang Luyện quay trở lại bên người Mạnh Thiên Tư, đưa tay đẩy vai cô, không tỉnh, dù cho nhang đốt của Bạch Thủy Tiêu có lợi hại thì đoạn đường này xóc nảy như vậy cũng nên nguôi đi phần nào rồi mới phải, nếu vẫn tiếp tục mê man thì phiền toái rồi, càng kéo dài càng không ổn, hắn sẽ phải nghĩ cách cả đêm đưa cô đi tìm bác sĩ.

Hắn bế Mạnh Thiên Tư tới bên khe suối, thò tay múc nước vẩy lên mặt cô. Chiêu này học theo cụ nuôi, cụ nuôi nói nước suối trong núi lạnh thấu tim gan, hồi đó say rượu hoặc mệt đến chỉ muốn ngủ vật ra, đều dựa vào thứ nước này để tỉnh táo lại.

Ấn đường Mạnh Thiên Tư cau lại, không tỉnh.

Có phản ứng là tốt rồi, Giang Luyện quyết định thử liều mạnh hơn, hắn ấn mặt cô xuống nước, sau đó buông tay, trong lòng nhẩm đếm thời gian, tính đến đúng thời gian thì vớt cô lên.

Cũng may, cô rất nhanh có động tĩnh, đầu tiên là bả vai khẽ co rụt lại, sau đó hai tay cuộn lại quơ túm, kế tiếp sặc nước, ho lên khù khụ. Giang Luyện thoáng chần chừ, cuối cùng vẫn vỗ lưng cho cô, hỏi: “Cô không sao chứ?”

Mạnh Thiên Tư vừa ho khan vừa lắc đầu, dường như còn ngại chưa đủ tỉnh táo, lại tự mình nhúng cả đầu xuống nước, nhô lên hụp xuống mấy lần mới hết hứng ngồi ngay ngắn trở lại, cúi thấp đầu, tóc bị ướt không ngừng nhỏ nước xuống, đồng thời yếu ớt giơ ngón trỏ lên ngoắc ngoắc Giang Luyện.

Giang Luyện sợ cô bị Bạch Thủy Tiêu làm cho để lại di chứng gì đó, sáp lại gần nhìn sắc mặt cô: “Cô thế nào…”

Mới nói được một nửa, bỗng chú ý tới má cô hơi phồng lên, trong lòng Giang Luyện chớp động, nghiêng đầu tránh phắt nhưng rốt cuộc vẫn chậm mất nửa nhịn, Mạnh Thiên Tư phun thẳng ngụm nước ra, phất qua má phải hắn, đập thẳng vào vành tai, sau đó hết đà rơi hết xuống cổ, lại chia ra làm mấy dòng hoặc chảy ra sau lưng hắn xuống thắt lưng, hoặc chảy từ vai hắn ra trước ngực, đến tim gan, phải nói là lạnh tê tái.

Hắn giơ tay lên lau nước vương trên lông mày bên phải rồi ngẩng đầu lên.

Trăng đã lên, mặt nước loang loáng, óng ánh như ban ngày, Mạnh Thiên Tư nghiêng đầu nhìn hắn, khóe miệng chậm rãi nhoẻn một nụ cười mê hoặc, khuôn mặt cô vốn đã rực rỡ, làn da sau khi ngâm nước càng thêm trong mịn, nét môi vô cùng rõ ràng, khóe miệng còn đậu vài giọt nước rung rinh muốn rơi.

Giang Luyện ngẩn người, lần đầu tiên cảm thấy từ “quỷ non” này thật đúng thích hợp với cô, nữ yêu thoắt ẩn thoắt hiện trong núi rừng đêm tối, vô cùng quyến rũ, nhưng cũng rất nguy hiểm, thực sự là ác mộng tươi đẹp của những chàng thư sinh thời cổ đại.

Cô đưa ngón tay chậm rãi lau giọt nước bên khóe miệng đi, nói: “Phun trật rồi.”

Giang Luyện cười cười, vì tình hữu nghị.

Hắn mượn nụ cười này xóa nhòa đi hơn nửa cơn tức trong lòng, đem non nửa còn lại ra không nhanh không chậm nói: “Cô Mạnh, nếu tôi ích kỷ sợ phiền phức thì hoàn toàn có thể không tới cứu cô… Tôi bận rộn vất vả như thế, kết quả là phải chịu một ngụm nước của cô, có phải là hơi oan không?”

Mạnh Thiên Tư khinh thường lườm hắn: “Anh đương nhiên là phải cứu tôi rồi, đừng quên, chính anh đã kề dao lên cổ tôi ép buộc tôi, anh mà không đến thì xác định là đội vững cái danh đồng bọn của Bạch Thủy Tiêu, trở thành kẻ địch của quỷ non. Tôi không có tin tức ngày nào, anh không được sống yên ổn ngày đó, chỉ khi tôi lành lặn trở lại, hơn nữa còn là anh cứu về, anh mới rửa sạch được hiềm nghi… Đừng tự tâng bốc mình ngập tràn nghĩa khí lên như thế, có ai bị ngu đâu.”

Giang Luyện bị cô vặc cho nghẹn họng.

Hắn phải thừa nhận rằng hắn quả thật có mưu tính này, nhưng đêm qua lúc cấp bách đuổi theo xe thì thật sự không nghĩ nhiều như vậy.

Thây kệ, cô thích hiểu ra sao thì hiểu, dù sao cách lý giải này cũng không sai.

Giang Luyện xòe tay, tỏ vẻ: Cô lợi hại, cô đúng tất, tôi không còn lời nào để nói.

Chợt nghĩ đến điều gì: “Cô khỏi hẳn rồi? Có sao không? Biểu hiện lúc trước của cô…rất kỳ quái.”

Lúc trước?

Mạnh Thiên Tư nhíu mày.

Cô nhớ ra rồi, cô vừa nhập điên thì đã bị Giang Luyện đánh bất tỉnh.

***

Quỷ non luyện kháng thuốc, cấp thấp nhất là cố gắng giữ tỉnh táo, cấp cao hơn thì gọi là “phản nhập điên”.

Giữ tỉnh táo là điều động tất cả sức lực trong cơ thể, chính diện đối kháng: Ví dụ cô vừa thất thần, thấy kiến trên vách tiền bắt chước chim nhạn bay lên, sau đó lập tức tỉnh táo lại, thì gọi là giữ tỉnh táo.

Nhưng thời xưa, đối thủ phóng khói mê đa số đều là lén lút, chắc chắn sẽ không nhắc nhở trước mặt anh là “Chú ý, chuẩn bị thả khói mê đây”, bởi vậy nên lỡ trúng khói mê rồi thì phải làm thế nào để phá mê, làm sao để có thể “phản nhập điên”, còn quan trọng hơn giữ tỉnh táo.

Nguyên lý kể ra cũng đơn giản, chẳng hạn như nhiều người trưởng thành nằm mộng, sẽ mơ thấy mình trở lại ngày thi đại học, sắp đến giờ nộp bài, trước mắt trống rỗng, cuống đến cả người vã mồ hôi lạnh, nhưng bất thình phúc đến tâm thông, có thể nhắc nhở được mình rằng: Hôm qua không phải mình còn làm việc/đi họp/đi công tác/đón con sao? Sao lại ở đây làm bài thi, rõ ràng là nằm mơ?

Bèn thở dài một hơi, từ từ tỉnh lại.

Tóm lại, chính là quá trình “nhập điên – phá mê”, càng kiên trì được lâu, càng phá mê được nhiều thì khả năng phản nhập điên sẽ càng cao, kỷ lục Mạnh Thiên Tư tuy không phải là tốt nhất, nhưng tối đa cũng từng kiên trì được 112 phút, phá 46 lần, bình quân không đến 3 phút một lần, cho nên trong mắt cô, chỉ mới nhập điên chưa phải là chuyện gì to tát, mà Bạch Thủy Tiêu sợ quỷ non “phản nhập điên” cũng là có lý do, anh cho rằng cô ta đã lú rồi, cô ta lại đột nhiên tỉnh táo lại phản kích – bởi vậy nên nhiều lần nhắc nhở Kim Châu Ngân Châu, không đến lúc trời tôi thì sẽ không thực sự có hiệu quả, đừng để bị Mạnh Thiên Tư lừa.

Mạnh Thiên Tư đưa tay xoa xoa gáy, ánh mắt phức tạp nhìn Giang Luyện: Tên này ra tay quá nhanh, nếu hắn kiên nhẫn chờ thêm chút nữa thì cô cũng “phản” được về, có điều cũng may là hắn xuất hiện, mặc dù không phải là Mạnh Kình Tùng cứu nhưng rốt cuộc cũng phù hợp với mong muốn, lược bớt chuyện cho cô.

Cô định đứng lên, lúc này mới cảm thấy tứ chi nhũn ra, đan điền không vận khí lên được, xem ra nhang cao đúng là có ảnh hưởng tới cơ thể người, tác dụng chậm nhưng kéo dài giống như mưa phùn làm ẩm vậy, không phải là quá mạnh nhưng lớp lớp sũng nước.

Cô đưa tay ấn ấn cái bụng xẹp lép, nhìn chung quanh một vòng, tin chắc là tạm thời an toàn: “Không có gì ăn à?”

Giang Luyện đáp: “Tôi cũng chưa ăn, từ đêm qua tới giờ sao tính nổi đến chuyện ăn chứ?”

“Thế anh có đói không?”

Sao, cô có cách gì à?

Giang Luyện đáp: “Đói chứ.”

“Anh đói, tôi cũng đói, mọi người đều có nhu cầu, vậy đứng trơ ra đó làm gì, anh đi kiếm chút gì đi.”

Giang Luyện muốn phản bác cô hai câu, nhưng kể cũng lạ, lời Mạnh Thiên Tư nói nghe thì như há miệng là ra, song lại có một đạo lý kiên định vừa lệch lạc vừa vi diệu, khiến cô vừa nói, hắn đã hiểu được là: Nếu đã cùng đói thì nên đi kiếm chút đồ ăn, mau chóng bổ sung thể lực; mà cô đã mệt mỏi không có sức lực như thế thì nên là “hắn” đi kiếm đồ ăn.

Hắn đưa mắt ra xung quanh: “ Nhưng một mình cô ở đây…”

Mạnh Thiên Tư ngắt lời hắn: “Đương nhiên là tôi không thể một mình ở đây rồi, lỡ như đám Bạch Thủy Tiêu đuổi tới thì tôi phải làm sao?”

Cô ngẩng lên nhìn quanh mình một vòng, chỉ vào một cây đại thụ cách đó không xa, cây đó có vài chạc khá to, tán cây vô cùng rậm rạp kín kẽ, có thể giấu lên đó một hai người: “Anh đưa tôi lên đó, tôi chờ anh bên trên.”

Cách này không tệ, nhưng giọng điệu ra lệnh này khiến Giang Luyện hơi khó chịu: “Người nói chuyện với người không cần hai chữ ‘làm ơn’ à?”

Mạnh Thiên Tư có cần ‘làm ơn’ hay không thì phải xem tâm trạng xem trường hợp; có chịu nghe dạy bảo cũng phải nhìn xem người dạy bảo là ai, dù sao cũng không phải là Giang Luyện: Đêm qua hắn kề dao lên cổ cô, dù chuyện xảy ra là có nguyên nhân thì cô cũng thực sư không sinh hảo cảm được với hắn, nói câu nào là có gai câu đấy.

Cô nói: “Không cần, tôi nói một câu còn có ối người giành giật nhau làm, tôi không cần làm ơn.”

Giang Luyện nhất thời im lặng, Mạnh Thiên Tư cũng không nhìn hắn, tự mình vắt nước trên tóc, lạnh nhạt nói: “Ngại phiền phức thì tôi ngồi ở đây cũng được, sống chết có số, chẳng sao cả.”

Giang Luyện khẽ nhắm mắt lại rồi mở ra: nói chuyện với Mạnh Thiên Tư thật sự phải liên tục bình ổn tâm trạng, bằng không sẽ muốn vặc lại cô, mà vặc cô rồi sẽ làm ảnh hưởng tới “kế lớn”, bất lợi cho việc kiến thiết tình hữu nghị.

Hắn xoay lưng về phía Mạnh Thiên Tư, ngồi xổm xuống: “Tôi phải trèo cây, cô tự ôm chặt vào.”

Cây này không thấp, hơn nữa trên lưng còn cõng theo một người, Giang Luyện thật sự rất trầy trật, cũng may lúc hắn mò mẫm trong trại đã thuận tay nhặt một con dao phòng thân, có dao cắm vào làm mấu bám có thể tiết kiệm được không ít sức lực, chỉ là hơi ngại ngùng: mùa này ăn mặc vốn ngắn mỏng, cơ thể Mạnh Thiên Tư dán lên lưng hắn, hơi thở phả bên cổ hắn, muốn tránh cũng không tránh được quan hệ không gần gũi mà lại thân thể “gần gũi”, có lẽ sẽ có người cảm thấy đó là diễm phúc, nhưng hắn thì chỉ cảm thấy lúng túng, càng tránh không nghĩ lại càng nghĩ đến, chỉ có thể ôm lòng không vẩn mây.

Mạnh Thiên Tư cũng rất mất tự nhiên, thường ngày cô nhảy cao đạp thấp, đã bao giờ bất lực đến nỗi cần người cõng đâu? Chuyện cõng vác này vốn phải kề sát thân thể, Giang Luyện trèo lên phải dùng sức, cơ thể nóng lên, da thịt trên lưng căng lên, khó tránh khỏi chạm cọ vào chỗ này chỗ kia của cô, nếu song phương có hảo cảm với nhau, tứ chi ngẫu nhiên tiếp xúc thì gọi là ám muội, tình thú, nếu không có hảo cảm thì chẳng khác gì nuốt phải ruồi. Mạnh Thiên Tư đầy một bụng bực bội, lại tự biết nỗi bực bội này là vô lý, không thể nổi giận được.

Trèo cây mà đến là giày vò, mỗi người còn phải giả bộ không sao, chỉ là đang trèo cây mà thôi, cũng may trời đã tối, chui giữa tầng tầng cành cây dày đặc lại càng tối, không nhìn thấy rõ được mặt nhau, chút xấu hổ này chỉ như một mảnh giấy, xé ra trong bóng tối, vần vò vứt đi rồi không nhắc lại nữa.

Giang Luyện đỡ Mạnh Thiên Tư ngồi lên chạc cây rồi nhanh chóng xuống khỏi cây rời đi, cả cánh rừng to như vậy chỉ còn lại mình cô.

Núi rừng trong đêm khó tránh khỏi đáng sợ, không tiếng động hay có tiếng động đều khiến người ta rợn tóc gáy, Mạnh Thiên Tư thì lại thờ ơ: quỷ non vốn luôn thân thiết với núi.

Cô ngồi trên cao, dưới bàn chân là lớp lớp cành lá, dù có người đứng dưới tán cây nhìn lên, cũng sẽ chỉ thấy tán lá như ô – tán cây này như một cái tổ, bao lấy cô vào giữa, mùi lá, mùi cành và cả mùi núi đá, đêm tối đều rất quen thuộc, lại gần gũi, làm dịu và thư giãn thần kinh của cô.

Phường, trạm, đình, sào, tám trăm một ngàn năm trước, đa số quỷ non đều lấy cây làm sào, xây ổ nương thân như thế này.

Cô không quen thuộc vùng này, không có ý định mạo hiểm đi đêm, huống chi cơ thể còn chưa hồi phục, không bằng nghỉ ngơi trước một đêm, đợi trời sáng rồi lại nghĩ cách liên lạc với Mạnh Kình Tùng, còn Giang Luyện thì, mặc kệ hắn có đáng tin hay không, bây giờ cũng chỉ có thể dựa vào hắn.

Giang Luyện nhanh chóng trở lại, trời tối như bưng, trong rừng nhìn chỗ nào cũng giống chỗ nào, hắn lo lắng cho an toàn của Mạnh Thiên Tư, chỉ đi tìm loanh quanh gần đó, không dám đi quá xa, có điều đồ đạc tìm được cũng không ít, buộc áo khoác lại thành túi đem trở về – tuyệt đại đa số non nước đều khả ái, là bát cơm trời ban, một khuôn bánh úp, dùng dao tách cái là gỡ được bánh, một cái bát miệng rộng, khoắng thìa một cái là múc được đồ ăn, thế mới nói “gần núi ăn của núi, gần nước ăn của nước”.

Mạnh Thiên Tư đẩy cành lá trên đầu ra, nương nhờ ánh trăng mà vặt, có quả sổ dại, có hầu tra, có ngũ vị tử, có nho núi, hạt dẻ vỏ ráp và các loại quả mọng dại, dù có mấy thứ đã khô quắt hết mùa nhưng vào lúc này thì có thể gọi là “tiệc lớn” rồi.

Hai người chia nhau ngồi lên hai cành cây, đối diện nghiêng người, mỗi bên nắm hai góc áo khoác đè lên đầu gối, căng áo khoác thành cái bàn, tự bóc đồ ăn cho mình trên mặt bàn này, vỏ bã hạt không thể ném lung tung, sẽ bại lộ tung tích, bèn chất đống trên “mặt bàn”, định ăn xong dùng áo khác bao lại, coi như một túi rác sẵn có.

Người trong nước có văn hóa bàn ăn, ăn ăn nói nói, giao tình cũng nảy mầm một cách tự nhiên trong cuộc đàm luận ăn uống này, giống như thứ tự lên món vậy: đầu tiên là món lạnh, khách khí xa lạ; sau đó là món nóng, thư thái thân thiện; cuối cùng là rót rượu cho nhau, giao tình liền nối thành.

Đã ăn rồi mà không nói gì đó thì thật thiếu thú vị, giống như há miệng ra chỉ để ăn mà không lải nhải thì quá lãng phí, huống hồ Mạnh Thiên Tư vốn có không ít chuyện muốn hỏi.

“Hai người bạn của anh đâu?”

Giang Luyện cũng đang lo lắng cho tình hình của hai người này.

Hắn thuật lại tóm tắt chuyện xảy ra trước đó một lượt trước: “Vi Bưu và Mỹ Doanh hẳn nên trốn đi trước, nhưng hai người họ đều không lanh lợi lắm, sớm muộn ghì cũng sẽ bị người của cô tìm ra. Mạnh Kình Tùng…sẽ không làm khó họ đâu chứ?”

Mạnh Thiên Tư nói: “Kình Tùng làm việc thận trọng chững chạc, nếu bạn anh có thể nói rõ ràng, Kình Tùng cũng sẽ không làm gì quá mức, cùng lắm…”

Cô bóc hạt dẻ dại bỏ vào miệng, hạt này khá được, vừa ngọt vừa giòn, còn có nước nữa.

Nhai xong, cô mới nói nốt nửa câu còn lại: “… Mặt mày trông có da có thịt như vậy, đánh mấy trận thôi.”

Xem ra Vi Bưu sẽ bị đánh, Giang Luyện yên lòng: đánh thì đánh, ăn nhiều cơm gạo, thân hình lực lưỡng như vậy đúng là nên chịu chút gian khổ.

Mạnh Thiên Tư lại nhớ ra điều gì: “Huống Mỹ Doanh bạn anh kia bị bệnh gì à?”

Giang Luyện gật đầu: “Phải.”

Mạnh Thiên Tư cúi đầu bóc vò quả sổ, quá khó bóc, quả vốn tròn ủng lại bị cô bóc cho thủng lỗ chỗ: “Nặng không?”

“Rất nặng, không cẩn thận thì chỉ sống được ba năm rưỡi nữa.”

Mạnh Thiên Tư ồ một tiếng: “Vậy sao không đưa cô ấy đi bệnh viện đi, mang vào núi làm gì?”

“Mang vào núi là để tìm đường sống.”

Cụ nuôi vẫn thường dặn hắn không được nói chuyện của Mỹ Doanh với người ngoài, nhưng Giang Luyện tự có suy tính riêng: Nếu anh giấu kín một bí mật thì bí mật có thể sẽ mãi chỉ là bí mật nhưng nếu anh có thể nói với người ngoài thích hợp thì có nghĩa sẽ càng có nhiều người hơn tới phá giải, tỉ lệ giải mã cũng càng lớn hơn – huống hồ hiện giờ hắn còn có chuyện phải nhờ Mạnh Thiên Tư.

Giấu đầu hở đuôi mà xin giúp đỡ, không bằng thẳng thắn thành khẩn mà nhờ, Mạnh Thiên Tư không giống người không phân biệt phải trái, nếu có thể khiến cô sinh lòng đồng cảm với Mỹ Doanh, chuyện sẽ dễ xử lý hơn nhiều.

Mạnh Thiên Tư bóc xong quả sổ, đưa lên mũi ngửi ngửi, không định ăn, quá chua.

Cô bỏ quả sổ xuống, hái một cái lá vò nát lau tay: “Việc anh câu thận ảnh có liên quan đến bệnh của Huống Mỹ Doanh?”

“Phải.”

Mối liên quan này có hơi mù mịt, Mạnh Thiên Tư nhớ tới mấy bức vẽ của Giang Luyện: “Người phụ nữ mặc áo trắng bị cắt cổ một nửa vẫn cố bò…”

“Là cụ ngoại của Mỹ Doanh, cũng chính là bà cố. Đội thồ đó là người nhà họ Huống đang di dời gia sản, lúc đó người Nhật đã đánh vào Hồ Nam, vì để tránh chiến họa…”

Nói tới đây, hắn dừng lại: có một luồng sáng đèn pin rất nhạt đang lướt qua cành lá bụi rậm chếch phía trước, giống như một đường sáng đột ngột rơi xuống.

Vậy tức cách đây không xa, có người đang rọi đèn pin.

Lát sau, tiếng bước chân lộn xộn tới gần, ánh đèn nhiều thêm mấy luồng, cũng càng sáng hơn, lướt qua lướt lại trong mảnh rừng này, trong đó có một luồng thậm chí còn xuyên qua cành lá, chiếu từ sau tai hắn tới, rọi sáng một bên gò má hắn.

Có người tới.

Cả hai đều không nói gì, Mạnh Thiên Tư khẽ khàng nắm lấy hai góc áo khoác đưa qua, Giang Luyện nhận lấy, lặng lẽ đùm túm gói lại, sau đó, ai nấy đều ngồi thẳng người dậy, lưng dựa lên thân cây, vẫn không nhúc nhích, đều hít thở cũng nhẹ hơn rất nhiều.
 
Quyển 3 - Chương 6


Tiếng người cũng tới gần.

Giọng nói nghe thấy đầu tiên là tiếng con gái ríu rít: “Nước, nước, em đã bảo là rẽ sang bên này có nước mà.”

Đó là Kim Châu Ngân Châu, hai cô bé chạy vụt qua gốc cây, chạy về phía con suối, vội vàng rửa mặt rửa tay, vốc nước lên uống, lại rót vào bình nước mang theo bên người.

Đi cùng đằng sau là Bạch Thủy Tiêu và bà Điền Miêu, họ đứng bên cây, đợi Kim Châu Ngân Châu đi lấy nước, trò chuyện câu được câu không.

Bạch Thủy Tiêu nói: “Tiếp theo chúng ta chia đường, ba người tìm chỗ nào kín đáo mà trốn một thời gian, đợi qua vụ này lại trở về.”

Bà Điền Miêu thở dài: “Bọn tôi vẫn ổn, cháu mới phải cẩn thận đấy. Quỷ non phát ảnh cháu đi khắp nơi ra, còn ra giá cao, đoạn đường này cháu phải tránh những thôn trại có người, không chừng đều bị quỷ non mua chuộc cả rồi.”

Sắc mặt Bạch Thủy Tiêu u ám, không ngừng bấm công tắc đèn pin, trước mặt lúc sáng lúc tối.

Người tìm tới buổi chiều đúng là quỷ non, có điều, không giống với những gì cô ta nghĩ: Những người kia cầm ảnh cô ta một đường hỏi tới đây, xem ra không khó đoán được là Mạnh Thiên Tư mất tích, tình hình nghiêm trọng, quỷ non đầu này đã dốc hết lực lượng dò tìm từng thôn từng trại, không bỏ sót bất kỳ chỗ nào có người ở, không bắt được cô ta sẽ không ngừng lại.

Nhưng điều này cũng không quan trọng: Mạnh Thiên Tư quả thực đã chạy đi, đại quân của quỷ non sớm muộn gì cũng đánh tới cửa, khiến cô ta không thể không rời đi tránh đầu sóng ngọn gió.

Bà Điền Miêu nghĩ ngợi: “Hay là cứ đi chung đi, nhiều người chiếu cố lẫn nhau cũng tốt hơn.”

Bạch Thủy Tiêu không đáp lời, im lặng một lúc mới nói: “Cháu làm hỏng chuyện, phải trở lại báo cáo.”

Bà Điền Miêu mặt hơi biến sắc, không cầm được sợ đến run rẩy, giọng cũng run lên theo: “Sẽ không sao chứ?”

Bạch Thủy Tiêu nghe ra bà ta sợ hãi: “Yên tâm đi, không sao, bà đừng nghĩ về ngài ấy đáng sợ thế.”

Bà Điền Miêu cười gượng: “Tôi đã thấy bao giờ đâu, cháu cũng thật là…si dại rồi.”

Còn muốn căn dặn thêm mấy câu, Kim Châu Ngân Châu đã trở lại, bà Điền Miêu im bặt, đám người lại rời đi.

Họ vừa đi khỏi, Mạnh Thiên Tư đã không nhịn nổi nữa, cô đẩy cành lá ra, nhìn về phía ánh đèn pin đi xa: không bao lâu sau, trong luồng sáng tách ra một luồng, một mình đi một hướng, tất nhiên đó là Bạch Thủy Tiêu.

Cô giục Giang Luyện: “Đi mau, bám theo cô ta.”

Giang Luyện không nhúc nhích: “Làm gì?”

Còn làm gì nữa, hắn không có não à? Mạnh Thiên Tư bực dọc: đi cùng Mạnh Kình Tùng vẫn đỡ lo hơn, hợp tác nhiều năm, không cần tốn nước bọt, một ánh mắt của cô thôi là y đã có thể thỏa đáng làm xong việc rồi.

Cô nhẫn nại giải thích: “Anh không nghe thấy Bạch Thủy Tiêu nói phải về báo cáo sao? Điều đó chứng tỏ sau lưng cô ta có chủ mưu, cô ta chỉ làm việc, bám theo cô ta, tìm hiểu ngọn nguồn là có thể tìm ra người kia.”

Giang Luyện nói: “Tôi hiểu đạo lý ấy, nhưng cô Mạnh, an toàn của cô là quan trọng nhất, bây giờ thể lực của cô còn chưa khôi phục… Tôi cảm thấy hay là chờ cô hội hợp với Mạnh Kình Tùng rồi lại tra cũng không muộn.”

Mạnh Thiên Tư cười khẩy: “Anh không biết người lánh vào núi sâu rồi sẽ khó tìm hơn sao?”

Núi thẳm rừng sâu như vậy, núp cả một đội quân còn khó tìm nữa là chỉ núp một người, lần này Bạch Thủy Tiêu rời đi quả thực là cá về với biển, đá về với núi, tìm khó hơn lên trời.

“Biết, nhưng chỉ mình Bạch Thủy Tiêu đã rất khó đối phó rồi, người đứng đằng sau cô ta sẽ càng nguy hiểm hơn, hơn nữa sau lưng cô ta còn có bao người, không ai biết cả. Cứ đi như vậy quá mạo hiểm, hay là chờ cô triệu tập nhân thủ rồi…”

Mắt thấy ánh đèn pin đã sắp khuất, Mạnh Thiên Tư không kiên nhẫn nổi nữa: “Tôi có nói là tìm tới cửa đánh lộn đâu, chúng ta lén bám theo một đường, cố gắng không để bại lộ hành tung, tìm ra chỗ đến của cô ta, đồng thời cũng nghĩ cách liên hệ với Mạnh Kình Tùng không được à…”

Cô bỗng dừng lại như thông suốt điều gì, nhìn sang Giang Luyện, ánh mắt có phần khác thường, nói: “Hiểu rồi.”

Lời nói có hàm ý, trong lòng Giang Luyện đánh thịch một tiếng, da đầu tê tê.

“Anh cảm thấy nhiều một chuyện không bằng bớt một chuyện, đưa tôi về coi như báo cáo kết quả, không muốn dính vào việc này nữa, đúng không?”

Cô kéo dài giọng, cười đến là dịu dàng: “Tôi hiểu.”

Suy tính bị vạch trần, có hơi xấu hổ, nhưng đúng là hắn nghĩ như thế: Vất vả mãi mới cứu được người ra, muốn nhanh chóng trở về thanh toán trước vụ “bắt cóc” này, không muốn phát sinh thêm phiền phức gì nữa – ngộ nhỡ chuyến này cô vào hang hổ lại xảy chuyện nữa, bị thương, tàn phế, thậm chí là chết, vậy cái danh “bắt cóc” hỏng bét này có khả năng hắn phải gánh chắc rồi, không thể rửa sạch được nữa.

Không ngờ nhanh vậy đã bị nhìn thấu, cô cười, Giang Luyện cũng chỉ đành cười theo, biết chút tình nghĩa vừa ăn ra ban nãy đã mất toi rồi.

Sợ là còn bị trừ điểm thêm.

Mạnh Thiên Tư chống tay lên chạc cây như định thả mình nhảy xuống. Giang Luyện sợ cô không đủ sức lực bị ngã, vội thò tay ra níu, nào ngờ cô lại dừng lại, không xuống ngay.

Giang Luyện vươn tay thành ra thừa thãi, quá xấu hổ, lại rút về.

Giọng Mạnh Thiên Tư khinh thường: “Anh nghĩ như vậy cũng là bình thường. Có điều, nhắc nhở anh một câu, nợ nần giữa chúng ta còn lâu mới thanh toán xong, sợi dây chuyền của tôi đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng đâu – nếu anh cảm thấy xuất lực cứu tôi là có thể hoàn toàn thanh toán chuyện lúc trước thì không khỏi nghĩ đơn giản quá rồi.”

Lại là dây chuyền.

Lúc này Giang Luyện mới nhận ra sợi dây chuyền vẫn luôn bị hắn gạt sang một bên thực chất rất không tầm thường.

“Sợi dây chuyền đó quan trọng lắm à?”

Mạnh Thiên Tư đáp: “Truyền từ mấy nghìn năm xuống, trên đời chỉ có một sợi duy nhất, anh nói xem có quan trọng không? Có gan thì đừng đi cùng.”

Nói xong, nghiêng người sang một bên, men theo thân cây leo xuống: Chút khoảng cách này bình thường chẳng tốn bao nhiêu sức lực, bây giờ thì lại thật sự khó khăn, tay nhũn chân run, gần như trượt ngã xuống, may mà trèo cây là chuyện trẻ con, tuy hình như bị trầy da một bên cùi chỏ, lúc rơi xuống đất lại chống được cổ chân, nhìn chung tư thế xuống vẫn rất đẹp mắt.

Dù sao cũng tốt hơn là bị ngã.

Cô leo xuống nhanh nhẹn như vậy, Giang Luyện còn thật sự tưởng là cô hồi phục nhanh, lực sát thương của tin tức này hơi lớn, hắn lại giơ tay phải lên nhìn: tay với chẳng chân, giật một cái là trúng ngay đồ cổ độc nhất vô nhị, ngày thường rút số lật bài sao không nhạy được thế.

Trước đây hắn còn tưởng là do vận may của mình không tốt, giờ thì hiểu rồi, là số mệnh không tốt.

Xem ra sợi dây chuyền kia mà không về được thì món nợ này sẽ mãi mãi không có ngày thanh toán xong, Giang Luyện thở dài, đang định đi theo, chợt khựng lại.

Không đúng, vừa nãy Mạnh Thiên Tư nói “Có gan thì đừng đi cùng” chứ không phải “Có gan thì đi cùng.”

Hắn hít phải một hơi lạnh, cô ả này ác thật, biết rõ là hắn dù có không tình nguyện đến mức nào đi nữa chắc chắn cũng sẽ đi cùng: hắn trầy trật vất vả mãi mới cứu được cô ra, chẳng lẽ là để cô một mình trong rừng sâu núi thẳm bị hổ sói gặm mất chắc?

Vội vội vàng vàng ra người ra sức lại chẳng giành được chút tốt lành gì, cuộc đời nhất thời rơi vào thế lưỡng nan, có nên đi cùng không: Không đi cũng không ổn mà đi thì lại trúng cái bẫy ngôn ngữ của cô, tự nhận là mình không có gan…

Lát sau, Giang Luyện cúi đầu, ánh mắt trượt vào giữa hai chân, lẩm bẩm: “Sự thật thắng hùng biện, cô nói không có là không có chắc?”

Xí, cô là ai chứ.

Hắn nhanh chóng xoay người xuống cây.

***

Bên người Mạnh Kình Tùng chỉ còn giữ lại đám Liễu Quan Quốc đã quen mặt, đêm nay tạm ở lại trại Lạp Khoa, lại nghĩ tình huống đặc biệt của lão Thần Côn này, bỏ mặc thì không ổn, cũng may là thỉnh thoảng có chút tác dụng, bèn dứt khoát mang theo làm một chân lao động cũng được.

Những người còn lại đa số đã lên đường trước, dọc đường hỏi thăm tung tích Bạch Thủy Tiêu, còn lại thì quay về Ngọ Lăng, chuẩn bị trang bị dụng cụ – mục tiêu cuối cùng là vượt qua vách rìa nhỏ, vào vùng núi treo túi mật.

Sau bữa tối, Thần Côn cuộn cuốn sổ nhỏ vào trại sưu tầm dân ca, hai Thẩm vừa giám thị vừa bầu bạn, cũng đi theo, Liễu Quan Quốc qua đây báo cáo tiến triển thăm dò phía trước.

Mạnh Kình Tùng không ôm hi vọng gì vào việc thăm dò này, dù sao cũng không thể thực sự vào nhà tìm kiếm, nếu đối phương có ý định giấu giếm thì chỉ cần đáp một câu “Chỗ chúng tôi không có”, anh làm gì được người ta chứ?

Quả nhiên, Liễu Quan Quốc báo cáo một loạt dài các thôn, trại, dốc, đều là “không có phát hiện gì”, Mạnh Kình Tùng nghe mà nẫu ruột, chỉ là lúc nghe đến tên một cái trại, thuận miệng hỏi một câu: “Sao cái trại này lại tên là ‘dốc Người Hỏng’, ai lại đặt tên như vậy?”

Bình thường, thôn trại trên đời vì để nghe cho đặc sắc đều lấy một cái tên cát tường, ở đây rất nhiều trại tên nghe thì khó đọc nhưng thực chất trong tiếng địa phương lại toàn là lời đẹp ý hay; hoặc là sẽ đặt tên đặc điểm địa hình địa thế, như là “trại Ba Cột Đá”, “trại Mỏ Ưng” vân vân, nhưng tuyệt đối sẽ không gọi mình là “Người Hỏng”, nghe rõ là ủ dột.

Liễu Quan Quốc đáp: “Xưa nay vẫn tên là ‘dốc Người Hỏng’.”

Nguồn gốc của “dốc Người Hỏng” này cũng không khác “thôn Hủi” là bao, trước giải phóng, có vài người mắc bệnh truyền nhiễm không chữa được, thôn xóm không dám giữ, đều sẽ bị cưỡng chế đưa lên những dốc núi xa xôi chờ chết, sợ người bệnh lén chạy ra ngoài, còn đắp tường bao thật cao, lấp kín cửa, thậm chí còn thuê người canh giữ.

Sau giải phóng, có chính phủ quan tâm, những trại này tất nhiên cũng thành trại hoang, hơn nữa vị trí quá hẻo lánh, không thể xây cất lắp đặt cơ sở hạ tầng được, người ở cũng khó, nhưng kỳ lạ là lục tục lại có người vào ở.

Nghe nói có người là mắc bệnh nan y, nản lòng thoái chí, bèn muốn tìm một nơi đoạn tuyệt hồng trần chờ chết; có người là tâm lý bất thường, nhân cách phản xã hội, không thể sống chung với người thường; có người là phạm tội bên ngoài hoặc bị kẻ thù truy sát, rời bỏ quê hương, lên chỗ núi cao rừng sâu trốn…

Nói chung đều không phải người bình thường, dù sao trên dốc không điện không nước, gần như là sống kiểu nguyên thủy, người bình thường cũng không chịu nổi khốn khổ như vậy.

Số lượng bọn họ không tính là nhiều, đại khái chỉ có mấy chục nhân khẩu, ba người thành nhóm, có nhóm rồi thì lập quy định, tự xưng với bên ngoài là “Người Hỏng” cũng không phải là ủ dột mà là tự chế giễu một cách kiêu ngạo, không đáng kề vai sát cánh với những người không hỏng ở bên ngoài; nhất định phải coi giữ lẫn nhau, cùng chung mối thù, kẻ thù của hắn tìm tới cửa, nếu anh không giúp, tương lai cũng sẽ không ai giúp anh; không qua lại với bên ngoài, cũng kháng cự người lạ tới thăm…

Bình thường, đối với những khu dân cư toàn những thành phần bất minh này, chính phủ đều sẽ đặc biệt chú ý, nhưng một là vì dốc Người Hỏng quá hẻo lánh, số lượng hộ gia đình lại ít, không ra ngoài không làm loạn, sống như một tia khói nhạt, anh gần như không nhận ra sự tồn tại của nó; hai là họ cũng quỷ quyệt, nghe đồn có một khoảng thời gian tán tác chim muông, người đi trại trống, qua sóng gió rồi lại quay về ổ, cứ như đánh du kích vậy, bị bắt gặp thì nói là mình tới du lịch, thả thể xác và linh hồn về với thiên nhiên, làm sao, phạm pháp chắc?

Ai lại đi so đo với họ chứ.

Mạnh Kình Tùng hỏi: “Nói vậy, người của chúng ta cũng không thể vào cổng trại?”

Liễu Quan Quốc gật đầu: “Đúng vậy, đừng nhìn trên dốc không có điện thoại, tin tức lại chẳng chậm chạp chút nào đâu, nhà nào cũng có chuông lắc, nghe nói căn cứ vào nhịp điệu chậm rãi hoặc gấp gáp mà biểu trưng cho mức độ nghiêm trọng của chuyện, người ngoài không ai nghe hiểu. Người đầu tiên thấy người lạ, lập tức vung tay rung chuông, người gần đó nghe thấy cũng truyền nhau rung theo, rung không đến mấy lượt là cả trại đều biết, cả trại chạy qua giúp đỡ cản người, căn bản là không cho vào, có điều…dù sao thì có vào hay không cũng không quan trọng.”

Vào được cổng trại rồi cũng chẳng đi vào được từng nhà.

Mạnh Kình Tùng không nói gì.

Liễu Quan Quốc quan sát sắc mặt y, trong lòng khẽ động: “Trợ lý Mạnh, có phải anh cảm thấy cô Mạnh ở đó không? Hay là để tôi phái hai người đi thăm dò?”

Mạnh Kình Tùng mệt mỏi xoa xoa thái dương, đúng là y cảm thấy trại này rất khả nghi, chẳng những thế, y còn cảm thấy trại nào trong số những trại Liễu Quan Quốc vừa báo cáo cũng đều khả nghi – hiển nhiên, y hoảng loạn rồi, mất phương hướng rồi, thấy cái gì nghi cái đó, tâm trạng này rất không ổn.

Y hắng giọng: “Dù có muốn thăm dò cũng phải có dấu hiệu gì thì mới thăm dò được chứ, không thể nghĩ sao làm nấy được, khiến mọi người làm việc mù quáng… Anh đi nghỉ ngơi trước đi.”

Liễu Quan Quốc đáp lời ra ngoài, lúc tới cửa, Mạnh Kình Tùng lại bảo gã: “Đóng cửa lại.”

Liễu Quan Quốc vội kéo cửa, tim đập thình thình không ngừng, nghĩ: Trợ lý Mạnh định gọi điện cho đầu kia đây.

***

Đúng là gọi điện thật.

Chuyện lớn như vậy, trì hoãn giấu giếm một ngày một đêm, Mạnh Kình Tùng cảm thấy tâm lực y muốn kiệt quệ rồi, cũng không biết có phải là thói quen nghề nghiệp hay không, y đã quen nghe lệnh cấp trên, đối với việc tự mình quyết định y vừa không thạo lại vừa kháng cự – ngộ nhỡ quyết định sai thì sao? Cái thân trợ lý của y chịu tải có hạn, có một vài hậu quả thực sự là không chịu nổi.

Đáng lý ra thì phải gọi điện cho bác cả mới là phải nhất, nhưng mấy ngày trước nói chuyện phiếm với Thiên Tư, nghe lời trong lời ngoài của cô, có vẻ như sức khỏe bác cả không tốt.

Mạnh Kình Tùng hơi do dự, cuối cùng gọi cho bác hai Đường Ngọc Như.

Đường Ngọc Như là u hai của Mạnh Thiên Tư, năm nay sáu mươi sáu tuổi, kèm núi ở Thái Sơn đã nhiều năm.

Vị bác hai này và Cao Kinh Hồng là hai thái cực hoàn toàn trái ngược nhau, thời niên thiếu bà gặp phải đủ cuộc đại vận động, tư tưởng khắc khổ giản dị đã ăn sâu vào tâm khảm, rất không vừa mắt chuyện son phấn yến oanh, còn từng ghét bỏ tên mình quá “tiểu thư nhà địa chủ”, sửa tên thành “Đường Vệ Hồng”, gọi được một khoảng thời gian, phát hiện ra thời đó quá nhiều người sửa tên là Vệ Hồng Vệ Quốc, đứng giữa đám đông nghe gọi một tiếng phải có đến mười mấy tiếng đáp lại, thực sự không tiện chút nào, bấy giờ mới sửa lại về.

Mà nay đến tuổi hưởng phúc rồi lại không chịu ngồi yên, người khác không chịu ngồi yên sẽ làm vườn chơi chim, viết chữ vẽ tranh, nhưng Đường Ngọc Như lại khác, bà không sống theo phong cách của giai cấp tiểu tư sản được, bà muốn lao động, còn muốn dùng lao động để sáng tạo nên giá trị!

Cứ cách hai ngày bà lại leo Thái Sơn một chuyến, bắc chảo nướng bánh rán Sơn Đông trên đó, bán bánh cuốn hành cho du khách; cũng sẽ gánh dưa chuột hoặc cà chua, ngâm xuống suối trong núi ướp lạnh, cung cấp cho du khách giải khát – lúc làm ăn khấm khá, một ngày có thể kiếm một trăm tám mươi tệ, mở lịch sử giao dịch trên WeChat hoặc Alipay ra là một chuỗi các con số ba tệ năm tệ dài dằng dặc.

Cao Kinh Hồng từng sơ sài nói về bà: “Lão nhị thích cầm bát vàng đi ăn mày, kệ em ấy đi.”

Hai vị cô bác này không có mâu thuẫn gì lớn với nhau, nhưng vì quan niệm khác nhau nên khó tránh khỏi có chút lục đục, khi còn bé, Mạnh Thiên Tư từng ở chung với tất cả các cô bác: lúc ở với Cao Kinh Hồng thì là một công chúa nhỏ mặc váy voan kiểu Tây, đi giày búp bê, đến chỗ Đường Ngọc Như thì lập tức bị lấy tông đơ cắt phăng tóc, mặc áo yếm đeo ống bao tay, lăn lê bò toài khắp đồng hoang núi dã, Cao Kinh Hồng tới thăm nhìn thấy, suýt tức đến ngất đi, không thể nổi nóng với Đường Ngọc Như, bèn mắng Mạnh Thiên Tư: “Con nhìn lại con xem, có khác gì trứng phân lừa không.”

Câu này đã khiến Mạnh Thiên Tư có một khoảng thời gian rất hiếu kỳ về trứng phân lừa, còn nói chắc như đinh đóng cột với bạn bè đồng lứa là cô biết một cô nhóc ngoại hình vô cùng giống mình, tên là Lữ Phượng Đan (*).”

(*) Trứng phân lừa trong tiếng Trung là để chửi người khác như cục phân lừa, đọc là [lǘ fèn dàn], gần âm với Lữ Phượng Đan [lǚ fèng dān] nên Mạnh Thiên Tư nghe nhầm.



Đường Ngọc Như nghe Mạnh Kình Tùng thuật lại xong, không nói một câu, trong ống nghe chỉ còn lại tiếng hít thở lúc gấp lúc chậm. Mạnh Kình Tùng sợ bà lo lắng, lại nhấn mạnh thêm lần nữa “Lúc đó Mạnh Thiên Tư đánh mắt với cháu, cô ấy hình như có biện pháp”.

Bù câu này xong, cả hai đầu đều chìm vào im lặng, đêm tối trong trại có vô số những âm thanh nhỏ vụn, bị bóng đêm lọc thật khẽ, mềm mại trôi nổi trong ngoài cửa sổ, trên dưới ngọn đèn.

Một lúc lâu sau, Đường Ngọc Như nói: “Tôi biết ngay mà, muốn động vào túi mật núi là thể nào cũng xảy ra chuyện.”

Bà là người duy nhất trong bảy cô bác kiến quyết phản đối chuyện lấy túi mật núi.
 
Quyển 3 - Chương 7


Rốt cuộc túi mật núi là thứ gì, chất liệu, hình dạng, kích cỡ, công dụng ra sao, Mạnh Kình Tùng hoàn toàn không biết, y từng hỏi riêng Mạnh Thiên Tư, song Mạnh Thiên Tư cũng không trả lời được.

Chỉ biết là, kể từ khi có quỷ non thì có thứ này, rất cổ xưa, cũng rất quan trọng. Năm đó, bà cố tổ cảm thấy phải tìm một địa điểm bí ẩn thỏa đáng để cất giấu, bèn vào sâu trong Tương Tây, tìm được một vùng rừng đá không ai biết đến, treo túi mật núi vào xoang núi, rừng đá vô danh ấy vì thế nên cũng nằm trong bản đồ của quỷ non, được gọi là rừng đá treo túi mật.

Vị trí được chọn này thật sự là vô song. Tên gọi tắt của Hồ Nam là “Tương”, Tương Tây, ý ngoài mặt chữ, chính là phía tây Hồ Nam.

Mở bản đồ Trung Quốc ra, Hồ Nam thực ra không hẻo lánh, nó nằm ở miền Trung Nam, trên có Hồ Bắc dưới có Lưỡng Quảng, phía tây tiếp giáp Du Kiềm (*), phía đông liền với Giang Tây, nhìn thế nào cũng là một ngã tư, bốn phương đều thông ra đường lớn – nhưng tình cờ là ở đây có một dãy núi tên là “Tuyết Phong Sơn” trải dài từ phía nam sang phía bắc tỉnh Hồ Nam, cắt tỉnh ra làm hai nửa, mà dãy núi này lại vừa vặn nằm trên đường ranh giới giữa bậc hai và bậc ba của Trung Quốc (**).

(*) Du là tên gọi tắt của thành phố Trùng Khánh, Kiềm là tên gọi khác của tỉnh Quế Châu.

(**) Địa thế của Trung Quốc tây cao đông thấp, lục địa có thể thể chia ra làm ba bậc thang độ cao: bậc thứ nhất là cao nguyên Thanh Tạng, cao hơn mặt biển từ bốn ngàn mét trở lên; bậc thứ hai chủ yếu là bồn địa, cao hơn mặt biển một ngàn đến hai ngàn mét; bậc thứ ba chủ yếu là đồng bằng, cao hơn mặt biển từ năm trăm mét trở xuống.

Phía đông dãy núi chẳng khác nào đồi núi Giang Nam mà phía tây dãy núi thì núi cao rừng hiểm, eo sông vừa dốc vừa chảy xiết, bất lợi cho việc giao lưu với bên ngoài, phong bế suốt mấy nghìn năm, văn hóa đầu đông chảy đến đây gặp núi lớn cản trở, khó có thể tây tiến, bởi vậy nên đến những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, khi Thẩm Tòng Văn miêu tả phong cảnh nơi này, còn gọi đây là “biên thành”.

Vị trí rõ ràng là tim gan của đất nước, nhưng lại rơi vào cảnh được đãi ngộ như vùng biên cương, thế nên mới nói, bà cố tổ quả thật rất biết chọn địa điểm, am hiểu rất sâu đạo lý “đại ẩn ẩn vu thị (*)”.

(*) Lấy từ tư tưởng triết học Đạo gia của Trung Quốc, nguyên văn là “tiểu ẩn ẩn vu dã, đại ẩn ẩn vu thị”, nôm na hiểu là ẩn cư nơi thôn quê hoang dã, tức phải mượn nhờ hoàn cảnh, mới có thể sống tiêu sái được, thì chỉ là hạng xoàng mà người có bản lĩnh thật sự thì có thể ẩn cư ở ngay trong thành thị. Về sau cũng được dùng gần giống nghĩa “nơi nguy hiểm là nơi an toàn nhất”.

Đáng ra nếu những năm ba mươi, “biên thành” cũng một người đắc đạo thì các khu vực xung quanh đã gà chó lên trời, cùng nhau vươn lên, nhưng không hề, bởi giao thông bất tiện, văn hóa bế tắc, vùng này vẫn vô danh bệ rạc như cũ, mãi đến đầu những năm tám mươi, rừng đá ráp Vũ Lăng Nguyên nổi tiếng ra cả nước ngoài của bây giờ mới được người ta phát hiện và mở rộng.

Mà rừng đá treo túi mật thì bởi địa thế hẻo lánh hơn, lối đi hiểm trở hơn, nên đến nay vẫn thâm tàng bất lộ.

Túi mật núi một khi treo lên là treo suốt mấy nghìn năm, ban đầu không ai có ý định động tới nó, nó giống như nền móng, quan trọng và thật sự tồn tại, nhưng xưa nay đều không được nhớ tới hay nhắc nhỏm gì, mãi đến mấy tháng trước, ma nước tới cửa Phường Quế Non.



Thái dương Mạnh Kình Tùng tê buốt: “Ý bác là…chuyện có liên quan tới túi mật núi?”

Y và Thiên Tư đều nghi ngờ như vậy, nhưng đó cũng chỉ là nghi ngờ, dù sao cũng không có chứng cớ xác thực.

Giọng Đường Ngọc Như sang sảng: “Không thì sao, mấy năm nay quỷ non chúng ta có gặp phải chuyện gì không? Bây giờ xảy ra chuyện, chuyện xảy ra ở Tương Tây, xuất hiện trên đường Thiên Tư lấy túi mật núi, anh nói xem chuyện có liên quan tới túi mật núi không? Tôi đã bảo rồi, có một vài thứ đừng có động vào, nó ở đó là có đạo lý của nó.”

Mạnh Kình Tùng ngập ngừng nói, trước mặt các cô bác, hắn rụt rè đã thành thói quen: “Chúng ta cũng không nhất định phải động tới nó, chỉ là đi xem trước mà thôi, xem cũng không sao mà, dù sao năm đó cụ Đoàn…”

Những lo lắng của Đường Ngọc Như thực ra các cô bác khác cũng có, người có tuổi đều thích yên lặng, không thích chuyển động, không thích lăn lộn lung tung, sở dĩ cuối cùng vẫn đồng ý là bởi có một nguyên nhân quan trọng.

Tóc núi Đoàn Văn Hi từng đi vào rừng đá treo túi mật, cũng từng tận mắt nhìn thấy túi mật núi.

Nói đến Đoàn Văn Hi thì không thể không đề cập tới một giai đoạn cuộc đời lên xuống kịch tính, kết cục thổn thức, có thể nói là truyền kỳ của bà.

Bà là người đầu tiên sang Tây du học trong nhà quỷ non, cũng suýt là người có cuộc hôn nhân xuyên quốc gia đầu tiên: năm thứ hai du học, bà yêu một phi công người Anh, trong thư gửi về đã tỏ ý rất rõ ràng rằng hi vọng có thể kết hôn ngay sau khi lấy được học vị.

Năm đó, người trong nước cũng không có hảo cảm gì với giặc Tây mắt xanh râu đỏ, mấy vị đương gia Phường Quế Non khi ấy gần như sầu trọc đầu, nằm mơ cũng nghĩ phải làm thế nào để chia rẽ cặp uyên ương này, nhưng hướng đi của chuyện lại làm tất cả mọi người đều phải bất ngờ: Trong một lần thực tập phi hành, chàng trai người Anh kia gặp nạn, máy bay hỏng, người chết.

Trong cơn bi thống, Đoàn Văn Hi cắt đứt liên lạc, ngay cả bằng chứng nhận học vị cũng là bạn học lĩnh hộ, mà bà thì mất liên lạc suốt ba năm, ba năm ấy đã đi đâu, trong “Tập Quỷ Non” cũng không ghi chép rõ ràng, có điều theo lời Cao Kinh Hồng, hẳn là đi chu du thế giới, bởi khi còn rất nhỏ, me Đoàn từng kể chuyện lạ cho bà nghe, kể rằng từng gặp chủng người có máu màu xanh ở vùng núi cao tại Nam Mĩ xa xôi, còn nhắc tới loài uyên ương đầu đen thân trắng sống trong rừng rậm nguyên thủy ở Philippines.

Ba năm sau, Đoàn Văn Hi trở lại Phường Quế Trai.

Có lẽ là chịu sự ảnh hưởng của ba năm du lịch, bà chẳng ở yên được, thường cứ cách một khoảng thời gian là lại thả mình vào rừng thẳm núi hoang, không phải nói ngoa nhưng mỗi một tấm bản đồ núi của quỷ non, bà đều căn cứ theo mà đi, thậm chí còn đi được sâu hơn, cập nhật và chú giải thêm trên rất nhiều bản đồ núi: theo cách nói của bà, một là không ít bản đồ núi được vẽ cách đây đã hơn nghìn năm, lâu như vậy, hình thế của núi trải qua các thảm họa địa chất, gió nước xói mòn đã bị tổn hại, rất khác so với khi xưa; hai là người thời xưa thiếu kiến thức, sét đánh chớp lòa cũng phải gán lên thân quỷ thần, khó tránh khỏi phóng đại một số hiện tượng, quả thật cũng phải tận tai tận mắt xem xét lại.

Với tinh thần ấy, đương nhiên cũng sẽ không bỏ qua rừng đá treo túi mật.

Bà viết trong nhật ký rằng hành trình rừng đá treo túi mật có hơi nguy nan, nhưng có con đường và sự chỉ điểm của tiền nhân, cũng coi như là thuận lợi, chỉ là bài kệ quá khiên cưỡng xằng bậy, ví dụ như có một thác nước, vì nguyên nhân địa thế, không chảy thẳng xuống mà lại quanh co, vòng đi vòng lại, trong bài kệ bèn gọi nó là “lưỡi đi loạn”, khiến người khác cười muốn rụng răng.

Bởi vậy nên, đến Đoàn Văn Hi cũng từng qua rừng đá treo túi mật, sờ tới túi mật núi trong khoảng cách gần thì Mạnh Thiên Tư còn cao hơn bà một cấp nếu còn không dám vào hoặc không vào được, chẳng phải là quá không logic sao?



Đường Ngọc Như ngắt lời Mạnh Kình Tùng: “Năm đó năm đó, năm đó là khi nào? Me Đoàn vào rừng đá treo túi mật năm một chín ba mấy, cách bây giờ đã sắp chín mươi năm, tôi hỏi anh, chín mươi năm trước có anh không?”

Mạnh Kình Tùng mò không ra ý của bác hai, thành thật trả lời: “Không ạ.”

“Vậy thì đúng rồi, chín mươi năm trước không có anh, chín mươi năm sau có anh, biến hóa này có lớn không hả? Chủ tịch Mao nói, mọi sự vật trên đời đều không ngừng thay đổi phát triển, túi mật núi của chín mươi năm trước và của chín mươi năm sau sao có thể giống nhau chứ?”

Lời này có hơi cả vú lấp miệng em, có điều Mạnh Kình Tùng không dám phản bác bà, chỉ dò xét hỏi: “Vậy…chuyện đã xảy ra rồi, bác xem bây giờ, ngoài những cái đã sắp xếp ra, cháu có cần làm thêm gì nữa không?”

Năm mười tám tuổi, Mạnh Kình Tùng được các cô bác chọn trúng làm “trợ lý” cho Mạnh Thiên Tư mười tuổi, gọi là trợ lý nhưng thực chất vừa làm anh cả vừa hướng dẫn bảo ban, cứ thế rèn luyện mười mấy năm, chuyện lớn chuyện bé từng vào tay xử lý không đến một nghìn thì cũng có tám trăm, tự tin rằng sắp xếp của mình rất chu đáo, Đường Ngọc Như không thể tìm ra lỗi gì.

Quả nhiên, Đường Ngọc Như trầm ngâm một hồi, cảm thấy tạm thời cũng chỉ như vậy. Cao Kinh Hồng đã đánh tiếng trước với bà, nói muốn để Mạnh Thiên Tư rèn luyện một chút, đã có lời thế rồi, bà cũng không tiện hùng hùng hổ hổ thu xếp các cô bác tề tụ Tương Tây cứu người gì đó, nghĩ đi nghĩ lại, cũng chỉ có thể dặn Mạnh Kình Tùng có tiến triển gì phải lập tức thông báo cho mình, lại hỏi y: “Các anh có mang nhật ký vào rừng đá treo túi mật của me Đoàn trước đây không?”

Ánh mắt Mạnh Kình Tùng rơi xuống một quyển sổ bìa da cũ kỹ màu hạt dẻ: “Có ạ.”

“Anh xem nhiều một chút, xem đi xem lại ấy, đôi lúc, có mấy câu nhìn thì lơ đãng nhưng không chừng lại có hàm ý.”

Nói câu này cũng bằng không nói, Mạnh Kình Tùng cung kính đáp: “Vâng.”

Cúp máy, trong lòng Mạnh Kình Tùng nhẹ nhõm hơn hẳn: ngay từ đầu y cũng không mong đợi có thể nhận được kiến nghị hay gì từ Đường Ngọc Như, chỉ là, giống như trong huyện gặp chuyện không may, huyện trưởng phải báo cáo cho thị trưởng, mà thành phố gặp chuyện không may, thị trưởng sẽ phải nhường tỉnh trưởng quyết định vậy – chuyện báo lên rồi, lập tức cảm thấy nhiều thêm một bờ vai mạnh mẽ có thực lực để chia sẻ, đến thở cũng thư thái hơn.

Y thuận tay cầm quyển nhật kí bìa da màu hạt dẻ kia lên, trên trang bìa xong, góc dán màu bạc không chặt, một tấm hình trắng đen tuột xuống.

Mạnh Kình Tùng nhanh tay nhanh mắt bắt lấy, nhặt lên xem.

Đó là ảnh chụp toàn thân của Đoàn Văn Hi, chụp trước đêm sang Anh, trong ảnh bà chỉ chừng hai mươi tuổi, thân mặc âu phục, đầu đội chiếc mũ dạ tinh xảo có sa che, khuôn mặt xinh đẹp, mang một tinh thần phấn chấn có thể truyền cảm được, tựa hồ chẳng những muốn chui ra khỏi phông nền cứng nhắc tối tăm này mà còn muốn phá vỡ thời kì cứng nhắc tối tăm kia.

Mạnh Kình Tùng kẹp trả ảnh chụp về lại góc dán.

Khi về già, Đoàn Văn Hi cũng giống như tuyệt đại đa số những người già khác, thường xuyên bàn tới kiếp trước kiếp này, có hứng thú rất nồng đậm với chuyện sau khi chết con người sẽ đi tới đâu.

Bà nghe người ta nói, Trung Quốc cổ đại có biện pháp “tê chiếu”, châm lửa vào sừng tê giác có thể thông lối tới âm ty, nhìn thấy người thân đã mất, bèn thật sự kiếm một chiếc sừng tê giác thượng hạng, châm lửa giữa đêm khuya, muốn nhìn thấy người yêu năm đó một lần.

Kết quả đương nhiên là không nhìn thấy gì, người bình thường sẽ hiểu là bị lừa, cười xòa bỏ qua, nhưng Đoàn Văn Hi thì không, bà cho rằng, có lẽ người yêu đã đầu thai chuyển kiếp, đi lên chặng đường kế tiếp, bởi vậy nên châm lửa sừng tê giác không thể nhìn thấy, chỉ có châm lửa sừng rồng, hay còn gọi là nến rồng, mới có thể rọi được vào kiếp sau.

Không biết bà nghe được ở đâu, nói Côn Lôn Sơn là “tổ tiên long mạch” của Trung Hoa, trên núi có hài cốt rồng, bèn bất chấp mình đã qua tuổi thất thập, một mình tới Côn Lôn vào thập niên bảy mươi, kết quả gặp phải tuyết lở, không thể trở về được nữa.

Nhìn tấm ảnh đó, Mạnh Kình Tùng thở dài một hơi.

Cụ Đoàn này cũng thật là một đời thông minh một đời hồ đồ, khi còn trẻ thông tuệ thanh tú như vậy, chuyện gì cũng coi trọng luận chứng khoa học, sao đến khi về già lại chui vào ngõ cụt, gần như mê tín vậy chứ?

Trên đời này làm gì có rồng.

***

Mạnh Thiên Tư xuýt xoa, bước đi khập khiễng, đầu cũng nặng trịch từng cơn, tay cô nắm lại thành quyền, vừa đập lên đầu một hai cái thì nghe thấy đằng sau vọng tới tiếng bước chân.

Tốt, Giang Luyện đi theo, cô lập tức đứng thẳng dậy, chân không còn khập khiễng nữa, đầu cũng ngẩng lên cao hơn, biểu cảm kiêu ngạo như giấy dán lên mặt, trong nháy mắt đã bao lại toàn bộ khuôn mặt.

Quay đầu lại, quả nhiên là Giang Luyện.

Mạnh Thiên Tư chờ hắn mở miệng, lúc mới tách ra, tình cảnh rất bế tắc, người mở miệng trước dẫu có nói gì đi chăng nữa cũng đều lộ vẻ chỉ số IQ rất đáng quan ngại.

Giang Luyện cười cười, dáng vẻ không bị làm sao: “Tôi nghĩ, vẫn nên qua đây thì hơn, một mình cô không đối phó được với Bạch Thủy Tiêu.”

Mạnh Thiên Tư gần như phải bội phục hắn, hắn làm như trận xung đột nhỏ kia hoàn toàn chưa xảy ra vậy.

Nếu Giang Luyện mà đi làm diễn viên thì hợp hết chỗ chê, có thể ung dung ứng đối bất kỳ phân cảnh nào: trước vừa nổi giận, sau đã bi lụy, kế đó lại mắt ẩn thâm tình, không cần đệm tiếp, không cần nối liền, lập tức vào trạng thái, nói đến là đến.

Mạnh Thiên Tư nói: “Một mình tôi không đối phó được Bạch Thủy Tiêu?”

Đổi lại là Mạnh Kình Tùng, nghe giọng điệu vậy quá nửa sẽ lập tức ngậm miệng; mà nếu là Tân Từ thì sẽ đứng về phía cô pha trò: Ai bảo? Thiên Tư của chúng ta đã từng sợ ai?

Nhưng người này lại là Giang Luyện.

Hắn gật đầu: “Phải, cô đại khái không đối phó được, cộng thêm tôi cũng chưa chắc đã có phần thắng.”

Nói đoạn, ra hiệu về phía hướng Bạch Thủy Tiêu rời đi: “Vết dao trên người cô ta là tự chém, một cô gái xinh đẹp sẽ quý trọng cơ thể không thua dung mạo là bao, xuống tay dứt khoát như vậy chứng tỏ cô ta không thèm để ý đến chính mình.”

“Người không để ý đến chính mình thì sẽ càng không để ý tới người khác, cô ta làm việc không kiêng dè, không nguyên tắc, cô có làm được vậy không?”

“Không được phải không? Tôi cũng làm không được, cho nên hai chúng ta cộng lại cũng không ngoan tuyệt bằng cô ta, người ngoan tuyệt chưa chắc đã thành công nhưng tỷ lệ thành công nhất định sẽ lớn hơn nhiều.”

Nói xong, hắn chỉ chỉ một cái cây cao chừng ba bốn mét cách đó không xa: “Cây kia đi.”

Mạnh Thiên Tư nghe không hiểu: “Gì cơ?”

Giang Luyện đi thẳng qua đó, ngồi xổm xuống dưới tán cây, đưa lưng về phía cô, vỗ vỗ vai phải mình: “Cô giẫm lên đây đi.”

Mạnh Thiên Tư nhìn hắn, lại nhìn cây: “Làm gì?”

“Tiểu thư, bây giờ cô không đi được đường, động tĩnh lại lớn, cô theo dõi Bạch Thủy Tiêu có phải giỡn hơi lớn quá rồi không?”

“Vẫn là để tôi đi đi, hôm qua tôi theo cô ta cả đêm, trước lạ sau quen, hơn nữa, cô ta không thể đi đường suốt đêm, cô ta vẫn còn bị thương, lại bị cọp ngựa cho ăn đau, nhất định sẽ tìm chỗ nghỉ ngơi.”

“Cô nghỉ ngơi ở đây, nhanh chóng hồi phục, tôi thám thính được rồi sẽ trở về đón cô.”

Mạnh Thiên Tư đứng tại chỗ vài giây, khóe miệng lướt qua ý cười không dễ nhận ra, giọng nói lại vẫn lạnh nhạt như cũ: “Cũng được.”

Cô tiến lên mấy bước, giẫm lên vai Giang Luyện, cây này không cao lắm, Giang Luyện không cần trèo lên, chỉ cần đứng dậy đưa cô lên bằng chiều cao của mình là được.

Mạnh Thiên Từ trèo lên chạc cây, cúi đầu nhìn, Giang Luyện ngửa đầu vẫy tay với cô: “Tôi đi đây.”

Mắt hắn rất sáng, vào ban ngày thì không nhìn được rõ lắm.

Đại khái là bởi ban ngày đâu đâu cũng sáng.

***

Đưa mắt nhìn theo Giang Luyện đi xa, Mạnh Thiên Tư tựa lên chạc cây to khỏe của một cành cây mọc chếch nằm vững, thở dài thậm thượt.

Đương nhiên cô biết với thể lực của hắn hiện giờ không thể theo kịp Bạch Thủy Tiêu, nhưng cơ hội khó kiếm – sở dĩ ra vẻ như thế là vì muốn Giang Luyện đi theo, dù sao cũng không có lựa chọn khác, chỉ có thể dùng hắn.

Quả nhiên hắn theo thật, cũng đi rồi, mọi chuyện đều thuận lợi, điều này khiến cô cảm thấy hơi may mắn.

Cô không cảm thấy mình lợi dụng hắn có gì không ổn, thế giới của người trưởng thành, tất cả giao dịch công bằng đều có ra giá: Giang Luyện vẫn luôn có mưu đồ, mà cái hắn mong muốn, cô vừa may có thể ra.

Bằng không, hắn vứt bạn bè sinh bệnh gặp nạn sang một bên, bận trước bận sau vì cô, chẳng lẽ là bởi thật sự nhiệt tình, hành hiệp trượng nghĩa, hoặc là thích cô, muốn tốt với cô?

Mạnh Thiên Tư khịt mũi khinh bỉ.

Giao dịch là tốt nhất, cô thích giao dịch, buôn bán công bằng, khiến lòng người vững vàng, giống như năm đó me lớn nói với cô: “Bé Tư, sao con lại hồ đồ như vậy, trên đời này chẳng lẽ lại có người không phân biệt nguyên do mà thích con, yêu con, muốn trả giá vì con? Không, tất cả đều có cái giá.”

Tất nhiên là đều có cái giá.

Mạnh Thiên Tư nhắm mắt, ngủ một giấc ngắn, đang mơ màng thì bị âm thanh đánh thức, mở mắt ra nhìn, là Giang Luyện đã trở về.

Hắn ngồi lên chỗ thân cây đâm nhánh, nhỏ giọng nói: “Bạch Thủy Tiêu cũng lên cây ngủ, ở ngay phía trước, trong khoảng thời gian ngắn sẽ không rời đi, nghỉ ngơi trước đã, lúc trời chưa sáng tôi sẽ qua xem một lần nữa.”

Nói xong, gối tay phải ra sau gáy, dựa người ra sau, ban đầu hơi thở có hơi hổn hển, chắc là vì chạy tới chạy lui quá mệt mỏi, dần dần bình phục lại, trong bóng đêm chỉ có thể nhìn thấy từ yết hầu đến lồng ngực hắn phập phồng rất khẽ.

Mạnh Thiên Tư vừa ngủ được một chốc nên rất có tinh thần, cô dùng tay chống má, hỏi hắn: “Cụ ngoại của Huống Mỹ Doanh có liên quan gì tới bệnh của cô ấy?”

Hô hấp của Giang Luyện khựng lại, im lặng một lúc, chậm rãi mở mắt ra, đáy mắt như phản chiếu cả bầu trời rộng lớn.

Đêm nay trời đẹp, vòm trời gần như nhuỗm đẫm màu lam sẫm, có lẽ là vì ở thâm sơn nên rất nhiều sao, hệt như những đốm ngọc nhỏ vụn gắn trên nền trời, lại cũng giống vô vàn những tâm sự không đoán được, những bí mật u tối bất minh.

Hắn nói: “Bệnh di truyền, mỗi người con gái nhà họ Huống đều bị bệnh này.”
 
Quyển 3 - Chương 8


Cụ nuôi Huống Đồng Thắng, hoặc có lẽ bây giờ, nên gọi ông là Hoàng Đồng Thắng.

Trước giờ, ông chưa từng nói rõ ràng với Giang Luyện rằng mình là một thợ cản thi, nhưng ông từng kể rất nhiều chuyện về cản thi, lời trong lời ngoài đều là ý đó, ông còn biết thủ pháp của những trường phái khác nhau, chẳng hạn như có môn phái lễ độ cung kính với thi thể, tôn là “hỉ thần”; có môn phái thì lại cục cằn thô bỉ, lúc cản thi quát một tiếng “Súc sinh, đi”, coi người chết như súc vật mà xua chạy.

Chuyện muốn kể phải ngược dòng về gần tám mươi năm trước.

Trong lịch sử kháng chiến của Trung Quốc, Hồ Nam là một nơi rất thần kỳ: Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Bắc, giặc tiến quân thần tốc, rất có xu thế chiếm lấy toàn bộ Trung Quốc, năm 1939, móng vuốt vươn tới Hồ Nam, vậy nhưng cho đến năm 1945 đầu hàng, người Nhật ở đây cứ đánh lại lui, lui lại đánh như kéo cưa, như rơi vào đầm lầy, không rút ra được, cũng không vào tiếp được.

Chiến tranh rất tàn khốc, Tương Tây có núi lớn ngăn trở nên tạm thời chưa bị lửa lan đến, trong khi đó, thành thị Tương Đông thì đã chịu đủ chà đạp, đến cả một tỉnh lị như Trường Sa cũng gần như bị một cây đuốc đốt thành đất hoang.

Trận đó, rất nhiều người mang cả nhà đi chạy nạn, hi vọng có thể chuyển vào hậu phương lớn Trùng Khánh – bởi trên quốc lộ cứ vài ba ngày lại có máy bay giặc đến oanh tạc, vô cùng nguy hiểm nên đường núi nổi danh là ổ thổ phỉ của Tương Tây lại thành lựa chọn hàng đầu.

Nhà họ Huống là một trong số những nhà chạy nạn như thế, một nhóm gái trai già trẻ gần hai mươi người, mang theo gia sản, lập thành đội thồ, cùng người dẫn đường và hộ tống băng qua Tuyết Phong Sơn, tiến vào Đại Vũ Lăng hung hiểm khó lường.

Hoàng Đồng Thắng có nghe nói một chút về thế cục bên ngoài nhưng không để trong lòng, ông chưa từng gặp giặc Nhật, chỉ nghĩ là chắc cũng không khác quân tóc dài Thái Bình Thiên Quốc (*) là bao – cướp tóc dài tới, người lớn tuổi sẽ vào núi tránh tóc dài, giặc Nhật tới, cùng lắm thì cũng vào núi né một phen.

(*) Thái Bình Thiên Quốc là một nhà nước tôn giáo và thần quyền Thiên chúa giáo được hình thành từ cuộc nổi dậy của nông dân do Hồng Tú Toàn cầm đầu vào giữa thế kỷ XIX, sự phát triển và suy vong của tổ chức này gắn liền với cuộc đấu tranh của người Hán chống lại sự cai trị của nhà Thanh và sự xâm lăng của các thế lực phương Tây, bị giai cấp thống trị nhà Thanh khinh miệt gọi là quân tóc dài (vì thời Thanh theo tục người Mãn Châu, cạo trọc nửa đầu).

Ông vẫn trước sau như một mà rung chuông chiêu hồn, đầu đội trời trăng sao, chân đạp đường đá xanh, đưa dẫn hỉ thần trong vùng núi Ngọ Lăng, đi nhiều rồi cũng đánh bạn được với vài người – ví dụ như lão Mã ở trại Bát Kháng, nhà họ Mã chuyên làm mặt nạ rước thần, lão đại Mã Cổ Vẹo trong nhà thích nhất là tìm Hoàng Đồng Thắng uống rượu tán dóc, đem hết những chuyện vụn vặt anh em ruột chị em dâu ba tầng trong ba tầng ngoài nhà mình ra làm đồ nhắm.

Lần đó cũng rất tình cờ, Hoàng Đồng Thắng và người nhà họ Huống cùng vào một quán trọ.

Bình thường, thợ cản thi hay ở quán trọ người chết, loại quán trọ này được mở rất nhiều ở Tương Tây, địa chỉ đều ở nơi hoang vu, ngưỡng cửa cao, cổng sơn đen, ban đêm không đóng cửa để tiện cho thợ cản thi ra vào, trong quán thường không có người, gần như tự phục vụ – lúc thợ cản thi rời đi chỉ cần đặt tiền thuê trong phòng là được.

Nhưng chỉ cần chủ quán không kiêng kỵ thì thỉnh thoảng cũng có thể ở trong quán trọ lớn, bởi thợ cản thi ở trọ thường ra tay tương đối hào phóng, hơn nữa người Tương Tây quan niệm rằng “hỉ thần” từng trọ lại quán nào sẽ mang lại vận may cho quán ấy, đó gọi là “hỉ thần đả tiệm”, thế nên trong quán trọ thường chừa ra một hai gian phòng khuất nẻo không có cửa sổ, chuyên cung cấp cho những vị khách đặc biệt.

Hôm đó, Hoàng Đồng Thắng dẫn hỉ thần, tờ mờ sáng vào trọ, ngả đầu đi ngủ, đang ngủ say thì nghe thấy có người đùng đùng gõ cửa.

Hoàng Đồng Thắng toát mồ hôi lạnh, còn tưởng là xảy ra chuyện gì, đến khi mở cửa, trước mặt lại không ai.

Cúi đầu xuống thì trông thấy một cô bé hai, ba tuổi đầu đội mũ hổ trắng, đang nằm nhoài trên ngưỡng cửa chảy nước dãi cười khanh khách với ông, lăn bò dính cả một thân bụi bặm mà còn cười vui vẻ vậy, tựa như cảm thấy hưng phấn vì chòng ghẹo ông.

Cách ăn mặc này nhìn không giống dân bản xứ, Hoàng Đồng Thắng biết là con trẻ của khách trọ, cô bé thấy cửa mở, hăm hở muốn bò vào trong phòng, hay lắm, bên trong toàn là những thi thể đứng quay mặt vào tưởng, để cô bé trông thấy thì rất không ổn, Hoàng Đồng Thắng hết hồn, lật đật đóng cửa lại, bế cô bé ra ngoài tìm người nhà, may là vừa đi qua góc hành lang thì chạm mặt mẹ cô bé.

Đó là một người phụ nữ trẻ tuổi, chỉ tầm đôi mươi, mặc xường xám và áo quái tử dài tay, dung mạo vô cùng xinh xắn dịu dàng. Hoàng Đồng Thắng biết mình xấu, sợ dọa sợ nàng, không dám ngẩng đầu lên, lúc hạ mắt xuống, trông thấy giữa tà áo xẻ là bắp chân đi tất lụa trong, luống cuống đỏ rực từ cổ đến tận mang tai, nói cũng run giọng.

Người phụ nữ kia lại rất ôn hòa khách khí, vẫn cảm ơn ông, mỗi chữ phát âm ra đều dịu dàng êm ái, giọng điệu cực kỳ dễ nghe, khiến ông cảm thấy giọng địa phương miền núi của mình thật quá tục tằng.

Lúc tạm biết, ông nửa cúi đầu, vẫn lúng ta lúng túng không nói được một câu trọn vẹn, mãi đến khi người phụ nữ ấy đi xa rồi mới dám ngẩng đầu lên nhìn: Cô bé ôm cổ mẹ, vẫn đang vẫy vẫy bàn tay nhỏ tạm biệt ông, ánh mắt ông lại chỉ nhìn chằm chằm vào vòng eo mềm mại và bắp châm lộ ra dưới tà xường xám của người phụ nữ.

Thật đúng là tiên nữ, những cô gái trong trại núi, ca hát tuy hay, thêu hoa tuy khéo nhưng cũng chẳng bằng cô, huống hồ, những cô gái đó vẫn hay cười nhạo ông xấu xí, nhìn ông bằng nửa con mắt, nhưng người phụ nữ này thì lại dịu dàng như thế, còn bảo con gọi ông là “chú” nữa.

Hoàng Đồng Thắng ôm trái tim đập loạn về phòng, trong lòng nóng hổi, buổi chiều ông cũng chẳng ngủ yên giấc được, cứ trằn trọc nghĩ về người phụ nữ đó mãi.

Nếu là mấy năm trước thì ông đã chẳng dám nghĩ về phụ nữ, bởi sư phụ nói, thân đồng tử có ba cây đuốc nên mới có thể cản thi, nhưng thân thể đàn bà lại rất độc, có thể phá hỏng ngọn lửa thuần dương này, bắt ông phải tránh xa phụ nữ, nghĩ cũng không được nghĩ.

Nhưng theo số tuổi tăng dần, có một số việc dần cào ngứa lòng, hai năm nay, ông càng lúc càng nghĩ nhiều đến chuyện lên bờ kiếm vợ, ông tính toán số tiền mình dành dụm được: Đời này có thể lấy được người phụ nữ như vậy không?

Sờ sờ mặt mình, ông cảm thấy hẳn là không lấy được, ông không xứng.

Trừ phi, ông nghĩ, trừ phi người phụ nữ đó gặp phải tai nạn, tỷ như bị què chân, bị mù mắt, hoặc là hủy dung, lúc này mới tới lượt ông, mà ông tất nhiên sẽ không ghét bỏ nàng, sẽ coi nàng như bảo bối, nâng lên thật cao mà tôn thờ, mình nhai trấu nhường nàng ăn thịt, mình dù có cởi truồng cũng phải cho nàng được mặc thứ xiêm y may bằng loại vải thượng hạng nhất.

Nếu nàng gặp tai nạn thì thật tốt, cũng chỉ như vậy ông mới có thể xứng đôi, Hoàng Đồng Thắng nghĩ đến chỗ kỳ quái, bất chợt tỉnh táo lại, vả cho mình mấy cái bạt tai thật đau: Thật là vô liêm sỉ, sao có thể mong ngóng người ta gặp tai nạn như thế, đáng chết!

Cứ giày vò như vậy cho đến khi đêm xuống.

Đối với thợ cản thi, đây là giờ bắt đầu làm việc, ông thanh toán tiền trọ, phất lá cờ màu vàng ngả đỏ, dẫn mấy hỉ thần, lại lắc lư lên đường.

Đi được nửa đường thì trời đổ mưa, Hoàng Đồng Thắng quen đường, dẫn hỉ thần vào một cái động trú mưa, mình thì tựa vào cửa động, vung vẩy cây đuốc, chán chường đợi mưa tạnh.

Đang quan sát chung quanh, bỗng liếc ra xa, thấy trên một cây sam lớn ở đầu dốc chếch phía đối diện dường như đang treo một người.

Hoàng Đồng Thắng giật bắn mình, cũng không phải là sợ người chết, đã làm nghề này rồi thì gan cũng rất lớn, mà là ông nhớ, trên cái cây đó đích xác có treo một người đàn ông tóc đuôi sam quấn vòng, đi giày rơm, nhưng tháng trước, mình vừa mới chôn cất cho y.

Không sai, người đó treo trên tán cây đã được một, hai tháng rồi, Hoàng Đồng Thắng đi qua đi lại mấy lần đều thấy, đã nhìn đến quen mặt rồi – người nghèo thương người nghèo, ông nổi lòng trắc ẩn, có lần hứa với người đó rằng, nếu lần này đi chân có thể kiếm được hai mươi đồng bạc trắng thì khi trở về sẽ mua áo liệm chôn cất cho y.

Kết quả, lần đó khách hàng hào phóng thật, cho hẳn ba mươi đồng, Hoàng Đồng Thắng cảm thấy làm người phải biết giữ lời, lúc đi chân chuyến tiếp, thật sự mang theo áo liệm thay cho người đó, đào một cái hố gần đó chôn cất.

Lúc này mới qua một tháng, sao lại có người chết ở đó rồi? Lạ thật, nơi hoang vu như vậy, sao những người này lại tìm tới đây?

Hoàng Đồng Thắng lấy làm kỳ quái, dù sao nhất thời nửa khắc chẳng lên đường ngay được, bèn qua đó xem rõ ngọn ngành.

Ông trèo lên đầu dốc, nương ánh lửa chập chờn, nhìn thấy rõ mặt người kia, trong sát na, lông tóc toàn thân dựng hết cả lên.

Đây không…không phải là người ông đã chôn sao? Tại sao lại treo lên rồi? Chẳng lẽ bò từ trong mộ ra? Nhưng dù có bò ra thì cũng phải mặc áo liệm chứ, cái áo trong rách nát mặc trên thân này không phải đã bị ông đốt trước mộ rồi à?

Hoàng Đồng Thắng nuốt nước bọt, nơm nớp vươn tay tóm lấy thân mình người đó, muốn kéo qua xem chính diện cho rõ, vậy nhưng tay lại tóm phải không khí.

Ông ngớ ra hồi lâu, chợt hiểu ra: Trời đất! Đây chính là bức họa đốt đèn mà sư phụ từng nhắc tới, ông thật đúng là được mở mang tầm mắt!

Hoàng Đồng Thắng hưng phấn vô cùng, nhìn trái nhìn phải thi thể giả kia, tặc lưỡi cảm thán: Trông y như thật vậy, còn thật hơn cả thật, nếu không vươn tay chạm vào thì ai mà biết là giả được chứ?

Đang hứng khởi xem thì cách đó không xa phía sau chợt vọng tới tiếng người la hét kinh hãi và tiếng ngựa thồ đạp vó, theo hướng nhìn lại, ánh lửa càng lúc càng gần, còn kèm theo tiếng quát tháo hung bạo và tiếng huýt sáo, Hoàng Đồng Thắng thường xuyên đi đêm nên lập tức hiểu ra: Là thổ phỉ cướp đường!

***

Thợ cản thi đúng là có một thân bản lĩnh huyễn hoặc, nhưng bản lĩnh đó là để ứng đối với người chết, giống như lý luận của tú tài vậy, gặp phải đao thương gậy gộc đều chẳng có tác dụng gì.

Chuyện xảy ra quá tức thì, chạy không kịp nữa rồi, để người ta trông thấy chắc chắn sẽ thành mục tiêu, Hoàng Đồng Thắng cái khó lo cái khôn, chui vào bụi cây rậm rạp dưới dốc nằm sấp xuống, chỉ mong đội thồ bị cướp có thể chạy nhanh hơn chút, dẫn thổ phỉ rời khỏi khu vực này.

Vậy nhưng chẳng được như mong muốn, tiếng kêu thảm và chém giết, còn cả tiếng xe lật ngựa hí nữa, đều như bày trận ngay trên đầu ông, ánh đuốc lắc lư rọi xuống ven dốc, chiếu vào khuôn mặt lấm lem mồ hôi và nước bùn của Hoàng Đồng Thắng.

Ông nương nhờ sự che chắn của bụi cây này, run lập cập ngẩng lên nhìn.

Người của đội thồ này vẫn rất kiên cường, cũng có thể là sống chết đến trước mặt rồi, không liều mạng không được. Mấy người đàn ông đều cầm gậy gộc lên đánh nhau với thổ phỉ, đến đàn bà con gái cũng xông lên cào cắn hỗ trợ, nhưng chênh lệch lực lượng quá lớn, dần dần rơi vào bại thế, trong hỗn loạn, Hoàng Đồng Thắng chợt nhìn thấy có một người phụ nữ ôm con đang chạy về phía này.

Hoàng Đồng Thắng thầm than hỏng rồi, rất sợ người phụ nữ ấy dẫn thổ phỉ qua, làm liên lụy đến mình bị bại lộ, đến khi thấy rõ khuôn mặt người phụ nữ kia thì giật mình suýt kêu thành tiếng.

Vậy mà lại là người phụ nữ gặp được trong quán trọ ban ngày, mà đứa trẻ nàng ôm trong lòng thì chính là cô bé đa gõ cửa ông.

Hoàng Đồng Thắng không rõ vì sao người nhà này phải lên đường trong đêm thế này, về sau hỏi thăm khắp nơi mới biết hẳn là bị người khác làm “bánh nướng kẹp”: người dẫn đường bị thổ phỉ mua chuộc, làm nội ứng, dẫn họ đi đường vòng, đi sai đường, bỏ lỡ quán trọ, vào đúng nơi hoang vu vắng vẻ “mở lò mổ”.

Lúc đó, Hoàng Đồng Thắng nhận ra nàng, trong lòng vô cùng trông mong nàng có thể trốn thoát, nhưng, một tên thổ phỉ cầm đao lập tức phát hiện ra người phụ nữ lén chạy đi này, thét lớn một tiếng xông tới.

Người phụ nữ đó nghe thấy tiếng thét, vừa hãi vừa sợ, chân nhũn ra, vấp chân ngã nhào, cũng không biết có phải là may mắn hay không mà sau khi ngã xuống, ngẩng đầu lên, trông thấy mặt Hoàng Đồng Thắng ẩn trong bụi cây.

Hoàng Đồng Thắng vẫn luôn muốn biết lúc đó trên mặt mình rốt cuộc là biểu cảm gì, hẳn quá nửa là kinh hãi, cự tuyệt, không thể cho nàng hi vọng, ngược lại khiến nàng cảm thấy tuyệt vọng – bởi người phụ nữ ấy nở nụ cười thê lương, nói với ông: “Anh đừng sợ.”

Nói xong, nàng nhanh chóng đẩy con tới, sau đó quả quyết xoay người lại, nhào về phía tên thổ phỉ kia, vật lộn với hắn trong tư thế một lòng muốn chết.

Trong đầu Hoàng Đồng Thắng ong ong, ông ôm đứa bé, lùi từng chút xuống dốc núi, trên đầu tung bay đủ loại âm thanh, quá tạp nham quá hỗn loạn, ông không phân biệt ra nổi rốt cuộc người phụ nữ ấy có còn hay không.

Nước mưa chảy vào cổ ông, ông cúi đầu nhìn bé gái trong lòng, cô bé mấp máy cái miệng nhỏ như muốn khóc, song không bật ra tiếng nào, tựa hồ chưa trải sự đời đã hiểu chuyện, trên cổ đeo một sợi dây chuyền mảnh bằng bạc lóe lên ánh sáng nhàn nhạt.

Hoàng Đồng Thắng kéo sợi dây chuyền ra xem, thì ra trên sợi dây treo một chiếc khóa trường mệnh, bên trên khắc ngày sinh tháng đẻ và tên cô bé.

Huống Vân Ương.

Sau nữa, âm thanh đầu bên kia dần tản đi, tiếng người tắt lịm, ngựa thồ bị kéo đi, bọn thổ phỉ tụ tập cách đó không xa, lần lượt mở rương ra kiểm tra chiến lợi phẩm, thỉnh thoảng reo lên tiếng trầm trồ hưng phấn, đầu này chỉ còn lại tiếng lách tách của khung xe bị ngọn lửa tàn thiêu đốt.

Mưa cũng nhỏ đi, từng tia từng tia chẳng nhỏ được vào ngọn lửa, xèo một tiếng hóa thành làn khói nhẹ.

Hoàng Đồng Thắng làm chuyện dũng cảm nhất đêm đó: Ông ôm Tiểu Vân Ương len lén leo lên dốc núi.

Ông trông thấy thi thể ngổn ngang dưới đất, có thể đoán được rằng chẳng bao lâu sau, dã thú sẽ theo mùi máu tươi tìm tới, tha họ đi. Ông tìm được người phụ nữ kia, nàng nằm sấp mặt trên đất bùn, cổ nứt ra một vết thương nhìn mà kinh hãi, chiếc áo quái tử màu trắng đã bị máu nhuộm thành màu đỏ sẫm.

Nàng chắc chắn phải chết, Hoàng Đồng Thắng rét căm căm, người run lên lẩy bẩy, mà Tiểu Vân Ương trong lòng thì òa một tiếng bật khóc.

Hoàng Đồng Thắng sợ bị thổ phỉ nghe thấy, vội che miệng Vân Ương lại, nhưng không ngờ tiếng khóc lại kinh động tới người phụ nữ kia.

Nàng vẫn chưa chết, dùng hết sức lực cuối cùng ngửa mặt lên, đôi môi dính đầy bùn cát và máu chậm rãi mấp máy như muốn nói gì.

Hoàng Đồng Thắng vội quỳ xuống, ghé lại nghe.

Nàng như đang nói: “Rương, tòa.”

Tiếng nói này như mấy sợi tơ nhẹ bẫng, nói một lần, đứt thành hai ba đoạn, nói lại lần nữa, lại đứt thành hai, ba đoạn, sau cùng đứt hết, không còn âm thanh nào nữa.

***

Hoàng Đồng Thắng nhận nuôi Huống Vân Ương, những gì xảy ra sau đó không khác suy đoán trước đó của Mạnh Thiên Tư là bao: Lúc một lần nữa nhận việc, ông đụng phải giặc Nhật ở gần Trường Sa, lúc này mới biết giặc Nhật hung ác tàn bạo gấp bội giặc tóc dài.

Sau khi trúng đạn bị thương, ông mượn cơ hội này lên bờ, đổi tên thành Huống Đồng Thắng.

Ông không quên lời người phụ nữ kia nói lúc sắp chết, phỏng đoán có phải nhà họ Huống chôn cái rương gì quan trọng ở tòa nhà cũ không, cũng may nhà họ Huống chạy nạn một đường, người đông thanh thế lớn, cũng không khó men theo dọc đường hỏi thăm ra – nhà họ Huống ở tại Lâu Để, là cố hương của Xi Vưu trong truyền thuyết.

Nhưng lúc họ chạy nạn đã bán nhà cho một hộ lớn cùng quê xây lại thành nhà kiểu Tây, xem ra hẳn sẽ không trở lại trong khoảng thời gian ngắn, vậy vì sao lại chôn một chiếc rương quan trọng như thế dưới nhà?

Hơn nữa, người đã chết hết rồi, để lại cái rương, bất kể là đựng vàng hay đựng bạc thì cũng có ý nghĩa gì đâu chứ?

Huống Đồng Thắng thở dài một tiếng, không xoắn xuýt chuyện rương nhà gì nữa, dẫn Tiểu Vân Ương rời khỏi Tương Tây, ra ngoài mưu sinh, lăn lộn một đường, cuối cùng xuống tới Nam Dương (*).

(*) Nam Dương là cách gọi của người Trung dành cho những vùng địa lý ở phía Nam Trung Quốc, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.

Chắc là số ông may, ở nơi đất khách quê người, bắt đầu từ bán đồ da, tiếp đó làm giày, làm bán lẻ, vậy mà cũng tính góp được gia sản bạc triệu, được người Hoa địa phương coi là vua bán lẻ đất ấy.

Nhưng Huống Đồng Thắng sống cũng chẳng lấy gì làm sung sướng, băng đạn đó của giặc Nhật đã làm tổn thương gốc con cháu của ông, cả đời này chẳng thể nào được hưởng nam nữ hoan ái, cũng đã không thể nối dõi tông đường.

Không thể thì thôi, ông chấp nhận, cảm thấy đời này, mạng sống và tình yêu đời này đã dâng hiến cho hai người con gái rồi.

Một người là người mẹ chết dưới đao thổ phỉ của Huống Vân Ương, một người phụ nữ mà đến cả tên ông cũng chẳng biết, có đôi lúc, ông lại khiên cưỡng mà cảm thấy là mình hại nàng: Chiều hôm đó, ông cứ nghĩ mãi mong nàng “gặp tai nạn” để mình có thể xứng đôi với nàng đó thôi, sau đó, nàng gặp chuyện thật, có phải là vì bị mình khắc hay không?

Người phụ nữ đó chỉ nói với ông lác đác vài câu, câu “Anh đừng sợ” và bóng hình gầy nhỏ, chạy về phía thổ phỉ liều mạng kia đã đủ để ông nhớ mãi một đời, cũng đủ để ông quang minh chính đại tìm nơi an nghỉ cho lòng mến mộ của mình.

Người còn lại chính là Huống Vân Ương, dung mạo cô rất giống mẹ mình, có đôi lúc, Huống Đồng Thắng nhìn cô mà không phân biệt nổi người đứng trước mặt là Huống Vân Ương hay là người phụ nữ mặc áo quái tử trắng đi tất lụa trong nữa. Ông nhìn cô lớn lên, ông gánh hết khổ sở, không muốn để cô chịu một chút khó khăn nào. Hai người vừa xứng làm một cặp cha và con gái nhưng bản thân ông biết rằng, tình cảm của mình dành cho Vân Ương rất phức tạp, khó mà nói rõ được.

Nhưng như vậy cũng có thể làm gì được đâu, ông là gã nhà quê Tương Tây, cổ hủ và truyền thống, có một vài ý nghĩ trong đầu, dù mới chỉ manh nha nhưng ông cũng cảm thấy dơ bẩn xấu xa, nên đày xuống mười tám tầng địa ngục, nung đốt trong chảo nồi.

Coi như con gái là được rồi, ông rất vui vẻ chấp nhận người yêu của cô, nở mày nở mặt tiễn cô đi lấy chồng.

Khi ấy, ông đã định cư ở Nam Dương được hai mươi năm, trăng gió Tương Tây, trời trăng sao cản thi, bức họa đốt đèn đêm tàn sát và tiếng huýt sáo của thổ phỉ đều cách ông quá xa.

Tâm nguyện duy nhất của ông là Huống Vân Ương được sống trọn đời bình an hạnh phúc.

***

Năm Hướng Vân Ương ba mươi hai tuổi, đột nhiên mắc phải bệnh lạ.

Da cô tự nứt ra, từ móng tay rách toạc một vết dài, máu ở mép vết thương không ngừng bắn tung như miệng núi lửa mãi mãi không ngừng sôi trào nham thạch nóng chảy, bọc bao nhiêu băng gạc lên cũng đều có thể nhìn thấy máu dưới băng gạc không ngừng đâm húc.

Huống Đồng Thắng mời hết các loại danh y tới, đều nói mình bó tay.

Không lâu sau khi cô bị bệnh, người chồng đã tuyên thệ trong hôn lễ rằng bất kể khỏe mạnh hay bệnh tất cũng sẽ không rời không bỏ của cô lập tức đến mặt cô cũng không muốn thấy, luôn miệng nói mình cũng không còn cách nào khác, cô như vậy thật đáng sợ, hắn gặp rồi sẽ gặp phải ác mộng.

Huông Vân Ương không chịu được nỗi đau khổ và sự đả kích kèm theo này, nhảy lầu tự sát, trước khi chết để lại di thư, nhờ Huống Đồng Thắng chăm sóc cho con gái mình Phượng Cảnh.

Huồng Đồng Thắng tan nát cõi lòng, lệ tuôn ròng ròng, nhưng mạng già vẫn phải giữ lại cho đứa con gái đời thứ ba của nhà họ Huống.

Ông cảm thấy họ của tên đàn ông không thể tha thứ kia không xứng với Phượng Cảnh, bèn cho cháu gái quay lại họ Huống, Huống Phượng Cảnh.

Khi đó, ông còn tưởng rằng, bệnh của Huống Vân Ương chỉ là ngoài ý muốn, là căn bệnh hiếm thấy có xác suất cực nhỏ, là kiếp nạn của đời người.

***

Lại qua mấy lượt đông hạ, mấy vòng xuân thu, lúc Huống Phượng Cảnh kết hôn, Huống Đồng Thắng đã gần tám mươi, thời gian xóa nhòa ký ức bi thảm, ông thường cười mình rằng có lẽ kiếp trước thiếu nợ con gái nhà họ Huống rất nhiều tiền nên đời này bị phạt, vĩnh viễn phục vụ cho họ, hết đời này sang đời khác.

Cũng may đã sắp sống hết rồi, đừng hòng sai khiến ông phục vụ tiếp nữa, dù ông có muốn, Diêm vương cũng chẳng cho.

Nói đùa vậy mà lại thành lời sấm.

Huống Phượng Cảnh hai mươi chín tuổi phát bệnh, cũng là đột phát, bệnh trạng y hệt Huống Vân Ương, thậm chí còn kinh khủng hơn: Da đầu cô rụng xuống theo tóc, những vết thương nứt rách bò lên mặt, vượt qua mí mắt, trèo lên đầu.

Chồng cô chịu đựng hai tháng, cuối cùng suy sụp, chuồn mất, Huống Đồng Thắng tức giận mắng: “Đàn ông đều đ** phải thứ tốt lành gì hết”, hồn nhiên quên mất lời này đã mắng cả mình vào.

Ông sợ Phượng Cảnh cũng học Vân Ương tự sát, ngậm nước mắt hạ quyết tâm bảo người khóa chân tay cô vào giường bệnh. Tiểu Mỹ Doanh khi đó mới bốn năm tuổi đã lâu không tìm được mẹ, nhớ muốn chết, canh sơ hở lén chạy vào căn nhà nhỏ đã bị liệt thành khu vực cấm của gia đình, trông thấy một con quái vật giãy giụa lăn lộn trên giường, da dẻ cả người nứt rách ứa máu, xương hàm lộ hết cả ra.

Huống Mỹ Doanh sợ đến ngất xỉu tại chỗ, từ đó thành bệnh căn của chứng “Chịu không nổi kinh hãi”.

Phượng Cảnh không tự sát, nhưng cuối cùng chết vì bệnh lạ giày vò, cô dường như hiểu ra cái gì, câu trăng trối cuối cùng trước khi chết là xin Huống Đồng Thắng “mau cứu Mỹ Doanh”.



Nhân viên thu xác khiêng thi thể của Phượng Cảnh đi, y tá chăm sóc cho Mỹ Doanh như chim sợ cành cong, Huống Đồng Thắng ngồi dưới đất, dựa vào chân giường bệnh loang lổ vết máu, im lặng lau nước mắt, rồi lại lau nước mắt.

Sau đó, ông ngủ thiếp đi trong dòng lệ già nua.

Trong mơ, ông trở lại cái đêm thổ phỉ hành hung chém giết, trông thấy người phụ nữ đã bị chém gần đứt nửa cổ nhưng vẫn liều mạng bò về phía chỗ ông ẩn náu kia.

Miệng nàng không ngừng thì thào, vẫn là lặp đi lặp lại hai chữ “Rương, tòa” như cũ.

Hôm ấy, cách cái đêm nọ đã gần nửa thế kỷ, rốt cuộc Huống Đồng Thắng cũng nghe hiểu được câu nói kia.

Chữ nàng nói không phải là tòa, mà là toa.

Toa thuốc.
 
Quyển 3 - Chương 9


Đêm khuya là thời điểm thích hợp nhất để nghe kể chuyện, mà Giang Luyện lại vừa hay là một tay kể chuyện tài tình.

Câu chuyện này có liên quan tới hắn, hắn không cần phải gắng sức điều động cảm xúc mà tự nhiên đã có sẵn cảm xúc để trút, biết nhẹ giọng ở đâu, ngắt nghỉ ở đâu, giọng hắn vốn sáng sủa, nhưng lúc kể lại nhiều lần trầm thấp, gần như dày nặng.

Ban đầu Mạnh Thiên Tư chỉ thuận miệng hỏi, dần dần lại bị hắn dẫn dắt vào, cảm giác đó hơi giống một sợi âm thanh buồn bã lên xuống trong bóng đêm nồng đậm.

Cô hỏi: “Cho nên, là toa thuốc chữa được bệnh đó?”

Giang Luyện gật đầu: “Giờ nghĩ lại, người phụ nữ ấy cho đến chết vẫn cố bò về phía cụ nuôi tôi náu mình, câu cuối cùng dùng hết sức lực nói ra đó không thể chỉ là bàn giao vàng bạc tài vật gì đó.”

Nàng muốn nói cho ông biết một bí mật mà chỉ người nhà họ Huống mới biết, có liên quan tới sống chết của con gái, đáng tiếc khi đó chỉ có rời rạc vài chữ, Huống Đồng Thắng thực sự không lĩnh hội được.

Mãi đến khi hai đời con gái nhà họ Huống chết trước mặt ông theo cùng một phương thức thê thảm tột độ, ông mới nhìn ra được chút đầu mối từ điểm giống nhau này: Con gái của gia tộc này, hoặc có lẽ người của gia tộc này, dường như sinh ra đã mang trong mình một thứ bệnh nan y, bệnh này sẽ đột ngột phát tác vào một ngày nào đó sau khi trưởng thành, nhưng không sao, họ có toa thuốc.

***

Huống Đồng Thắng ra sức hồi tưởng, nhưng từ đó đến nay đã quá lâu, ông cũng đã quá già, rất nhiều chuyện không nhớ rõ nổi nữa; thứ hai là đêm đó, ông hoảng hốt tột độ, ngoài cảnh tượng xảy ra với người phụ nữ kia thì gần như không còn ấn tượng gì nữa.

Ông chỉ nhớ rằng, đội thồ của nhà họ Huống thanh thế rất lớn, gái trai già trẻ chừng hơn hai mươi nhân khẩu, mang cả nhà đi chạy nạn, gia sản quả thực rất nhiều, từng rương từng rương chất đống trên lưng ngựa thồ, toàn là rương gỗ lớn, tuyệt đối phải đến ba, bốn mươi cái.

Thế nên, rốt cuộc là cái rương nào cất chứa toa thuốc đây? Cái rương đó rốt cuộc đã chạy đi đâu?

Vắt hết óc suy nghĩ, cuối cùng Huống Đồng Thắng tìm được một điểm để bắt đầu: bức họa đốt đèn.

***

Mạnh Thiên Tư nghe hiểu: “Huống Đồng Thắng muốn thông qua thận cảnh, tái hiện cảnh tượng đêm đó, đi tìm manh mối từ cảnh tượng ấy?

Giang Luyện không tiếp lời, hắn nghe ra sự không đồng tình trong giọng cô: Ban đầu lúc nghe cụ nuôi nói tới ý tưởng này, phản ứng của hắn cũng không khác cô là bao, thậm chí còn kịch liệt hơn.

Mạnh Thiên Tư cảm thấy nực cười: “Dù có cho ông ấy xem lại cảnh tượng đêm ấy một lần nữa thì có thể có ích gì chứ?”

Thổ phỉ cướp đường, giết người, đoạt tài vật xong tất nhiên là sẽ chạy thẳng, anh có xem lại cảnh tượng này bao nhiêu lần cũng chẳng thể nhìn ra được toa thuốc.

Giang Luyện thoáng trầm mặc: “Sau khi người phụ nữ kia chết, cụ nuôi tôi vội vàng chạy trốn, không dám nán lại lâu, sợ bị thổ phỉ phát hiện ra, cũng không dám nhặt xác cho bà ấy, sau này khi quay lại thì đã chẳng còn lại vết tích gì nữa, có thể thổ phỉ sợ để nguyên bãi hỗn độn lại đó, truyền ra ngoài sẽ không ai dám đi đường này nữa, đứt mất đường tiền tài nên đã xuống tay dọn dẹp. Cụ nuôi tôi dù không rõ sau đó đã xảy ra chuyện gì nhưng cụ nói, sau khi đắc thủ, thổ phỉ đã mở rương kiểm tra ngay tại chỗ…”

Mạnh Thiên Tư cảm thấy hoang đường: “Thì sao? Lẽ nào lúc họ mở rương sẽ lấy một toa thuốc ra xem?”

Một toa thuốc chẳng chiếm bao nhiêu không gian, quá nửa là đặt ở đáy rương hoặc nhét trong góc, quý báu hơn dùng tráp ngọc tráp vàng để đựng, nhưng thổ phỉ kiểm tra đều chỉ lục xem qua loa, chiếc rương đựng toa thuốc hoặc là bị vứt bỏ nửa đường, hoặc là bị khiêng đi – một chiếc rương vứt nơi đất hoang, không bao lâu sẽ mục nát, mà có bị khiêng đi thì cũng đã khiêng đi gần tám mươi năm, đi đâu tìm lại được chứ?

Giang Luyện cười cười, cũng không phản bác: “Rất nực cười, rất hoang đường, phải không?”

“Nhưng cô Mạnh, cô có nghĩ tới không, biện pháp này tuy nực cười hoang đường nhưng ngoài chờ chết ra thì đây là con đường duy nhất.”

Mạnh Thiên Tư không nói gì nữa: Đối với người rơi xuống vách núi mà nói thì một ngọn cỏ rủ từ vách núi xuống thôi anh ta cũng sẽ cố hết sức nắm lấy, Huống Đồng Thắng muốn làm vậy cũng là hợp tình hợp lý.

Cô thoáng trầm ngâm, cảm thấy tuyến thời gian này không đúng lắm: “Cụ nuôi anh nghĩ đến chuyện muốn tìm manh mối thông qua bức họa đốt đèn khi Huống Mỹ Doanh bốn, năm tuổi, vậy cũng cách ngày nay gần hai mươi năm rồi, anh vẫn còn đang câu bức họa đốt đèn?”

Giang Luyện như đã dự đoán trước được cô sẽ hỏi như thế: “Cô Mạnh, cô nghĩ mọi chuyện đơn giản quá rồi.”

***

Huống Đồng Thắng mất một khoảng thời gian bán của cải lấy tiền mặt, xử lý sản nghiệp và gia sản của mình ở Nam Dương, sau đó mới dẫn Huống Mỹ Doanh trở về nước.

Nhưng ông không thể trở về Tương Tây, cũng không thể đi câu bức họa đốt đèn.

Ông đã quá già, người đã tám mấy, không chống gậy còn chẳng đi lại nổi thì làm sao mà câu bức họa đốt đèn được? Quả thực là viển vông.

Bên cạnh ông cũng chẳng có ai dùng được: Thân thể không trọn vẹn khiến tính khí ông trở nên cực kỳ cổ quái, người bình thường rất khó chịu đựng được; nhiều năm buôn bán lại tạo thành cho ông cái tính nghi thần nghi quỷ, không chịu tín nhiệm ai, hơn nữa chồng của Vân Ương và Phượng Cảnh đều lựa chọn bỏ vợ vứt con, càng khiến ông cảm thấy tình người nhạt nhẽo, lòng người khó dò.

Ông lạnh lùng nhìn một lượt quanh người, cảm thấy phía sau mỗi khuôn mặt đều cất giấu một trái tim phản bội và mưu mô: Ai cũng không đáng tin, trừ phi là mình tự tay bồi dưỡng, biết rõ gốc rễ.

Giang Luyện nói: “Cụ nuôi tôi bắt đầu để ý đến những bé trai mười tuổi, bởi người ở tuổi này tâm trí còn chưa trưởng thành nhưng cũng đã hiểu chuyện, dạy dỗ tương đối dễ, hơn nữa, ông ấy còn thích tìm trong hố phân.”

Mạnh Thiên Tư nghe không hiểu lắm: “Hố phân?”

Giang Luyện cười: “Một cách so sánh mà thôi, nghĩa là ông ấy thích tìm những đứa trẻ có cảnh ngộ đặc biệt bi thảm, ví dụ như không nơi nương tựa, lưu lạc đầu đường, ăn bữa nay không có bữa mai. Ban đầu tôi tưởng rằng những đứa trẻ như vậy thuận lợi thao tác, không có phiền phức giấy tờ gì về mặt nhận nuôi. Sau lại hiểu ra, nói như vậy, cụ nuôi tôi chính là người cứu rỗi, những người được ông ấy kéo ra khỏi hố phân, sống cuộc sống của một con người này sẽ nợ ông ấy cả đời, cảm kích ông ấy, lấy mạng đền đáp cho ông ấy.”

Trong lòng Mạnh Thiên Tư khẽ động: “Anh cũng…”

Giang Luyện gật đầu: “Phải, tôi cũng là một trong những đứa trẻ như thế, Vi Bưu cũng vậy.”

***

Ban đầu, bên cạnh Huống Đồng Thắng tập trung hơn mười bé trai như vậy, sau đó mấy năm, lục tục thêm vào, lại chia nhóm nhỏ ra đấu loại.

Vì điều kiện của ông ngặt nghèo, ông không chỉ chọn người làm việc: Ông đã già, chẳng biết ông trời còn có thể thưởng cho mấy năm thọ, một khi ông ra đi, Mỹ Doanh sẽ phải giao phó cho người khác, không có ai thực sự đáng tin ở bên bảo vệ cho cô, ông chết cũng không nhắm mắt.

Bởi vậy nên phải chọn thật cẩn thận: tố chất thân thể kém, loại; không quả quyết, loại; lòng dạ bất chính, loại; dễ bị cám dỗ, loại; vụng về chậm chạp, loại…

Chọn đi lựa lại, đến cùng chỉ còn lại hai người Giang Luyện và Vi Bưu.

Huống Đồng Thắng thích Giang Luyện nhất, bởi hắn cực kỳ có thiên phú, luyện mắt thần không đến ba tháng là đã có chút thành tựu, học võ cùng nhanh, chiêu thức phức tạp mấy cũng chỉ cần suy nghĩ mấy lần là có thể luyện được, còn có thể học một biết mười, thông hiểu đạo lý.

So ra, Vi Bưu kém hơn hẳn, cũng chỉ có thân mình lực lưỡng trâu bò là khen ngợi được, nhưng Huống Đồng Thắng chấm y ở một điểm khác.

Y tốt với Huống Mỹ Doanh.

Những bé trai này đều lớn hơn Huống Mỹ Doanh, hoặc là không thèm chơi với cô, hoặc là không muốn chơi với cô, chỉ có Vi Bưu là lúc nào cũng nghĩ đến cô đầu tiên, nhường nhịn cô, trẻ con bên ngoài bắt nạt Mỹ Doanh, y dám lấy một chọi mười mà liều mạng, Huống Mỹ Doanh thân với y nhất, có một khoảng thời gian, lúc nào ra ngoài chơi cũng đều nắm góc áo Vi Bưu như một cái đuôi nhỏ.

Huống Đồng Thắng vô cùng vui mừng: Tuy Vi Bưu không có sở trường gì nhưng bên người Mỹ Doanh có một người như vậy thì trăm lợi không hại.

Ông yên lòng rồi, càng dốc lòng vào bồi dưỡng Giang Luyện hơn. Sợ rằng một ngày nào đó bất đồ bị Diêm vương bắt đi mất, không kịp nói ra bí mật này, còn viết mọi thứ lại, chuẩn bị cho Giang Luyện ngày sau mở ra. Cũng may, không biết có phải là bù đắp cho kiếp này ông phải chịu nhiều tai nạn hay không mà trong chuyện thọ mệnh này, ông trời đặc biệt ưu ái ông.

Năm Giang Luyện tròn hai mươi tuổi, Huống Đồng Thắng chín mươi chín tuổi, ông cảm thấy đây là thời điểm thuật lại tất thảy cho hắn.

Ông gọi riêng Giang Luyện vào phòng, cho hắn xem rất nhiều ảnh chụp trước.

Trước khi gặp được ông, Giang Luyện đã phải sống trong một loạt những tình cảnh bi thảm túng quẫn, người không bằng chó, ông muốn Giang Luyện ôn lại quá khứ, muốn hắn nhớ thật kỹ, không có vị cụ nuôi Huống Đồng Thắng này, hắn đã sớm chết rồi. Hắn là con số không, không có số một mà Huống Đồng Thắng cho hắn, hắn chẳng là cái gì hết.

Sau đó, ông nói với Giang Luyện: “Con phải mãi mãi nhớ rằng, con thiếu cụ một mạng.”

Giang Luyện khi đó còn chưa rõ lắm dụng ý của cụ nuôi, chỉ gật đầu: “Dạ.”

Huống Đồng Thắng nói: “Con phải hoàn trả.”

Giang Luyện ngẩn người, có phần không hiểu.

Huống Đồng Thắng nói tiếp: “Không cần phải trả cho cụ, cụ già thế này rồi, không cần con trả. Con trả lại Mỹ Doanh là được. Nếu một ngày cần con chết vì Mỹ Doanh, cụ hi vọng con sẽ không tiếc rẻ cái mạng này, bởi đó là con đang trả nợ.”

***

Giang Luyện dừng lại ở đây một lúc.

Kỳ thực hắn không định nói nhiều như vậy, ban đầu, hắn chỉ muốn nói cho Mạnh Thiên Tư biết rằng Mỹ Doanh rất thảm, hi vọng cô có thể thông cảm nhiều hơn cho Mỹ Doanh.

Nhưng bất tri bất giác, càng nói lại càng nhiều, có lẽ là do núi rừng tĩnh lặng rất thích hợp để hồi ức, hoặc có lẽ, trong tiềm thức hắn cảm thấy, bày mặt này ra cho cô xem sẽ có lợi cho mình: Người từ nhỏ đã thuận buồm xuôi gió, sống được đãi ngộ như Mạnh Thiên Tư thường sẽ có khuynh hướng thông cảm cho người bất hạnh. Cô có địch ý với hắn, nhưng khi cô biết cuộc sống của hắn không tự do, đến mạng sống của chính mình cũng không nắm được trong tay, có lẽ địch ý đối với hắn sẽ không còn sâu như vậy nữa.

Bước đi này có vẻ đúng, Mạnh Thiên Tư là một thính giả rất có tâm: Lúc cô thảo luận với hắn đúng là thật sự đã nghe kỹ câu chuyện, mà lúc cô không nói gì thì chỉ là một cái bóng yên lặng thấp thoáng trong bụi cây.

Bên trong cái bóng này có thiện ý chân thành.

Mạnh Thiên Tư hỏi: “Sau đó thì sao, nghe cụ nuôi anh nói vậy, anh rất…mất mát?”

Có hơi, nhưng dường như rất nhanh sau đó đã bình tĩnh chấp nhận, Giang Luyện mỉm cười, dẫu trong bóng đêm cũng chẳng thể nhìn rõ được nụ cười này: “Cũng bình thường, nhất định là phải có mất mát rồi, trước đó tôi cảm kích ông ấy, sùng bái ông ấy, cảm thấy sự tồn tại ông ấy như một vị thần, như kỳ tích từ trên trời giáng xuống, cứu tôi ra khỏi cảnh ngộ khốn khó.”

“Lúc đó thì hiểu ra rồi, ông ấy cũng chỉ là một người phàm mà thôi, ở Nam Dương, ông ấy là trùm bán lẻ nổi danh, người làm ăn đầu tư trước rồi đòi báo đáp là rất bình thường. Cũng hiểu…”

Giọng hắn nhuốm thêm vài phần tự giễu: “Trên đời này mọi thứ đều có cái giá.”

Đầu ngón tay của Mạnh Thiên Tư khẽ run lên.

***

Đến lúc này, Giang Luyện đã biết thân thế, bí mật của Huống Mỹ Doanh, cũng biết kỳ vọng của Huống Đồng Thắng đối với hắn: Huống Đồng Thắng không chỉ tìm một người đi câu bức họa đốt đèn, ông tự biết thời gian không còn nhiều, muốn tìm một người kế nhiệm mình, tiếp nhận trọng trách này, gom sức lực cả đời gắng sức hoàn thành nguyện vọng trước khi chết của Huống Phượng Cảnh.

Mau cứu Mỹ Doanh.

Giang Luyện cũng không bất mãn chuyện này, hắn đúng là nợ Huống Đồng Thắng một mạng, người ta đã nói rõ, quả thực nên trả nợ, huống chi, hắn lớn lên cùng Huống Mỹ Doanh từ nhỏ, tình cảm nhiều năm, tuy không phải người thân nhưng còn hơn cả người thân, bất kỳ ai cũng sẽ không nhẫn tâm nhìn người thân của mình chết đi.

Từ đó trở đi, hắn bắt đầu quan tâm tới Tương Tây, hằng năm đều sẽ ra vào vài lần, dựa theo hồi ức của cụ nuôi, tìm ra vị trí cụ thể xảy ra vụ cướp đó, lại thử câu bức họa đốt đèn vào đêm mưa to: Nhưng rốt cuộc phải “câu” thế nào thì kiến thức của Huống Đồng Thắng còn nửa vời chứ đừng nói đến truyền cho Giang Luyện. Hai ba năm đầu, hắn căn bản là câu lần nào bại lần đó, chỉ có thể suy xét cải tiến qua những lần thất bại đi thất bại lại này.

Hơn nữa, hắn có suy nghĩ của riêng mình, so với thận cảnh hư vô mờ mịt, hắn gửi gắm hi vọng vào Lâu Để hơn, hi vọng có thể khám phá được nhiều thêm chút gì từ nhà cũ của nhà họ Huống.

Nhưng đã tám mươi năm trôi qua, là một thời kỳ bão táp trở trời, cả nước đã nghiêng trời lệch đất mấy lần, nói gì đến một gia tộc nho nhỏ? Hắn đã đến thăm nhiều lần, thậm chí còn đi giở xem cả ghi chép của huyện: nhà họ Huống là một gia tộc lớn, trong ghi chép của huyện quả nhiên có vài câu đề cập, nhưng chỉ mơ hồ tra được rằng nhà họ Huống đông người chứ chưa từng nghe nói có bệnh hiểm nghèo chết thảm gì, còn nữa, tổ tiên họ Huống vốn ở trong núi, về sau không ngừng tích lũy, mở rộng gia nghiệp, mới từ từ dọn vào làng xã, trấn huyện – người thường đi lên chỗ cao, giống như nông dân muốn vào thành phố vậy, xưa nay cùng một đạo lý.

Nói chung, không ngừng thử nghiệm, không thể nói là không có tiến triển gì, chỉ là trước sau vẫn chỉ rờ được rìa ngoài, có điều Huống Mỹ Doanh vẫn còn nhro, theo tính toán, Huống Vân Ương phát bệnh năm ba mươi hai tuổi, Huống Phượng Cảnh hai mươi chín tuổi, Huống Mỹ Doanh sớm nhất cũng là vào khoảng hai mươi sáu tuổi, cho nên việc này tuy quan trọng nhưng còn chưa tới tình trạng khẩn cấp, mãi đến một ngày vào nửa năm trước, Huống Mỹ Doanh vô tình làm cắt phải ngón tay, mà vết thương thì lại…máu sủi tung tóe.

Nói cho đúng thì đây vẫn chưa tính là phát bệnh, bởi phát bệnh chân chính là da tự nứt rách, nhưng chung quy, máu có dị thường là dấu hiệu không may, Huống Đồng Thắng khí huyết công tâm, đã bất tỉnh tại chỗ, tuy cứu giúp kịp thời nhưng vẫn bị bại liệt.

Ông hiểu, dẫu ông trời có ưu ái thì cũng đang khua chiêng gõ trống “thu” ông về, có một số việc nên cho cả Mỹ Doanh biết.

Huống Đồng Thắng kể lại từ đầu đến cuối sự việc cho Huống Mỹ Doanh: “Cũng không thể cứ để Giang Luyện bôn tẩu vì con thế được, con cũng nên làm chút gì đó cho tính mạng của mình, cụ đã làm hết những gì có thể rồi, kế tiếp phải xem vận mệnh của các con.”

Nếu Huống Mỹ Doanh cũng phải lên đường thì Vi Bưu cũng sẽ theo cùng, dù y không rõ nội tình lắm nhưng có y, Mỹ Doanh cũng nhiều thêm một tầng bảo hộ.

Ba người đồng hành tất nhiên sẽ không thể tùy ý như trước, Giang Luyện tìm được lão Gàn hậu nhân của Mã Cổ Vẹo, dựa vào chút nghe ngóng về tổ tiên nhà họ Mã, thành công khiến lão tin rằng đám người này tới là để tìm tông hỏi tổ, thuận lợi dừng chân ở trại Bát Kháng.

Mà con đường khác đã đi không thông, hắn rốt cuộc cũng có thể toàn tâm toàn ý, kiên định với việc tìm kiếm manh mối qua bức họa đốt đèn.



Thật là một câu chuyện dài dòng, càng nói về sau, bóng đêm dường như cũng loãng dần, Mạnh Thiên Tư thở dài, cảm thấy linh hồn mình vừa trở về quá khứ tám mươi năm trước một vòng, từ Tương Tây bay tới Nam Dương, rồi lại vượt biển về.

“Cho nên, bây giờ anh cần tìm cái rương đó à?”

Giang Luyện cười khổ: “Phải.”

Ngẫm lại thực sự là hoang đường, tám mươi năm trước, chuyện bắt nguồn từ hai từ khóa “rương, toa” trong miệng người phụ nữ kia, nhưng nhiều năm vậy rồi, điểm xuất phát vẫn là ở đây, chưa dịch chuyển một ly.

Mạnh Thiên Tư hơi ngơ ngẩn, thể xác và tinh thần vẫn chưa thể hoàn toàn thoát ra khỏi câu chuyện, bỗng lại nhớ tới Thần Côn: “Sao gần đây lắm người tìm rương thế nhỉ, mấy ngày trước tôi cũng gặp một người nói muốn tìm một cái rương.”

Giang Luyện ngạc nhiên: “Cũng tìm? Là tìm cái rương của nhà họ Huống?”

Mạnh Thiên Tư lắc đầu: “Chưa chắc, cơ hội của người kia mờ mịt hơn anh, ngay cả vì sao cần tìm rương, muốn tìm cái rương gì ông ấy cũng không biết.”

Cô lẩm bẩm bổ sung một câu: “Điên điên khùng khùng.”

Giang Luyện cũng không để ý: “Rương mà, xưa nay chính là để cất chứa đồ vật, ai lại đi tìm bản thân cái rương, đều là tìm thứ bên trong cả, hoặc là tiền bạc châu báu, hoặc là bài thuốc bí truyền.”

Nói tới đây, hắn ngước mắt nhìn Mạnh Thiên Tư: “Cô Mạnh, tôi có thể hỏi cô một chuyện không?”

Trịnh trọng hiếm có như vậy, Mạnh Thiên Tư cũng đoán được đại khái, ừ một tiếng.

“Trong tay quỷ non có phải là không chỉ có một viên thận châu kia không?”

Mạnh Thiên Tư muốn ác miệng mấy câu, hoặc là nói gần nói xa châm chỉa hắn vài câu, song nghĩ lại, cần gì phải thế nhỉ, mấy đời người mấy thập niên này, sinh sinh tử tử, vất vả ngàn dặm, quả thật đúng là không dễ.

Bèn ừ tiếp một tiếng.

Đó giờ tuy có nghi vấn nhưng chung quy cũng chỉ là hoài nghi, nay tìm được chứng minh rồi, trong lòng Giang Luyện hệt như thả được một tảng đá lớn xuống đất, nhất thời lại không nói nên lời.

Lát sau, hắn mới mở miệng.

“Cô Mạnh, tôi biết chúng ta đó giờ vẫn luôn có hiểu lầm, ấn tượng của cô về tôi cũng không tốt, có điều tôi sẽ gắng hết sức bổ cứu.”

“Tôi từng làm cô bị thương, cô cũng từng đánh tôi; tôi hại cô bị bắt cóc, tôi gắng sức cứu cô ra; dây chuyền của cô còn chưa có tin tức gì, tôi sẽ đi tìm, đến lúc tìm về được rồi…có thể cho mượn thận châu của cô một chút được không?”

Hắn lại nhanh chóng bổ sung: “Tôi không lấy viên thận châu đó, tôi chỉ mượn thôi, dùng xong sẽ trả.”

Mạnh Thiên Tư không trả lời ngay.

Yêu cầu này thực ra không quá đáng, trong tay quỷ non dù không phải có cả phòng thận châu, nhưng vài ba viên thì vẫn có, cho hắn mượn dùng cũng chỉ là chuyện một cái nhấc tay.

Cô đáp: “Phải xem biểu hiện của anh, có thể cân nhắc.”

Dừng một chút, lại nghiến răng nghiến lợi, không nhanh không chậm nói: “Gặp được tôi coi như anh may mắn.”

Bằng vào viên thận châu của núi Ngọ Lăng kia, chất lượng hạng hai, ảnh hiện ra thì lộn xộn, dù cô không câu đi thì hắn có canh thử vài ba chục lần nữa cũng chưa chắc đã có đầu mối.

Nhưng câu chuyện này lại khiến cô sinh lòng trắc ẩn, thực sự cho mượn, cô có thể điều động cho hắn viên tốt nhất, thận châu có đặc tính dung hòa lẫn nhau, cái lớn có thể dung hoa cái bé, cái tốt có thể dung hòa cái kém, sau khi viên này được dung hòa rồi, ảnh hiện lên sẽ càng hoàn mỹ hơn.

Điều này tất nhiên là đi ngược lại với dự tính ban đầu của cô: Cô và Giang Luyện xung đột với nhau mấy lần, rõ ràng không thể nói là vui thích, không bám lấy hắn trả đũa đã là thấu tình đạt lý rồi, bây giờ còn giúp đỡ hắn, thật đúng là ngược đời.

Vậy nhưng, chuyện này lại không phải vì Giang Luyện, bốn đời con gái liên tiếp của nhà họ Huống thực sự khiến người ta phải thổn thức, lại không cần cô phải chảy máu cắt thịt, chỉ là một cái gật đầu…

Thế nên, suy đi nghĩ lại, cân nhắc mấy lần, cũng chỉ có thể phun ra một câu như để hả dạ.

Gặp được tôi coi như anh may mắn!
 
Quyển 3 - Chương 10


Trời chưa sáng, Giang Luyện lại đi thăm dò động tĩnh của Bạch Thủy Tiêu, trở về rồi thì gọi Mạnh Thiên Tư lên đường.

Theo dõi ban ngày so với ban đêm vừa có cái ưu cũng vừa có cái khuyết, ưu là có thể nhìn được trọn vẹn không sót một cái gì, khuyết cũng là nhìn quá trọn vẹn không sót một cái gì – anh tiện theo dõi người ta, người ta muốn phát hiện ra anh cũng không khó, bởi vậy nên là càng phải cẩn thận hơn, giữ khoảng cách xa hơn.

Mạnh Thiên Tư giải quyết bữa sáng dọc đường, nghỉ ngơi hồi phục một đêm, chân cô đã không còn gì đáng ngại, chỉ là sức lực vẫn chưa lên hết được, chỉ khôi phục được sáu, bảy thành, đồng thời, đêm tối qua đi, ban ngày đến, thiện ý vì đêm tối mà dễ nảy mầm, vì nghe câu chuyện mà khuếch đại lên của cô đối với Giang Luyện lại co lại một chút: Đêm tối che đi mặt mũi Giang Luyện, dễ khiến người ta động lòng và cảm tính hơn, nhưng ban ngày sắc trời sáng sủa, lại khiến khuôn mặt đã ba phen mấy bận đã đối nghịch với cô của hắn trở nên thấy được rõ ràng hơn.

Chuyện nào ra chuyện đó, thận châu vẫn có thể cho mượn, nhưng thái độ lạnh lùng của cô thì không thể thay đổi được, OK không, nghe một câu chuyện đã dao động thì bản thân cũng hơi không nhìn nổi mình nữa rồi: Chuyện này mà bị truyền ra ngoài, sau này ai đến chỗ cô nhờ vả cũng kể chuyện bi thảm cho cô nghe, còn có thể làm việc tử tế được nữa không?

Thái độ Mạnh Thiên Tư biến hóa vi diệu, Giang Luyện tất nhiên cũng phát hiện ra, có điều con thuyền hữu nghị rốt cuộc cũng khua được mái chèo, thái độ khách ngồi thuyền có hơi lạnh nhạt đối với hắn cũng chẳng sao: Sau đêm qua, chuyện đã chắc được tám, chín phần, hắn mong được thông cảm đã có được thông cảm, vậy là thỏa mãn rồi.

Chỉ là…

Hắn cảm thấy câu “Lén bám theo trước rồi nghĩ cách liên lạc với Mạnh Kình Tùng” không khả thi lắm, đây rõ ràng là càng đi càng hẻo lánh, càng không có người ở, muốn liên lạc với người bên ngoài dễ thật vậy sao.

***

Đường núi khó đi, nhất là loại núi sâu hi hữu dấu người này, lộ trình nửa ngày mệt đến muốn sống muốn chết mà cũng chỉ mới vượt qua một hai đỉnh núi, hơn nữa còn càng đi càng mù mờ, căn bản không biết mình đang ở đâu.

Mạnh Thiên Tư cũng hoang mang ngập óc: Cô không quen thuộc Tương Tây, quỷ non các đời trước có thể xem đình núi thế núi mà phân biệt được đường, nhưng qua mấy chục năm, mọi người đã quen ỷ lại vào các thiết bị định vị điện tử, không có thiết bị hỗ trợ, hai mắt cơ bản là tối thui.

Đến gần trưa, Bạch Thủy Tiêu dừng lại nghỉ ngơi lần thứ ba, Giang Luyện và Mạnh Thiên Tư cũng lập tức dừng lại.

Bạch Thủy Tiêu có vẻ rất cảnh giác, mỗi lần nghỉ ngơi đều không ngồi yên một chỗ mà cứ đi trái đi phải, nhìn ngó khắp nơi, lúc thì đứng lên, lúc thì ngồi xổm xuống, có mấy lần rõ ràng đang ngồi xổm dưới đất lại đột ngột vọt ra như đang đuổi bắt cái gì.

Cách quá xa, không nhìn rõ được, Giang Luyện sinh lòng cảnh giác, qua Mạnh Thiên Tư, hắn ít nhiều cũng đã hiểu được phần nào thủ đoạn của Bạch Thủy Tiêu: Cô ả này ở chung với bà Điền Miêu, chưa biết chừng cũng biết sai bảo cổ trùng độc trùng gì đó, nếu động thủ thật, hắn phải đặc biệt cẩn thận, dù sao trong núi này trùng thú nể mặt Mạnh Thiên Tư chứ có quen biết gì mặt mũi hắn đâu.



Đến chiều, trong núi trở trời.

Trên đầu âm u một cái là trong rừng càng tối hơn, tính tình Mạnh Thiên Tư là khó dằn lòng nhất, bất kể là “nằm vùng” hay theo dõi đều thấy hiệu quả trong nửa ngày là tốt nhất, bây giờ theo dõi từ đêm tới ngày mà chưa có tiến triển nào, ngoài đi đường vẫn là đi đường, khó tránh khỏi nóng nảy bực dọc.

Giang Luyện nhận ra, trấn an cô: “Chuyến này sẽ không vô ích đâu, chỉ cần theo sát cô ta, tìm hiểu được gốc rễ rồi, kẻ đứng sau cô ta chắc chắn không chạy được. Còn nữa, sợi dây chuyền của cô mười phần chắc tám chín là trên người cô ta.”

Nửa câu sau quả thực khiến người ta phấn chấn hơn hẳn, trong lòng Mạnh Thiên Tư khẽ động: “Ở trên người cô ta… Trong búi tóc?”

Giang Luyện gật đầu: “Ngày đó tôi cứu cô ta về có giúp cô ta băng bó, cũng đã lục xem vật tùy thân của cô ta, không có dây chuyền gì cả – cô ta có thói quen giấu đồ trong búi tóc, dây chuyền không lớn, nếu đã xác định được là cô ta lấy đi thì quá nửa là giấu ở trong đó. Cho nên chúng ta phải có phương án hậu bị, ngộ nhỡ theo dõi không thành công, bị phát hiện thì lập tức bắt cô ta lại xuống tay cướp đồ, hòa nhau được chút nào hay chút đấy, không đến mức bận bịu toi công.”

Đúng vậy, chuông vàng có thể trở về thì cũng tương đương với chuyện thành hơn nửa, Mạnh Thiên Tư đang định nói gì thì mắt cá chân đột nhiên hơi hơi bị vấp.

Giống như có một sợi dây cực nhỏ đứt mất.

Giang Luyện cũng có cảm giác này, hắn biến sắc, nhỏ giọng quát: “Cẩn thận!”

Phản ứng của Mạnh Thiên Tư cũng rất lanh lẹ, nhanh chóng lăn xuống đất, Giang Luyện cũng lăn theo, vai lưng vừa chạm đất thì nghe thấy tiếng phành phạch như chim vỗ cánh, ngay sau đó là tiếng chuông reo, đinh đinh đang đang, vô cùng rối loạn.

Trong núi yên tĩnh, âm thanh này vừa rộ lên lập tức trở nên chói tai, hơn nữa địa thế này, loáng thoáng có tiếng vọng, mấy hồi vọng đi vọng lại đan xen, liên miên bên tai như đòi mạng.

Giang Luyện tưởng kích khỏi cơ quan liên hoàn chết tiệt gì, da đầu tê dại, sau khi mặt đất yên tĩnh trở lại mới phát hiện ra ngoài tiếng chuông ra cũng không có gì khác thường xuất hiện.

Hắn ngẩng đầu, cách đó không xa, Mạnh Thiên Tư cũng lấy làm lạ, hai người nhìn nhau, lần lượt đứng dậy.

Quả thực không có động tĩnh gì khác, chỉ là trên cây cối hai bên đông tây không ngừng vang lên tiếng chuông đung đưa, dần dần yếu đi.

Giang Luyện đi kiểm tra nơi vấp dây trước, nơi đó không có dây đứt, cũng không có dấu vết gì có thể tra, nhưng hắn tin chắc rằng trước đó có một sợi dây nhỏ chăng ngang ở đó: Trong núi sâu thế này, cành lá rơi rụng trên mặt đất rất dày, mượn nhờ cành lá che lấp, chăng một sợi dây nhỏ dưới đó, dù có nằm xuống đất cũng chưa chắc đã nhìn ra, càng đừng nói đến đang đi.

Hắn đã hiểu được đại khái lý do vì sao lúc trước khi nghỉ ngơi, Bạch Thủy Tiêu lại đi tới đi lui suốt thế: Cô ta bố trí cơ quan, hơn nữa không chỉ bố trí một cái, chỉ là mấy lần trước hắn và Mạnh Thiên Tư may mắn, nhấc bước đi qua, không chạm tới mà thôi.

Bên này, Mạnh Thiên Tư đi tới dưới tán cây mé đông, ngửa đầu nhìn lên cao, như phát hiện ra điều gì đó, vẫy vẫy tay với hắn.

Giang Luyện cũng sang xem.

Trên một chạc cây không cao treo chằng chịt cao thấp chừng mười cái chuông thanh gõ, cũng không phải là treo bằng thừng mà là treo bằng xích sắt mảnh, xích sắt và thanh gõ đều đã bị gỉ sét gần hết, đủ để thấy niên kỷ đã lâu.

Mạnh Thiên Tư nhìn chung quanh một vòng, nhặt một chiếc lông chim trên bụi cây không xa lên: “Trước đó Bạch Thủy Tiêu hẳn là bắt chim.”

Giang Luyện lập tức hiểu ra.

Đã hiểu, Bạch Thủy Tiêu chăng trên đường một sợi dây nhỏ căng thẳng, hai đầu dây buộc lấy chim tước, cũng không biết cô ta khiến chim tước yên lặng nằm yên một chỗ không giãy giụa bằng cách nào, một khi có người đi qua, vô tình vấp phải đoạn dây, nút trói trên người chim tước sẽ được cởi ra, tất sẽ vỗ cánh bay cao – vừa vặn ngọn cây ngay bên trên có linh trận, chim tước bay loạn từ dưới lên, chấn động thanh gõ, chuông tất nhiên sẽ reo.

Mà tiếng chuông vang lên cũng chính là cảnh báo.

Hướng đi sự việc không đúng, Giang Luyện cảnh giác nhìn bốn phía, hạ giọng nói với Mạnh Thiên Tư: “Nấp trước đã, nếu cô ta nghe thấy động tĩnh quay lại kiểm tra, chúng ta lập tức động thủ.”

Mạnh Thiên Tư không đáp, cô cau mày như đang suy nghĩ điều gì.

Bạch Thủy Tiêu chắc chắn là nghe thấy động tĩnh, may mà lúc trước giữ khoảng cách giữa đôi bên khá xa, cô ta có quay lại cũng cần một khoảng thời gian nhất định – Giang Luyện kéo Mạnh Thiên Tư nhanh chóng nấp vào sau một thân cây gần đó.

Chợt nghe Mạnh Thiên Tư lẩm bẩm: “Đây là vách rìa nhỏ.”

Giang Luyện hơi sửng sốt: “Vách rìa Miêu Cương?”

Hắn chỉ từng nghe nói đến vách rìa Miêu Cương, đó là Nam Trường Thành trong truyền thuyết.

Mạnh Thiên Tư lắc đầu: “Không phải, là vách rìa nhỏ, trước đây người Miêu sợ quân trú đóng xâm chiếm đã dày công thiết lập những cơ quan bẫy rập khác nhau, phân bố rải rác thành một dải, không phải vách rìa mà còn hơn rả vách rìa, cho nên gọi là vách rìa nhỏ – đây là linh trận chim tước để phòng quân trú đóng đánh lén, dùng để cảnh báo, ví trí cao thấp chằng chịt, lúc gió thổi cũng không gõ vào nhau, sẽ không phát ra tiếng vang, trừ phi là chim tước từ bên dưới bên dưới bay lên… Bạch Thủy Tiêu đã lợi dụng linh trận có sẵn từ xưa, lấy vật liệu tại chỗ, bố trí lâm thời.”

Cô phân phó Giang Luyện: “Anh chú ý động tĩnh xung quanh trước đã, tôi phải hồi tưởng chút, tôi đã thấy tranh bản đồ Tương Tây… Hẳn là có thể nhớ được gì đó.”

Cô nhắm mắt lại.

Mặc dù cô không biết dán mắt thần như Giang Luyện nhưng cũng có năng lực nhìn tranh nhớ tranh, còn hơn hẳn người thường: Buổi tối hôm Lưu Thịnh bị giết, cô từng bảo người treo bản đồ núi Tương Tây, nâng mắt lửa nhận hình xem kỹ vách rìa nhỏ kia, nếu cô có thể nhớ được vị trí hiện thời của linh trận chim tước và hình thế núi non xung quanh thì cũng có thể suy luận ra vị trí bây giờ của hai người, nhờ đó nắm giữ được đại khái phương hướng, không đến mức hoàn toàn mất phương hướng trong núi này nữa.

Giang Luyện không quấy rầy cô, một mực để ý xung quanh, càng chờ càng bất an: Đáng lý Bạch Thủy Tiêu hẳn là sẽ quay lại kiểm tra, bởi vấp phải đoạn dây kinh động tới linh trận chưa chắc đã là người, cũng có thể là chim muông qua đường, song cô ta mãi vẫn không thấy xuất hiện, rất có thể là đã phát hiện ra, chuyện theo dõi này rất dễ đảo khách thành chủ, trước đó anh là người theo dõi, một giây sau có thể trở thành người bị theo dõi ngay lập tức…

Đang nghĩ ngợi, chợt thấy xa xa trên cao bắn lên pháo hoa màu da cam.

Nói là pháo hoa cũng không đúng lắm, giống như một đám khói có màu bung ra kiểu cánh hoa hơn, có nền trời âm u làm nổi bật, nhìn rất lóa mắt.

Giang Luyện không xa lạ gì cảnh tượng này, đêm qua lúc lần theo dấu vết Bạch Thủy Tiêu, cô ta cũng từng đốt loại pháo hoa tương tự, không lâu sau liền có người lái máy kéo tới tiếp ứng cô ta: Trên người Bạch Thủy Tiêu không mang theo nhiều đồ lắm, hẳn là cô ta bố trí điểm giấu chôn trên con đường mình thường đi, thuận tiện lấy từ ven đường ra dùng lúc cần thiết.

Bạch Thủy Tiêu này thật đúng là giao du rộng rãi, đi đâu cũng có người giúp đỡ.

Giang Luyện nhỏ giọng nói: “Cô ta đang tìm người hỗ trợ.”

***

Hiệu suất của hộ núi Đại Vũ Lăng quả nhiên là rất cao, tới buổi chiều hôm sau cũng đã mang đầy đủ công cụ trang bị, lái xe trực tiếp tới cổng trại Bát Kháng, theo kế hoạch, đón đoàn của Mạnh Kình Tùng xong là có thể đi thẳng tới rừng đá treo túi mật.

Mạnh Kình Tùng rất hài lòng với hiệu suất này, nhưng lúc ra đón lại trông thấy người không nên xuất hiện.

Tân Từ.

Mạnh Kình Tùng nhíu mày: “Cậu tới làm gì?”

Tân Từ lườm y: “Hỏi thừa, Thiên Tư không phải bà chủ của tôi à? Tôi thì không lo lắng cho cô ấy?”

Mạnh Kình Tùng rất không khách khí nói: “Nếu là trang điểm lên đồ cho Thiên Tư thì đúng là không ai bằng cậu, nhưng vào những tình thế như lúc này thì cậu ngoài tăng thêm phiền phức, cản trở ra, tôi nhìn không ra có ý nghĩa thiết thực gì.”

Mặt Tân Từ nóng lên, luận giá trị vũ lực, hắn quả thực là hạng bét, nhưng tất cả mọi người đều bận rộn chạy đông chạy tây, bắt hắn ở lại Vân Mộng Phong chờ thật sự là giày vò: hắn dù không có tài cán gì thì cũng có thể lái xe thêm dầu, kiếm củi giữ lửa, trông coi thiết bị, dẫu sao cũng giúp được một hai.

Đang lúng túng, chợt thấy Thần Côn nhảy nhót hân hoan cách đó không xa, Tân Từ trỏ tay vào lão: “Ông ấy là người ngoài cũng đi theo được còn gì.”

Mạnh Kình Tùng theo hướng nhìn qua, lại thu mắt về, lạnh lùng đáp: “Người ta có hàng trong bụng.”

Đến cũng đến rồi, Mạnh Kình Tùng cũng không tiện đuổi hắn về, dù sao sau khi chuyện qua đi, hai người còn phải làm “đồng nghiệp”, không tiện xử lý quá thẳng tay, nhưng y thực sự cảm thấy phiền chán: Cũng không cân nhắc lại xem mình nặng nhẹ ra sao, chuyện gì cũng sáp lại, quả nhiên là bản tính đại thái giám.

Hắn cố tình ngó lơ Tân Từ, vẫy tay gọi Liễu Quan Quốc cách đó không xa tới nói chuyện.

Hai ngày nay, Liễu Quan Quốc thực sự bận đến chân không chạm đất, tiền phương hậu phương, chuyện lớn chuyện nhỏ, mọi thứ đều cần gã điều hành, Mạnh Kình Tùng nói một câu, gã phải nói rách miệng, chạy gãy chân.

Gã nắm điện thoại, chạy vội qua.

Mạnh Kình Tùng hỏi gã: “Đầu dò la có tiến triển gì không?”

Liễu Quan Quốc là người làm việc chăm chỉ thật thà, đáng tiếc không đủ khôn ngoan nên không được tháo vát lắm, gã gật đầu lia lịa: “Có chút…tình huống, không phải người của chúng ta dò la các nơi à, có hai nhóm người nói với tôi là trông thấy xa xa sâu trong núi có một chùm pháo hiệu bắn lên.”

Pháo hiệu?

Tân Từ kích động: “Là Thiên Tư nhà mình bắn?”

Ai biết đâu, Liễu Quan Quốc đáp rất ổn thỏa: “Có vài người vào núi khảo sát hoặc nhà thám hiểm gì đó đều có thiết bị có thể gửi tín hiệu ra ngoài như vậy, nếu đúng là cô Mạnh bắn thì không loại trừ khả năng cô Mạnh gặp được họ trong núi, sau đó mượn dùng.”

Mạnh Kình Tùng ngắt lời gã: “Không phải là Thiên Tư bắn, nếu thực sự gặp được đội khảo sát hoặc nhà thám hiểm, cô ấy có thể mượn được dụng cụ truyền tin tốt hơn, hơn nữa, tín hiệu gửi ra luôn chỉ định người xem, cô ấy sẽ không gửi một tín hiệu mà chúng ta không giải mã được ra.”

Liễu Quan Quốc vội gật đầu: “Cũng phải, cũng phải.”

Tân Từ không vừa mắt Mạnh Kình Tùng nói chắc như đinh đóng cột như thế: “Không thể quá khẳng định vậy được, không phải Thiên Tư bắn thì chưa biết chừng là Bạch Thủy Tiêu bắn đấy. Theo ý tôi, tất cả dấu hiệu khác thường đều phải lưu ý…”

Hắn hỏi Liễu Quan Quốc: “Bình thường trong núi này có pháo hiệu không?”

Liễu Quan Quốc hơi lưỡng lự: “Cái này thì thật sự không có, không thường thấy lắm, hơn nữa, bình thường bắn pháo hiệu sẽ dùng cái sáng hơn chút, cái này thì lại là pháo hoa khói.”

Tân Từ ngó Mạnh Kình Tùng: “Thấy chưa, bình thường không thấy bắn, Thiên Tư vừa mất tích, nó đã bắn đùng một chùm… Không cần biết có phải hay không, anh không thể chọn vài người vào xem thử à? Anh có thiếu người đâu.”

Mạnh Kình Tùng thoáng im lặng, ưu điểm của hắn chính là ở chỗ chưa bao giờ vì cáu kỉnh mà hành sự qua loa, chỉ cần người ta nói có lý hoặc chuyện có lợi cho Thiên Tư, hắn đều có thể nghe lọt: “Có thể xác định vị trí pháo hiệu không?”

Liễu Quan Quốc lắc đầu: “Trợ lý Mạnh, trong núi tưởng gần mà xa mà, một quả pháo hiệu bắn ra từ núi sâu, chỉ có thể biết được đại khái phương hướng, không xác định được khoảng cách, đi có thể mất một ngày nửa ngày, cũng có mất ba ngày năm ngày.”

Cũng không làm sao được, chỉ có thể duy trì để ý, Mạnh Kình Tùng bức bối trong lòng, đang muốn bảo mọi người lên xe xuất phát thì Liễu Quan Quốc bỗng nhớ ra: “À, đúng rồi, trợ lý Mạnh, dốc Người Hỏng kia…”

Mạnh Kình Tùng có ấn tượng rất sâu với dốc Người Hỏng này: “Làm sao?”

“Hôm qua không phải có người của chúng ta tới đó đi thăm dò à, hôm nay, vừa mới nãy thôi, một nhóm người khác cũng qua đó, nói là rất quái lạ, trong trại không có ai.”

“Không ra ngoài cổng?”

“Không phải, là thật sự không người.” Liễu Quan Quốc chỉ hận mình nói vụng, không thể nói rõ ràng trong vài ba câu, “Như là bốc hơi khỏi thế gian vậy, trước trại sau trại đều không có người. Quần áo trong chậu giặt mới giặt được một nửa, vẫn đang để ngâm, tro trong lò sờ tay vào vẫn còn nóng hổi, còn nữa, cơm nước trên bàn đang ăn dở, bát đũa cũng chưa thu dọn…”

Gã lẩm bẩm: “Không biết có phải là chạy kiểm tra không nữa, nhưng không nghe nói chính phủ muốn vào núi tra trại này mà.”

Chạy kiểm tra? Chạy kiểm thì càng nên thu dọn những dấu vết quần cư phi pháp này đi chứ?

Trong sát na, Mạnh Kình Tùng đột nhiên nghĩ đến điều gì: “Dốc Người Hỏng trống trại xảy ra trước hay sau khi có pháo hiệu?”
 
Quyển 3 - Chương 11


Mạnh Thiên Tư nửa ngồi xổm dưới đất, cầm cành cây cực nhanh vẽ sơ đồ.

Một đoạn đường dài quanh co minh họa vách rìa Miêu Cương, bên trong đoạn đường này lại có một đường đứt quãng khác, là vách rìa nhỏ, mà vượt qua vách rìa nhỏ còn một vòng tròn được khoanh rất mạnh tay.

Mạnh Thiên Tư chỉ đầu cành cây vào một chỗ trên vách rìa nhỏ: “Chúng ta bây giờ đang ở đây, linh trận chim tước, chỗ này không chỉ là một trận báo hiệu, thiết kế ban đầu của người Miêu là sau khi quân tiến đóng vào đây, lập tức sẽ khởi động đợt đả kích đầu tiên, gần đây có ít nhất mười chín chỗ bẫy ván dao nhọn lật.”

Giang Luyện từng xem phim chiến tranh cổ đại, có chút khái niệm với cảnh tượng này, không khó tưởng tượng: Một người lính quân trú đóng lén xâm nhập, bỗng chạm trúng linh trận chim tước, trong sát na chim tước bay loạn tiếng chuông rộn vang, quân trú đóng đang thất kinh thì dưới chân bị hẫng, ngã lăn vào bẫy, người nào người nấy đều thủng ruột nát dạ dày.

Áp chế nhuệ khí của địch là đợt đả kích đầu tiên.

Có điều Giang Luyện hơi thắc mắc: “Vách rìa Miêu Cương được xây vào thời Minh, vách rìa nhỏ hẳn là được thiết lập sau đó, quân trú đóng người ta vẫn luôn không xâm phạm Miêu Sống, những cơ quan này cũng không sử dụng đến bao giờ – cái này cũng đã mấy trăm năm rồi, có chắc là còn dùng được không?”

Mạnh Thiên Tư ra hiệu ra xung quanh: “Vậy anh ra ngoài thử xem?”

Giang Luyện nhún vai, tỏ vẻ mình không dám: Trước đây không biết vùng này có bí mật, cũng chỉ coi là đi đường núi, không hề có áp lực tâm lý, giờ thì hay rồi, nói cho hắn biết đây là bẫy rập do cả đám người công phu tạo nên, mà Bạch Thủy Tiêu xuất hiện mãi giờ chưa xuất hiện có khả năng đang đặt tay lên trục máy bẫy rập…

Hắn không đi, hắn thà sống cùng cái cây làm công sự che chắn tạm thời này còn hơn.

Mạnh Thiên Tư liếc hắn, trong hai người chỉ có mình cô biết đến vách rìa nhỏ, dù biết không nhiều lắm nhưng cũng tư thế khoe khoang mình chuyên gia với Giang Luyện, ra vẻ rất chi là đạo sĩ chỉ điểm hắn: “Anh đừng coi thường trí tuệ của cổ nhân, khi đó hoàn toàn là chiến tranh song phương, cơ quan vách rìa nhỏ này là do cao nhân nghĩ kế, tạo ra dưới bàn tay của cả ngàn dân trại, quy mô rất lớn, chống côn trùng chống ăn mòn, trống úng nước chống chấn động, mặc dù đã lâu không được tu sửa, chỉ có thể phát huy một nửa công hiệu nhưng cũng đủ cho anh ăn đủ, Bạch Thủy Tiêu thường xuyên qua lại trong vùng này, cô ta đã biết những cơ quan này, ai biết cô ta có nghĩ cách sửa chữa lại bao giờ hay không.”

Tim Giang Luyện buốt lạnh, xung quanh càng âm u hơn, cũng không biết có phải là tác dụng tâm lí không mà cứ cảm thấy mặt đất bùn được bao phủ bởi vô số cành lá này đang bốc lên hơi lạnh u ám: Nếu đối thủ chỉ là một mình Bạch Thủy Tiêu thì bất kể cô ta âm ngoan xảo quyệt đến đâu, hai người hợp lực lại, hắn cũng còn có phần thắng, nhưng hiện giờ trong tay cô ta lại nắm cơ quan của người Miêu cổ, quả thực là hệt như tay cầm đại bác ám sát mèo chuột vậy.

Hắn trầm ngâm một hồi, một ý nghĩ lướt vụt qua: “Mặt đất không dễ đi, chúng ta có thể đi từ bên trên không?”

Nói đoạn, chỉ chỉ tán cây trên cao.

Cây rừng trong núi rất rậm rạp, tán cây rất lớn, gần như nối liền trên cao, nếu có thể chuyển từ cây này sang cây khác như khỉ thì trên lý thuyết, có thể “đi lại trên cao”, rời khỏi khu vực nguy hiểm này.

Nghe có vẻ khả thi, Mạnh Thiên Tư cúi đầu nhìn bản đồ đơn giản mình vẽ: “Anh nhìn xem, quanh đây có đỉnh núi nào ở giữa có hõm không, như một đĩnh vàng ấy?”

Giang Luyện không dám thò đầu ra bưa, hắn tung mình nhảy lên cây, nương tán cây che lấp, quan sát xung quanh một hồi, lại nhanh chóng trèo xuống, ra hiệu về một phía: “Đằng kia.”

Tốt, đã xác định được vị trí phương hướng, Mạnh Thiên Tư trầm ngâm: “Chỗ đó có chướng khí lò đất, qua đó, chúng ta rẽ thẳng về hướng tây là có thể tới rừng đá treo túi mật rồi.”

Nói tới đây, ngón tay cô chỉ vào vòng tròn khoanh vùng trước đó.

Lại thêm chướng khí lò đất với rừng đá treo túi mật gì thế, quỷ non dùng từ thật đúng là mơ hồ, Giang Luyện thắc mắc: “Không bám theo Bạch Thủy Tiêu nữa?”

Mục đích của chuyến đi này vẫn luôn rất rõ ràng, hoặc là thông qua Bạch Thủy Tiêu bắt được kẻ chủ mưu, hoặc là đoạt lại dây chuyền trên người Bạch Thủy Tiêu, hiện giờ tuy gặp khó khăn nhưng còn chưa đến mức hết hi vọng, sao đột nhiên lại chuyển thành đi rừng đá treo túi mật gì gì đó thế?

Quá phức tạp để giải thích, Mạnh Thiên Tư ậm ờ: “Dù sao, anh cứ theo tôi là được.”

Ngay từ đầu, cô đã từng nghi ngờ Bạch Thủy Tiêu tới là vì túi mật núi, còn từng vì dụ địch mà phân phó Mạnh Kình Tùng “gióng trống khua chiêng, ra vẻ chuẩn bị vào vách rìa nhỏ”.

Mà nay con đường Bạch Thủy Tiêu đi càng ngày càng tới gần rừng đá treo túi mật, có khi nào đích đến của cô ta chính là chỗ đấy?

Nếu là vậy thì cô chẳng cần phải bám theo Bạch Thủy Tiêu nữa rồi, không bằng đi trước, thẳng đến chỗ túi mật núi, ngược lại Bạch Thủy Tiêu sẽ phải đuổi theo cô, hơn nữa, một khi Mạnh Kình Tùng nghĩ ra mấu chốt trong đó, nhất định cũng sẽ dẫn người tới rừng đá treo túi mật, như vậy, cô có thể hội hợp với quân tiếp viện của mình.

Quả là hoàn mỹ.

***

Thương nghị xong, lập tức bắt đầu từ cái cây bên cạnh, Giang Luyện lên cây trước, lại kéo Mạnh Thiên Tư lên: Thể lực của cô hiện giờ hơi không ổn lắm, bất kể có cần hay không, hắn cũng đều quen tay hỗ trợ.

Mà chuyển nhảy trên cao cũng không mất bao nhiêu sức lực, thân cây thẳng tắp song tán cây lại tỏa ra bốn phía, có lúc nhấc chân một cái là đã có thể chuyển từ chạc cây này sang một chạc cây khác, cái nào cách xa hơn chút thì bước lớn phóng sang, đạp nhảy mượn lực, cũng không khó.

Cứ như vậy đi được qua bảy tám cây, hai người dừng lại nghỉ ngơi.

Sắc trời tối sầm, chung quanh không có động tĩnh gì, Mạnh Thiên Tư đột nhiên nảy lên một ý nghĩ: Tất cả nguy hiểm đều là suy đoán ra, có khi nào Bạch Thủy Tiêu căn bản không ở quanh đây, sau khi nghe thấy tiếng chuông đã lập tức tẩu thoát rồi không?

Như để vả mặt cô, đúng lúc đó loáng thoáng có tiếng lách cách của móc xích chuyển động vọng tới.

Giang Luyện cũng nghe thấy, chỉ là tiếng động này quá mơ hồ, không phân biệt rõ được là bắt nguồn từ phương hướng nào, tim đang đập mạnh thì chợt nghe đối diện có tiếng xé toạc không khí, hắn quát “Cẩn thận”, lùi bước tránh đi, vậy như vừa né được cú này, hai bên trái phải lại có tiếng gió phóng đến, như loạn tiễn cùng bắn, bốn phía đều có tiếng.

Giữa cơn hỗn loạn, nghe thấy Mạnh Thiên Tư kêu “Xuống cây”, hắn không kịp nghĩ kỹ, hai tay bám vào chạc cây, thân mình nhanh chóng thả xuống, cũng thật không khéo, vừa lúc có một mũi tên bắn lén xiên tới, Giang Luyện cái khó ló cái khôn, thân mình lắc sang bên cạnh như đu xà đơn, khó khăn lắm mới né được một kích, chỉ là chạc cây không chịu được giày vò như thế, rắc một tiếng gãy mất, hắn cả người cả cành ngã phịch xuống.

May là cây không cao lắm, cú ngã này cũng khiến hắn váng đầu hoa mắt, vừa dịu bớt phần nào, chợt nghe có tiếng gãy rào rào, Mạnh Thiên Tư cũng xuống, khác ở chỗ, cô ôm đầy trong tay cành lá nhỏ nhọn.

Thì ra lúc có biến gấp gáp, không ai nghĩ được tới ai, chia nhau vượt sông bằng bản lĩnh của mình, Mạnh Thiên Tư bảo hắn “Xuống cây”, nhưng mấy mũi tên bắn về phía cô lại là ba đường bắn xuống, cô đành phải nhảy lên trên, ôm được một đống cành nhọn, dùng như chổi quét hết đống tên bắn lén rồi mới thả người rơi xuống.

Cũng may cả hai đều không bị thương, thất tán trên cây, gặp lại dưới cây, cũng coi như hữu kinh vô hiểm.

Nhưng đợt tập kích này vậy mà lại cứ thế kết thúc, trong rừng khôi phục lại yên tĩnh, chỉ còn tiếng gió thổi rung cành, rì rào xào xạc.

Giang Luyện nhìn lên cao, trên cành khô cắm một mũi tên rỉ sét loang lổ, thân mũi tên làm bằng gỗ, ẩm ướt cũ kỹ rõ rệt, xem ra những cơ quan này đúng là đã cũ mục.

Thoáng sững người, Giang Luyện bật cười, nói: “Đúng là không nên coi thường trí tuệ của cổ nhân, họ nhất định đã dự liệu được rằng kẻ địch có thể đi trên cao.”

Lần này giày vò như vậy lại cũng không phải hoàn toàn vô dụng, chí ít, hắn cũng xác định được hai chuyện: Bẫy rập vách rìa nhỏ thật sự tồn tại, Bạch Thủy Tiêu cũng quả thật đang ở gần đây, hơn nữa trong tay còn có trục máy.

Trận vừa rồi kỳ thực cũng không thể coi là mưa tên, dựa theo quy mô cơ quan, dù không phải vạn tiễn cùng bắn nhưng cũng phải có đến hàng trăm hàng nghìn mũi, thưa thớt có mấy chục mũi thôi thì hơi khó coi.

Nhưng vậy thì có sao, một phần mười dư lực còn sót lại, cũng đủ khiến họ chịu đủ.

Giang Luyện dựa người lên thân cây: “Sau linh trận là bẫy rập, muốn đi trên cao lại có tên bắn, trên cũng không được, dưới cũng không thông, nếu năm đó thật sự đối đầu, quân trú đóng phải làm thế nào? Mang theo xẻng tùy thân, đào đường hầm chắc?”

Mạnh Thiên Tư đáp: “Giảm hết nhuệ khí, giết hết uy phong, vậy chính là xông liều bốn phía, chính thức đấu võ rồi.”

Chính thức đấu võ…

Trong lòng Giang Luyện khẽ động: “Đúng nhỉ, vì sao Bạch Thủy Tiêu đến giờ vẫn chưa xuất hiện?”

Nghe hắn nói vậy, Mạnh Thiên Tư cũng thấy kỳ quặc.

Giang Luyện nói tiếp: “Thực ra bản lĩnh của Bạch Thủy Tiêu cũng không phải là quá cao, ba phen mấy bận khiến chúng ta ngã nhào, hoặc là dựa vào quỷ kế, hoặc là mượn cơ quan. Nếu đánh chính diện, cô ta không chắc, cũng không dám.”

Mạnh Thiên Tư xoay chuyển ý nghĩ: “Ban nãy cô ta phát tín hiệu, cô ta đang đợi quân tiếp viện.”

Giang Luyện nói ra lời cô muốn nói: “Có khi nào là kẻ chủ mưu kia không?”

Mạnh Thiên Tư không tiếp lời, chỉ là môi hơi phát khô: Có thể không? Người đó rốt cuộc cũng sắp xuất hiện rồi sao?

Giang Luyện thở dài một hơi: “Chờ xem trước đã.”

Dù sao thì ngoài chờ đợi ra, trong nhất thời nửa khắc, hắn cũng không nghĩ ra biện pháp thoát khốn nào khác.

***

Màn đêm dày đặc.

Trong rừng rậm cách đó không xa, một khoảng sáng vàng chói rộng lớn đang di chuyển, Khưu Đống đứng dưới tán cây, cau mày nhìn chằm chằm khoảng sáng.

Khuông Tiểu Lục trượt từ trên cây xuống, khẽ khàng phủi bụi vỏ cây trên người đi: “Không có tình huống gì, họ vẫn đang đi về phía trước, anh Đại Đống, chúng ta có tiếp tục đi theo không?”

Khưu Đống bấm điện thoại vệ tinh bên hông, gật đầu: “Đi theo.”

Gã nhận nhiệm vụ đột xuất, đã ngồi lên xe rồi, Liễu Quan Quốc lại gọi gã xuống, nói có một cái trại tên là dốc Người Hỏng không bình thường lắm, trợ lý Mạnh bảo hắn dẫn mấy người đi xem, có tình hình gì thì kịp thời báo lại.

Trong thâm tâm, Khưu Đống không tình nguyện lắm, lão đại tung tích không rõ, gã vô cùng mong ngóng có thể đi cùng đại bộ đội, hiến kế xuất lực – hắn từng nghe về trại dốc Người Hỏng này rồi, trong đó không nhiều hộ lắm, đều không phải người bình thường gì, tất nhiên là thường xuyên không bình thường rồi, bỏ mặc chuyện chính không, đi quan tâm bọn họ làm gì chứ?

Nhưng nỗi không tình nguyện, hắn cũng chỉ dám thầm nhủ trong lòng: Đã là trợ lý Mạnh đích thân giao phó, chuyện lại phân công vào tay hắn, hắn cần phải tận tâm tận lực làm tốt.

Khưu Đống chọn năm sáu người, ngựa không dừng vó chạy tới dốc Người Hỏng trước rồi lập tức theo vào sau núi: Cả đám người hoạt động tập thể, để lại rất nhiều dấu vết có thể truy lùng.

Họ dốc hết sức đi vội một đường, đều muốn tốc chiến tốc thắng, mau chóng trở về, không để lỡ đại sự bên đầu trợ lý Mạnh.

Đến chiều tối thì đuổi kịp đám người kia.

Kỳ quái, chỉ mới nhìn đến những bóng lưng cứng ngắc này thôi, Khưu Đống đã tê rần da đầu rồi.

Đếm sơ qua, đại khái chừng năm, sáu mươi người, gái trai già trẻ đều có, nhưng họ không xếp thành đội nhóm, cũng không trò chuyện, đan xen vào nhau, đều chỉ cắm đầu đi về phía trước, dưới màn đêm bao phủ, nhìn như những bóng ma lay động.

Theo Khuông Tiểu Lục mô tả thì là, “Nhìn qua như những xác chết biết đi vậy.”

Vẫn chưa hết, quan sát tỉ mỉ hơn, tim càng thêm đập dồn.

Tướng mạo mỗi người trong số họ đều hung ác, đến phụ nữ và người già cũng không ngoại lệ, hơn nữa trong tay đều có vũ khí, dao thái, lưỡi liềm, búa, cuốc, đều là nông cụ thường thấy nhưng nằm trong tay những người này, xuất hiện vào lúc này, ở nơi này, thực sự khiến người ta cảm thấy không lành.

Khưu Đống còn trông thấy một người tàn tật chỉ có nửa thân, ban đầu, gã còn tưởng là đang di chuyển bằng nửa thân trên, toát hết cả mồ hôi lạnh, sau đó mới nhìn rõ, đó là hai chân bị cụt, sau hông giắt búa, chống tay bước đi, thỉnh thoảng, người bên cạnh sẽ cõng y một đoạn đường, y nằm trên lưng người kia, nhìn như một bao tải hình thù quái dị.

Hơn nữa, đường núi xa như vậy, người bình thường đi một giờ thường sẽ nghỉ chân mười lăm phút, mà đám người này thì lại hoàn toàn không dừng chân lần nào, tốc độ không thay đổi, tiến độ cũng không thay đổi, như là không biết mệt.

Rốt cuộc những người này đi đâu, định đi làm gì?

Giữa chừng Khưu Đống gọi điện cho Liễu Quan Quốc, Liễu Quan Quốc cũng không hiểu ra sao, chỉ bảo gã chú ý cặn kẽ, nhất định phải cẩn thận, không được hành động thiếu suy nghĩ.

Kỳ thực không cần nhắc nhở, đám Khưu Đống đã sớm người nào căng thẳng người nấy, hạ thấp giọng nói chuyện, đến thở cũng nhẹ đi không ít.

Trời đã tối mịt, những người đó vẫn tiếp tục đi, có người bật đèn pin, có người mở đèn bão, có người giơ đuốc – đủ loại ánh sáng màu sắc hội tụ thành một nguồn sáng kỳ dị, lặng lẽ di chuyển về phía trước giữa rừng rậm tối đen rộng lớn.

Tiếng Khuông Tiểu Lục khe khẽ vọng lại từ phía sau: “Có phải họ muốn tìm ai trả thủ không? Em nghe nói trước giải phóng, giữa các trại và bộ lạc trong núi sâu đều có kẻ thù truyền kiếp, đánh tới đánh lui.”

Có người nhỏ giọng đáp lại cậu ta: “Không phải đâu, có phải xã hội cũ đâu mà.”

Lại có người thì thầm: “Mọi người không cảm thấy biểu cảm và ánh mắt trên mặt họ rất rợn người à? Cứ như trúng tà vậy.”

Trong lòng Khưu Đống bực bội, thấp giọng quát: “Đừng chỉ lo tán phét, đây không phải trò đùa, để ý chút…”

Đang nói, xa xa đột nhiên vang lên tiếng chuông reo hỗn loạn, cả đám sợ hết hồn, chợt phản ứng lại, nhanh chóng nấp mình ra sau thân cây gần nhất.

Lát sau, Khưu Đống thò đầu ra xem.

Tiếng chuông vẫn đang vang vọng nhưng thanh thế đã yếu dần, nguồn sáng kỳ dị vẫn đang tiếp tục di chuyển về phía trước.

Xem chừng, có vẻ như đám người kia chạm phải chuông reo báo hiệu gì đó, nhưng cũng không ai đi ra ngăn cản họ, mà họ cũng chẳng thèm để ý, dường như đã quen.

Thật sự khiến người ta đặc biệt…khó hiểu.

***

Đêm xuống, Giang Luyện muốn xem xem có thể mò mẫm trong tối chạy trốn không, thử đi ra ngoài, vừa được mười mét thì nghe thấy tiếng móc xích lách cách, lại co giò chạy về.

Mạnh Thiên Tư hoàn toàn không nhúc nhích, ngồi yên dưới gốc cây nhìn hắn chạy về, còn bình luận: “Chạy nhanh ghê.”

Giọng điệu rõ ràng không phải là khen ngợi, song Giang Luyện lại nghe như khen ngợi, đáp: “Sở trường đó.”



Trong núi vắng lặng, thỉnh thoảng có tiếng chuông reo từ rất xa vọng lại, Mạnh Thiên Tư loáng thoáng nghe thấy, thắc mắc nhìn về phía phát ra âm thanh.

Hẳn là cách khá xa, nhưng sao lại vọng tới từ đường cũ?

Giang Luyện cũng nghe thấy, hắn thầm tính thời gian, chợt hít mạnh một hơi: “Đừng hi vọng nữa, không phải kẻ chủ mưu gì đâu, lâu vậy rồi, tín hiệu của Bạch Thủy Tiêu chắc là để gọi người trong trại kia đấy.”

Ngoài bà Điền Miêu và Kim Châu Ngân Châu ra, Mạnh Thiên Tư không có ấn tượng gì khác về người trong trại: “Cô ta gọi những hộ khác trong trại tới đối phó với chúng ta?”

Giang Luyện biết cô còn chưa hiểu biết gì mấy về trại kia: “Người trại đó đều không phải người thường, có khoảng mấy chục người, ước chừng mỗi người đều có thể liều mạng – hai đấm khó địch bốn tay, chúng ta có giỏi đánh nữa cũng không thể là đối thủ.”

Mạnh Thiên Tư ồ một tiếng, liếc xéo hắn: “Sợ à?”

Giọng điệu đủng đỉnh hết sức, cô điềm tĩnh như vậy, Giang Luyện cũng chẳng muốn hãi hùng lo âu, hắn dịch người xuống để ngồi thoải mái hơn: “Sợ gì chứ, chỉ cần trong tay đối phương không có súng thì ai mà chẳng có chiêu hộ mệnh.”

Hắn có thể có chiêu gì?

Mạnh Thiên Tư nửa ngờ vực nửa tò mò.

Giang Luyện hạ giọng: “Miễn là Bạch Thủy Tiêu không ở cạnh trục máy thì chúng ta cũng khỏi phải e sợ gì cơ quan. Đợi lát nữa, chúng ta lên cây tránh trước, đừng để đám người kia tìm được, đợi Bạch Thủy Tiêu hội hợp với họ rồi…”

Nói tới đây, hắn thoáng dừng lại.

Mạnh Thiên Tư biết hắn nói đến mấu chốt, tiếp đó chính là phóng chiêu, bị giọng hắn lây nhiễm, vậy mà lại có chút chờ mong: “Rồi sao?”

Giang Luyện đáp: “Rồi chúng ta bỏ chạy.”
 
Quyển 3 - Chương 12


Mạnh Thiên Tư cảm thấy mình gặp quỷ rồi.

Lời Giang Luyện nói vế trước hãy còn bình thường, đúng giọng bàn bạc chuyển khẩn cấp nên cô mới nghe chăm chú, đến câu cuối cùng, chẳng thể gọi là đảo ngược được nữa, phải gọi là chớp mắt thất thường.

Cô nghi ngờ mình nghe nhầm: “Chạy?”

“Đúng, gắng chạy… Cô có biết làm trộm, lúc trộm đồ tuyệt vọng nhất là thời khắc nào??”

Mạnh Thiên Tư cáu: “Không biết, chưa từng làm.”

Phản ứng này nằm trong dự liệu của hắn: “Tôi từng.”

Mạnh Thiên Tư không quá kinh ngạc.

“Lúc cụ nuôi chưa nhận nuôi tôi, thực sự không có đồ ăn, từng làm vài chuyện không biết xấu hổ… Cô biết cụ nuôi gặp được tôi như thế nào không?”

Mạnh Thiên Tư không tiếp lời, có điều qua ánh mắt có thể thấy cô bằng lòng nghe.

Giang Luyện không nhìn cô mà nhìn đăm đăm vào bóng đêm còn chưa quá nồng cách đó không xa một lúc, không khỏi bật cười như thể hồi tưởng lại, chính mình cũng cảm thấy buồn cười: “Cô biết không, dẫu là ăn mày cũng phân cấp cao trung thấp, cũng không phải kiểu cấp bậc Cái Bang như cô nghĩ đâu.”

***

Nghĩ lại cũng thật lạ, có đôi lúc, rõ ràng đã là đám người loại hạ đẳng nhất, yếu thế nhất rồi mà vẫn muốn ở lại trong không gian phải chịu chèn ép ấy, theo đuổi cái kiểu ỷ mạnh hiếp yếu kia: Đầu này bị người ta giẫm đạp dưới chân, mặt mũi sứng húp bò dậy, không dám trả đòn mà ngược lại, nhổ toẹt một bãi nước bọt dính máu ra rồi đi chà đạp kẻ yếu thế hơn.

Ban đầu, hắn đi dọc phố ăn xin, có điều, đầu óc hắn linh hoạt, chưa đến hai ngày đã tổng kết được: Ở những nơi như quảng trường, ga tàu, tỷ lệ xin được vượt qua khu dân cư và phố buôn bán, nhất là ga tàu, hắn luôn kiếm được mì ăn liền người ta ăn thừa còn dư lại, ăn xong vị tôm lại có vị bò, vô cùng thỏa mãn.

Hắn vui vẻ vào sống trong ga tàu như lấy được một cái bát sắt.

Vậy nhưng tối ngày thứ ba, đang đắp báo nằm co ro trên ghế ngồi phòng đợi ngủ say, lại bị vài người lôi ra ngoài, đánh cho một trận, cầm đầu là một tên mũi đỏ quạch, chân lở loét quanh năm, ban ngày lúc đi ăn xin, Giang Luyện từng trông thấy hắn, bị hành khách chửi như chó, khúm núm cười trừ, lúc đánh hắn lại oai phong như đại ca cầm đầu.

Đến lúc đó, hắn mới biết, thì ra ăn xin cũng có địa bàn, khu vực ga tàu này đã sớm bị Mũi Đỏ và bốn năm người khác chia nhau, hắn ở đây là động vào bánh của người ta.

Sau trận đánh đập đó, hắn bị ném xuống gầm cầu hỏng, Mũi Đỏ nói, hắn còn dám xuất hiện ở ga tàu nữa sẽ cắt chim hắn.

Giang Luyện không dám ho he gì, đợi bọn Mũi Đỏ đi xa rồi mới lật mình đứng dậy, quay về phía gầm cầu trống hoác gào lên mắng: “Đ** m* mày, dám đánh cậu Luyện mày!”

Sau đó, hắn không dám tới ga tàu nữa.

Hắn loanh quanh trong thành phố, thực sự không ăn xin được gì, bèn ra tay đi trộm, bánh bao, bánh cuộn thừng, bánh rán, khoai lang, bữa đói bữa no, liều mạng cầm cự ngày qua ngày dựa vào sức “lao động” của mình.

Nhưng hắn tự nhận mình không phải kẻ trộm, mỗi lần ăn xong đồ trộm được, đều chùi mạnh khóe miệng, thầm nhủ: Chờ đấy, đợi bao giờ cậu Luyện đây phát tài sẽ bồi thường các người gấp đôi, nhân hai!

Đáng tiếc phát tài cao xa không hẹn, một ngày nọ, lúc đang núp trong hẻm nhỏ nhồm nhoàm nhai cái màn thầu trộm được, lại bị đánh.

Lần ấy còn chẳng nhìn rõ được là ai đánh hắn, chỉ cảm thấy rất nhiều đôi chân từ trên trời giáng xuống, đạp vào đầu, vào ngực, vào bụng hắn, đạp lên cả cái bánh, tiếng chửi mắng chói tai, vẫn chưa vỡ giọng, vậy cũng chỉ mười ba mười bốn tuổi, mắng hắn: “Dám ăn trộm ở đây, không biết mấy con phố quanh đây là địa bàn của ‘Bảy Con Sói’ bọn tao à? Muốn trộm thì cút xa chút mà trộm!”

Thì ra không chỉ ăn xin, trộm cũng có địa bàn của trộm.

Hắn bị đánh bầm tím mắt, mũi cũng chảy máu, sau khi đám người kia rời đi, hắn hít nước mũi máu mũi, nhặt cái màn thầu đã bị đạp đen ngòm kia lên: dựa theo kinh nghiệm sống của hắn, bóc lớp bên ngoài bị bẩn kia đi, bên trong vẫn sạch sẽ, vẫn ăn được.

Hắn vừa gặm màn thầu, vừa tính toán tương lai cho mình: Cút đi đâu chứ, chẳng có nơi nào để cút cả, chỗ nào cũng có địa bàn, chỗ nào cũng bị ăn đòn.

Hắn phải nghĩ cách, làm sao để có thể tiếp tục ở lại đây ăn trộm ăn xin mà không bị đánh.

Ăn xong cái bánh, hắn nhìn chằm chằm đôi giày chơi bóng đã thủng vài ba chỗ ngón chân, hai mắt sáng lên.

Hắn có thể chạy.

Chỉ cần chạy đủ nhanh thì sẽ không bao giờ phải chịu đòn, bởi người đánh hắn đều không đuổi kịp hắn.

Từ đó về sau, khắp phố lớn ngõ nhỏ đều thường thấy bóng dáng hắn chạy như điên, từng bị tóm được vài ba lần, mỗi lần đều bị đánh lên bờ xuống ruộng, nhưng đánh càng dữ thì động lực càng lớn, sau đó hắn sẽ chạy càng nhanh hơn.

Dần dần không còn bị đánh nữa, bởi người mất đồ đều không chạy nhanh bằng hắn, một cái bánh bao chẳng đáng để phải chạy hồng hộc không thở được, mấy tên côn đồ đầu trộm đuôi cướp cũng không chạy nổi hắn, thường đều là đuổi mấy con phố rồi chống đầu gối thở hổn hển, miệng chửi mát: “Con thỏ chết giẫm này, chạy còn nhanh hơn chó.”

Nhờ câu chúc lành của họ, lần chạm mặt Huống Đồng Thắng là lần Giang Luyện phát huy tốt nhất từ khi sinh ra tới giờ, thật sự chạy thắng cả chó.

Lần đó, đang nhăm nhe cỗ tang của một nhà, làm trộm thích nhất là tiệc cỗ, bởi nhiều người ra vào phức tạp, thuận tiện xuống tay.

Giang Luyện trà trộn vào đó, lấy hai cái bánh cho mình trước rồi chịu nóng nhón đùi gà, vừa nắm được vào tay thì có người gầm lên: “Bắt trộm!”

Sau đó mới biết, người đó là bị mất tiền, ba nghìn, năm nghìn tệ cũng cũng chẳng phải con số nhỏ, người trộm cũng không phải hắn nhưng hắn đúng thật là có tật giật mình, hắn giật nảy mình một cái, co giò chạy.

Lập tức trở thành mục tiêu dễ thấy nhất.

Ăn cỗ tang đều là bạn bè thân thích, vậy còn chẳng phải là cùng chung mối thù sao? Không kịp hỏi rõ nguyên do sự việc, cả đám lập tức ầm ĩ hò hét đuổi theo, còn thả cả chó ra.

Trên bờ ruộng dài cứ thế triển khai một trận truy đuổi dữ dội: Giang Luyện tay nắm đùi gà chạy đầu, cách không xa phía sau là một con chó ta đuổi theo, lùi ra sau nữa là một đám người cuồn cuộn mênh mông.

Rất nhanh sau đó, vì thể lực cách biệt mà đám người kia dần bị kéo ra thành một dãy dài, những người bị rớt lại phía sau dìu đỡ lẫn nhau, bước chân hỗn loạn, những người vẫn gắng gượng đuổi theo được cũng đã muốn đứt hơi, khoảng cách với một người một chó phía trước càng lúc càng lớn.

Cuối cùng dứt khoát dừng lại hết, gửi gắm toàn bộ hi vọng lên con chó.

Xe của Huống Đồng Thắng đi qua vào đúng lúc đó.

Đầu tiên, ông bị cảnh tượng trước mặt hấp dẫn, lại nghe thấy tiếng huyên náo ầm ĩ, bèn bảo tài xế theo sau.

Giang Luyện nắm chặt đùi gà, guồng chân chạy như bay, sự quyến rũ của chiếc đùi gà và nối sợ hãi bị chó cắn trở thành động lực kép cho hắn, hơn nữa còn thường xuyên trèo gò leo tường nên chiếm nhiều ưu thế hơn chút: Con chó kia rốt cuộc cũng cạn sức dừng lại, tuyệt vọng chĩa mõm về phương hướng hắn chạy sủa không dứt miệng.

Thực ra chạy đến lúc này, Giang Luyện cũng đã kiệt sức nhưng tiếng chó sủa sau lưng xa dần khiến tinh thần hắn chấn động, giữa lúc bận rộn, vừa quay đầu lại đã sợ đến trắng bệch mặt.

Một chiếc đùi gà thôi mà còn đem cả ô tô ra đuổi hắn!

Hắn nghiến răng, thúc giục hai chân, tiếp tục chạy như điên.

Huống Đồng Thắng bảo tài xế tăng tốc, lúc chạy ngang hàng với Giang Luyện, ông bấm cửa sổ xe xuống, gọi hắn: “Người anh em, dừng lại chút đã.”

Giang Luyện không nghe, Huống Đồng Thắng đành bảo tài xế tiếp tục tăng tốc, sau đó thân xe quành một cái, chặn ngang đường hắn.

Xe vừa quành ngang, Giang Luyện bỗng dừng bước, còn ngã lăn một vòng, sức liều mạng kia vừa đứt là không gượng lên nổi nữa, hắn nhìn Huống Đồng Thắng chống gậy đi xuống, trực giác quải thượng sẽ đập lên người mình, phản ứng đầu tiên là cúi đầu, ra sức cắn nuốt cái đùi gà đã sớm nguột ngắt kia: Có bị đánh cũng không thể để bị đánh không, thịt gà có dinh dưỡng, ăn vào bụng rồi có bị thương cũng chóng lành hơn.

Hắn ngấu nghiến gặm nuốt, suýt nữa bị nghẹn, cái đùi gà to như vậy mà chẳng mấy chốc đã sạch trơ, sau đó phồng má ném xương về phía Huống Đồng Thắng: “Cho ông, hết rồi!”

Đùi gà rơi xuống giày da bóng lưỡng của Huống Đồng Thắng.

Huống Đồng Thắng cúi đầu nhìn, lại ngước lên nhìn hắn, cười khẽ.



Giang Luyện cảm khái: “Người đúng là phải có nhất nghệ tinh, nếu không phải tôi chạy giỏi thì cụ nuôi đã chẳng khai quật được tôi.”

Hắn nhìn Mạnh Thiên Tư: “Làm trộm, lúc trộm đồ tuyệt vọng nhất là thời khắc nào? Theo kinh nghiệm không lấy gì làm vinh quang của tôi, cũng không phải là lúc bị phát hiện hay bị người vây đuổi, chỉ cần cô chạy vượt những người khác là được.”

“Thế nên tôi ‘gắng chạy’ không phải là nói đùa với cô, tôi thật sự cảm thấy một khi đối kháng trực diện mà không có phần thắng thì chúng ta gắng mà chạy thôi, nếu cô không chạy được, tôi sẽ kéo cô – lúc trước cũng cô còn có thể chạy thắng họ, lần này gọn nhẹ ra trận, hẳn là càng không thành vấn đề.”

Mạnh Thiên Tư không nói gì, cô vẫn cảm thấy cái chiêu lớn “gắng chạy” này của Giang Luyện thật đúng là gặp quỷ, nhưng càng gặp quỷ hơn là, vậy mà cô lại cảm thấy hắn nói rất có lý.

Bạch Thủy Tiêu cũng không có vẻ gì là giỏi chạy, mà Giang Luyện thì lại là một cao thủ chạy đến chó cũng phải tuyệt vọng.

Cô không tự chủ được thò tay xoa xoa mắt cá chân.

***

Lúc đám dân trại kia tới gần, cũng không có âm thanh gì lớn, chỉ có một quầng sáng mù mịt từ xa đến gần.

Mạnh Thiên Tư và Giang Luyện đã sớm lên cây, nín thở chờ đợi.

Gần them chút nữa thì có tiếng động: tiếng cỏ bị đạp gãy, tiếng dao kéo vô tình quệt qua đã, đều rất khẽm nhưng chính vì khẽ nên lại càng dễ khiến người ta tưởng tượng rồi bất tri bất giác lạnh cả sống lưng.

Càng về sau, bóng người rõ ràng dần lên, từng người từng người, giống như thấm ra từ rừng rậm, dàn thành hai ba hàng, cũng không dừng lại, vẫn đang lê bước về phía trước, người đi đầu đờ đẫn lướt qua dưới tán cây, Mạnh Thiên Tư thậm chí có thể thấy rõ mặt họ.

Cô đã biết Giang Luyện nói “không bình thường” là ở chỗ nào.

Chỉ là, vì sao những người này vẫn đi tiếp về phía trước, đã đến nơi rồi mà, không phải nên dừng lại à?

Ý nghĩ này vừa hiện lên trong đầu, như để trả lời cô, trong bóng đêm đột nhiên bay lên một tiếng huýt sắc nhọn cực nhẹ, nhưng người vẫn đang đi này như rối dây, đồng loạt dừng lại.

Tiếng huýt như đã nghe ở đâu đó, trong đầu Mạnh Thiên Tư xoay chuyển, ký ức coi như vẫn còn mới, rất nhanh đã nghĩ ra.

Đó là tiếng còi trùng, lúc bà Điền Miêu sai khiến cổ trùng tấn công cô cũng thổi đúng cái này.

Cô nhỏ giọng nói với Giang Luyện: “Những người này có lẽ trúng cổ rồi.”

Bà Điền Miêu đã ở trong trại nhiều năm, muốn tính kế những người này cũng quá dễ dàng.

Giang Luyện ừ một tiếng: “Cô chú ý chỗ đứng của họ mà xem, dừng lại rất khéo, vừa hay vây chúng ta vào giữa.”

Không sai, tiếng còi trùng này của Bạch Thủy Tiên canh rất chuẩn, nhưng tiếng còi trùng cũng chỉ có thể thao tác tiến thoái tấn công cơ bản nhất, muốn khiến những người này cúi đầu nghe theo còn phải có thủ đoạn khác.

Mạnh Thiên Tư nghĩ đến nhang cao.

Xem ra, thứ đó không có hiệu quả gì với cô nhưng với những người này thì đều có tác dụng.

Lại một tiếng còi trùng nữa, những người đó bắt đầu bước nhanh tại chỗ, đằng đằng sát khí như tìm mục tiêu, có người đẩy đá, có người vạch bụi cây.

Mạnh Thiên Tư bình tĩnh chờ đợi: Cô và Giang Luyện cô ý chọn náu mình trên cái cây nơi từng gặp phải tập kính, chính là cái cây đã sử dụng cơ quan bắn tên, không lắp tên lại nên cũng không thể bắn tên ép họ xuống cây, còi trùng lại không cách nào nhắc nhở những người này lên cây tìm, Bach Thủy Tiêu chỉ có thể xuất hiện, tự mình ra lệnh.

Mà chỉ cần cô ta xuất hiện, họ sẽ chạy.

Bạch Thủy Tiêu năm mơ cũng không ngờ được họ sẽ “gắng chạy”.

Đang nghĩ vậy, cổ tay chợt bị siết lại, là Giang Luyện cầm lấy cổ tay cô, khẽ nói: “Tới rồi.”

Tới rồi? Mạnh Thiên Tư còn chưa kịp nhìn kỹ thì đã nghe thấy tiếng Bạch Thủy Tiêu cao giọng quát: “Trên tán cây!”

Vừa dứt lời, những người đó cơ hồ ngẩng đầu trong nháy mắt, hai mắt trừng trừng, trong tròng mắt ngập tràn những tia sáng hung hãn. Mạnh Thiên Tư và Giang Luyện đang định xuống cây thì người dưới cây đã phát hiện ra, có hai người biết trèo cây thét lên một tiếng rồi lập tức tung mình lên như khỉ vượn.

Giang Luyện nhìn từ trên cao xuống, căn vị trí người lên đầu, đạp mạnh một cước xuống.

Người nọ ngã thẳng xuống, cơ thể vừa chạm đất đã chợt bật dậy, lại một lần nữa liều lĩnh trèo lên cây, chỉ trong chớp mắt, tất cả đã tụ tập lại dưới tán cây, đưa mắt nhìn xuống, dưới tán cây không quá lớn nhấp nhô những đầu người, chỉ tính những người trèo lên cây cũng đã có sáu, bảy.

Mạnh Thiên Tư vội kêu: “Chúng ta đi trên cây đi!”

Giang Luyện cũng nghĩ vậy, nhưng chứng kiến động tĩnh dưới tán cây, lại kéo cô: “Gắng dẫn người về phía này trước đã!”

Dưới cây càng lúc càng tụ tập nhiều người, đợi lát nữa từ trên cái cây khác nhảy xuống chạy trốn sẽ ít trở ngại hơn.

Đương nói chuyện, đã có người vọt lên, Mạnh Thiên Tư đạp gã ngã xuống, lại thấy có cái đầu nhô tới, không kịp nghĩ gì, lại cấp tốc bổ một cước, đầu nhiều chân ít, lúc này chỉ ước lắm chân như rết, bên kia, Giang Luyện cũng đang liên tục đạp giẫm, mắt thấy dưới tán cây đã cuồn cuộn biển người, mới rống lên: “Đi!”

Hai người đồng thời nhảy sang cái cây bên cạnh, lại nhanh chóng trượt xuống.

Vừa chạm đất, Giang Luyện đã kéo Mạnh Thiên Tư co giò bỏ chạy.

Tuy nói phần lớn người đều đã bị dẫn tới gốc cây kia nhưng rốt cuộc cũng chẳng phải toàn bộ, rải rác xung quanh vẫn còn có người. Họ vừa chạy, lập tức đã có người xông tới xô mạnh, Giang Luyện không thể không né tránh, chỉ một thoáng trì hoãn vậy thôi, đám người dưới gốc cây kia đã ào ào đổ về đây như nước, trong tiếng hỗn loạn còn xen lẫn tiếng Bạch Thủy Tiêu thúc giục, dưới tình thế cấp bách, cũng chẳng để ý được cô ta nói gì, nhưng có thể đoán ra được quá nửa là “Ngăn lại”, “Đừng để chúng chạy” vân vân.

Hai người chân nam đá chân chiêu, liên tiếp tránh khỏi mấy người đang cố ngăn trở họ, mắt thấy phía trước thoáng lộ ra sơ hở, biết thành bại chỉ ở trong chớp mắt này, cơ hồ tâm ý tương thông, đồng thời tăng tốc, sức bật lần này phi thường, bên tai như vù vù sinh gió, nhưng chỉ thuận lợi lao ra được mấy chục bước, đột nhiên có bóng đen nhảy ra từ bên cạnh ôm chặt lấy chân Giang Luyện.

Lại là cái tay chỉ còn nửa người trên kia, thì ra y chỉ có thể dựa vào tay chống đi lại, so ra đi lại chậm hơn những người khác, bèn đứng ngoài phòng thủ, trông thấy hai người Giang Luyện cố gắng xông ra ngoài trốn, vèn mai phục đó giờ trong bóng tối, nơi này tối hù, vóc người y lại thấp, nằm sấp bất động đúng là chẳng khác gì lùm cây tảng đá.

Cú này của y rất hung hãn, một đòn trúng đích, trong chớp mắt, chân Giang Luyện trong lập tức bị treo lên một sức nặng hơn năm chục cân, sao chịu nổi, tức khắc ngã nhào. Mạnh Thiên Tư bị hắn kéo theo, cũng ngã lăn ra đất – đổi lại là người thường, chỉ sợ đã gãy cổ chết tươi, may mà cả hai đều là người luyện võ, biết lúc nguy cấp phải bảo vệ nơi yếu hại, dù vẫy cũng vẫn mắt nổ đom đóm, đầu óc choáng váng.

Nhưng cũng chẳng có thời gian cho họ thở dốc, hơn mười bóng người lung lay như ma quỷ đã nhào tới. Mạnh Thiên Tư còn may, cô lăn được khá xa, còn có thể lảo đảo đứng lên, tránh thoát đợt tấn công thứ nhất, Giang Luyện thì đến đứng lên cũng khó khăn: Gã nửa người kia đã quyết tâm cắn chặt hắn, bất kể hắn đá đạp thế nào cũng gắt gao ôm chặt, tuyệt không buông tay. Mắt thấy có cái cuốc sắp bổ xuống đầu, Giang Luyện cũng không để ý tới người này nữa, chỉ đành mặc cho chân đeo năm chục cân, xoay người tránh đi, lúc khó khăn lắm mới né được một kích này, bên chân kia cũng nặng trịch, lại bị người ta ôm lấy. Nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, bên cạnh quét ngang một cái xẻng, Giang Luyện nghiến răng, thét lên một tiếng, nửa người trên rời đất, gắng sức gập bụng vọt ra trước, lúc này mới tránh được.

Bên kia, tình hình của Mạnh Thiên Tư cũng vô cùng nguy hiểm, cô cũng được tính là cao thủ hạng nhất, nhưng chưa bao giờ gặp phải lối đánh liều mạng này: Bình thường, anh nhấc chân lên đạp, đối phương sẽ né, anh đá ngang, đối phương sẽ tránh, đó mới là có qua có lại, giao thủ so chiêu, nhưng đám người này căn bản là không biết đau, dẫu sáp lại sẽ ăn đòn cũng liều mạng tới ôm cô, níu cô, khóa cô, một khi tóm được là chết cũng không buông, có một người phụ nữ mặc áo hai dây đỏ, bước đi cũng khập khiễng, bị cô đạp vào mặt, chảy cả máu rồi mà vẫn hung hăng ôm lấy cẳng chân cô, vặn người kéo ngược cô lại.

Đúng lúc đó, bên cạnh chợt vọng lại tiếng la hét hỗn tạp…

“Là cô Mạnh!”

“Cô Mạnh ở đây!”

“Mọi người nhanh lên…”

Lời còn chưa dứt đã có mấy bóng người thoăn thoắt nhanh chóng xông vào trận chiến, đám người kia hiển nhiên không ngờ còn gặp phải người khác, đều sững sờ.

Người tới là đám Khưu Đống.

Lúc trước họ chỉ theo sau xa xa, nhưng đầu này đột nhiên ầm ĩ tiếng người, loạn cào cào như nồi nước sôi, họ không hiểu ra sao, lặng lẽ lại gần xem, trong hỗn loạn cũng không thể lập tức nhận ra ngay, mãi đến khi thấy rõ là Mạnh Thiên Tư gặp nạn, ai nấy đều kinh hãi, nào còn nghĩ được gì đến chuyện khác, vội ùa ra cứu.

Mạnh Thiên Tư mượn cơ hội đá văng người phụ nữ kia đi, xoay người đứng lên, trong lòng cả mừng.

Người của quỷ non tới rồi!

Đến khi thấy rõ người tới, trong lòng lại xoay ngoắt trầm xuống: Mạnh Kình Tùng đâu, Liễu Quan Quốc đâu? Tại sao không có lấy một khuôn mặt quen thuộc nào, chỉ có mấy người này?
 
Quyển 3 - Chương 13


Nhóm người Khưu Đống gia nhập vào chẳng khác gì một gáo nước lạnh giội vào nồi nước sôi, tuy có thể tạm giải trừ vây khốn cho Giang Luyện và Mạnh Thiên Tư nhưng cũng không ngăn được ngọn lửa giàu nhiên liệu, thế sôi trào lại một lần nữa cuộn bùng lên.

Hơn nữa, quỷ non trong nháy mắt đã rơi vào thế hạ phong.

Một là lực lượng quá chênh lệch, căn bản là lấy một chọi mười; hai là nhóm Khưu Đống chỉ tới do thám, không có ý định động thủ, trên người không có vũ khí trang bị nào lợi hại; ba là quỷ non xuống tay luôn chừa lại đường sống, chỉ cốt đả thương hoặc đánh lui địch, dù sao giết người cũng là phạm pháp, không ai muốn vì chút thống khoái nhất thời mà đeo mạng người lên lưng cả – dẫu pháp luật truy cứu không tới thì lòng mình cũng khó an yên.

Nhưng họ rất nhanh phát hiện ra, đám người kia thật sự hạ sát thủ, không chút kiêng dè nào.

Nhóm họ vừa gia nhập đã đỡ trái hở phải, bốn mặt thụ địch, không bao lâu sau, chợt nghe Khuông Tiểu Lục kêu thảm một tiếng, bị một cái xẻng bổ trúng, Khưu Đống đỏ ngầu mắt, đang định lên cứu thì đồng bạn bên cạnh gầm lên giận dữ, nhưng lại bị hơn ba người kẹp đầu ôm chân, vật mạnh xuống đất.

Cứ tiếp tục thế này thì toi mạng cả đám, Khưu Đống nghiến răng, tung mình nhảy lên, đụng ngã ba người đang cưỡi trên người đồng bạn kia, lại mò lấy một cái cuốc rơi xuống trong lúc hỗn chiến, vung dọc quét ngang, lạc giọng hét: “Mọi người yểm hộ cho cô Mạnh!”

Lời còn chưa dứt, một tráng hán tung người nhào vào cái cuốc, kiên quyết ép thế quét ngang của cái cuốc xuống, Khưu Đống định gắng sức đoạt lại, chợt thấy sau đầu nổi lên tiếng gió đột kích, lập tức buông tay lăn sang bên cạnh nhưng vẫn bị muộn: bên vai chợt đau nhói, lúc ngẩng lên nhìn, một lão già móm răng rút lưỡi liềm ra, làm bộ lại muốn chém xuống.

Mạnh Thiên Tư và Giang Luyện bị chừng mười người vây công, thể lực của cô còn chưa hồi phục, trải qua một trận chiến kịch liệt như vậy, đã khó cầm cự tiếp, cũng may có Giang Luyện thỉnh thoảng giúp đỡ bảo vệ, nhưng dẫu vậy cũng đã bị thương vài chỗ. Vết thương của Giang Luyện còn nhiều hơn, may là đều không phải chỗ yếu hại, đang thầm nóng ruột thì có hai quỷ non nghe thấy tiếng hét của Khưu Đống, nhịn đau mang vết thương đánh tới, quát một tiếng, dáng vẻ cùng liều mạng, một người gục còn muốn đạp thêm một người nữa, nhất thời mở ra một kẽ hở cho vòng vây.

Giang Luyện căn đúng thời cơ, kéo Mạnh Thiên Tư xông ra từ kẽ hở này.

Vừa lao ra được tầm mười bước thì một thanh đao Miêu chuôi vòng sáng loáng từ mé bên đâm tới, Giang Luyện vội dừng bước, chỉ cảm thấy bụng dưới lạnh buốt, áo đã rách, trên da nóng rực, đã trúng một nhát, may là còn chưa mổ bụng thủng dạ dày.

Bạch Thủy Tiêu rốt cuộc cũng lộ diện.

Vì Bạch Thủy Tiêu mà mấy giây tiên cơ hai hộ núi phải dốc hết toàn lực mới đổi được lại bị uổng phí, mắt thấy người phía sau cũng sắp đuổi tới nơi vây lại, Mạnh Thiên Tư nói cực nhanh một câu: “Anh liều mạng cũng phải giữ chân được họ, đừng để người khác đuổi theo tôi…”

Lời còn chưa dứt, đao phong của Bạch Thủy Tiêu lại ập tới, Mạnh Thiên Tư không cách nào nói thêm được gì nữa, lăn mình né đi, vươn tay đẩy lưng Giang Luyện ra ngăn cản, mình thì nương lực thế đẩy này mà nhanh chóng chạy vụt vào bóng tối bên cạnh.

Mục tiêu của Bạch Thủy Tiêu là cô, sao có thể để cô chạy thoát, nổi giận gầm lên một tiếng, xoay người đuổi theo.

Nói thật thì, Giang Luyện nghe không hiểu lắm câu nói của Mạnh Thiên Tư, cho đến khi cô bỏ chạy, đẩy hắn ra cản Bạch Thủy Tiêu, trong lòng càng thêm lạnh ngắt, nhưng trông thấy Bạch Thủy Tiêu co giò đuổi theo, vẫn vô thức nhào lên xô Bạch Thủy Tiêu ngã xuống đất, mà gần như cùng lúc đó, phía sau lại có hai người nữa xông tới, một người ôm hông hắn, một người ôm chân hắn.

Nửa người dưới Giang Luyện cơ hồ không làm được gì, tự biết hôm nay quá nửa là phải nộp mạng tại đây, trông thấy Bạch Thủy Tiêu còn đang giãy giụa bò dậy, cũng không biết lấy đâu ra sức lực, vươn tay tới kéo tóc cô ta giật ngược lại phía mình. Bạch Thủy Tiêu kêu lên, búi tóc xõa tung, trong lòng Giang Luyện khẽ động, đang định kiểm tra xem dây chuyền có thật là ở trong đó không, khóe mắt liếc có hai bóng người đuổi tới, dứt khoát đã làm thì làm hẳn, một tay tóm lấy eo Bạch Thủy Tiêu, khớp hàm khẽ nghiến, bả vai khiêng lên, lấy cô ta làm bao tải ném, đánh ngã hai người kia, ba người lăn lóc.

Giang Luyện cười to, cảm thấy quả này thật quá thống khoái, hắn quay đầu kêu với về hướng Mạnh Thiên Tư biến mất: “Mạnh Thiên Tư, nếu tôi chết, đừng quên chuyện cô đã đáp ứng tôi.”

Vừa dứt lời, trên vai đã ăn một dao, hắn nhịn đau quay đầu, vận hết sức lực còn lại táng thẳng một quyền vào cằm kẻ kia. Kẻ kia lảo đảo ngã xuống, lại lộ ra người phụ nữ mặc áo hai dây đỏ sau lưng. Ả đã máu me đầy mặt, không còn thấy rõ mặt mũi nữa, chỉ biết là đang dữ tợn cười sằng sặc, bởi hé ra hàm răng trắng nhởn nổi bật, đều dính máu chảy từ trên mặt xuống.

Bên tai không ngừng vang lên tiếng quát tháo xen lẫn tiếng kêu thảm của quỷ non, Giang Luyện cười khổ, cơn tức trong lòng chợt buông lơi: Tre già măng mọc, cây này nối cây sau là chuyện đã từ xưa…

Ngón tay khẽ cuộn lại, bỗng rờ tơi một sợi dây chuyền trên mặt đất, Giang Luyện không còn hơi sức đâu mà kiểm tra nữa, vô thức nắm vào lòng bàn tay: Là sợi dây chuyền của Mạnh Thiên Tư à? Có lẽ, ban nãy búi tóc của Bạch Thủy Tiêu xõa ra, có khả năng đã tuột xuống lúc ấy…

***

Đúng lúc ấy, trong rừng rậm bao la, trời đêm bát ngát, đột nhiên vang lên một hồi tiếng huýt gió hùng hồn khó tả.

Âm thanh này như một làn sóng khí, cuồn cuộn tỏa ra, nghe thì trầm thấp, lại như có cường độ có thể xâm nhập vào lòng người, sau khi thứ tiếng đó vang lên, trong núi rừng đột nhiên tĩnh bặt, cây lá như bị cố định lại, dường như đến gió cũng tan biến hầu như không còn.

Những dân trại như điên loạn này dừng sững lại trong khoảnh khắc. Tiếng huýt gió tựa hồ có thể kích thích nỗi sợ nguyên thủy đối với rừng núi, đêm tối và thú dữ vẫn luôn tồn tại từ xa xưa đến nay, ẩn sâu dưới đáy lòng con người.

Cách đó không xa, Bạch Thủy Tiêu đầu tóc rối tung, ngửa đầu nhìn về phía rừng rậm tối đen như mực đằng xa, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, môi không khống chế được khẽ run run.

Sau đó, từ sự yên lặng chết chóc này dần tràn ra âm thanh.

Bắt đầu, như là có gió, khiến người ta nhớ tới câu “Gió rì rào, lá cây xào xạc” trong “Sở từ – Cửu ca”, ngay sau đó là tiếng huyên náo che trời lấp đất như có hàng ngàn hàng vạn sóng âm, xếp thành thế núi đáp khe thưa, tràn về phía này, cây cối phía xa không chịu nổi mà chao đảo, lớp sau xô lớp trước, nhấp nhô không dứt như sóng biển giữa không trung.

Giang Luyện nhìn mà ngơ ngẩn, người phụ nữ cầm lưỡi liềm bên cạnh quên mất việc phải tấn công hắn, hàm răng không ngừng đánh vào nhau cành cạch, cánh tay, bả vai và phần lưng lộ ra ngoài đều sởn hết da gà lên.

Bạch Thủy Tiêu thì thào một câu: “Đi.”

Lần đầu tiên nói hoàn toàn không phát ra được tiếng nào, cô ta gần như hoang đường mà nhớ tới Huống Mỹ Doanh, thì ra trong tình huống cực độ sợ hãi, con người đến giọng nói cũng mất sức, thực sự sẽ tắt tiếng.

Bạch Thủy Tiêu nuốt nước bọt, lần này, giọng nói như vạch bão phóng ra, chói tai đến biến âm: “Đi mau!”

Bấy giờ, dân trại mới tỉnh khỏi cơn mê, nhấc chân chạy thẳng, trong sóng người tan tác này là mấy hộ núi nằm sấp, Khưu Đống cả người đẫm máu ngửa đầu gào lên: “Thú rừng động rồi! Mau kết trận!”

Giữa lúc nói, gã cũng nhìn thấy Giang Luyện, nhớ ra người này ban nãy hình như đã giúp đỡ Mạnh Thiên Tư, do dự một thoáng rồi hét lên với hắn: “Anh cũng qua đây, nhanh!”

Những lúc thế này cứ nghe lời là được, Giang Luyện thất tha thất thểu, ba chân bốn cẳng chạy tới, lúc tới trước mặt, chợt nghe tiếng tí tách tí tách rơi xuống đất như mưa rơi, vội quay đầu lại nhìn, chỉ thấy giữa không trung lá rụng xoay vòng, vô số những con khỉ hoang to nhỏ đang không ngừng nhấp nhô nhảy vọt giữa các tán cây, không những thế, trên cao hơn còn có vượn đu bám, như có người thúc giục, trực tiếp đuổi theo đám người đang chạy thục mạng kia.

Khưu Đống túm lấy Giang Luyện, kéo hắn vào giữa nhóm người, nhanh chóng kết trận.

Gọi là “trận” nhưng thực chất chỉ là một kiểu tư thế: Cả nhóm quay lưng vào trong, mặt hướng ra ngoài, tất cả đều gót chân chấm đất, đầu ngón chân nhếch lên, cơ thể ngả vào giữa, gáy nối lại một chỗ, tạo thành một vòng tròn hình nón, hai tay dựng hai bên đầu như sừng hươu, năm ngón xòe ra, miệng như lẩm bẩm.

Giang Luyện bị quây vào giữa, chỉ có thể ngồi quỳ xuống, phát hiện trên đầu có máu chảy xuống, lúc ngẩng lên nhìn, là một hộ núi trong đó bị thương quá nặng, tuy có đồng bạn dìu đỡ gắng sức kết trận nhưng đứng không nổi, thân mình không ngừng run rẩy, làm cả trận pháp đều có vẻ nguy ngập khốn đốn. Giang Luyện vươn tay ra đỡ ngang lưng anh ta như một cái giá chống anh ta lên, lại xuyên qua giữa hai chân nhóm người nhìn ra ngoài.

Lúc này, sóng người đã tản đi, đèn bão, đèn pin và đuốc rơi lung tung khắp đất, những luồng sáng ngổn ngang kéo dài trên mặt đất, ngọn lửa bập bùng còn chưa cháy hết, thế dần yếu đi, phát ra những tiếng lách tách nho nhỏ – ai cũng đều biết nguồn sáng phải đặt ở trên cao thì mới có thể chiếu sáng một khoảng không gian ở mức độ rộng nhất, hiện giờ tất cả nguồn sáng đều ở dưới thấp, khiến nơi cao hơn chìm vào u tối mơ hồ.

Nhưng trong bóng tối gần như không rõ ràng đó lại không ngừng có những có bóng đen cường tráng nhanh nhẹn lướt vụt qua.

Có một nhóm hơn mười con, mình thon như chó, khí thế vô cùng hung hãn, Giang Luyện hoài nghi đó là sói Miêu, là cọp ngựa; có con thân hình to lớn, ít nhất cũng phải hai ba trăm cân, như một luồng gió tối đen lướt qua bên cạnh, răng nanh chìa ra như lưỡi dao sắc nhọn cắm ngược, bên thân còn có mấy con nhỏ hơn chút, hẳn là lợn rừng mõm lưỡi lê trong truyền thuyết của Tương Tây; có liên tiếp vài con như mèo mà lớn hơn mèo, dọc thân vằn đen hình mây, mười phần chắc đến tám chín là báo hoa hoang dã; còn có loài vật tiếng kêu xì xì với lớp vẩy lấp lánh ánh sáng lạnh thấu xương, vèo một cái đã vọt mất không thấy đâu nữa, quá nửa là loài mãng xà mà mỗi lần nhắc tới cụ nuôi đều biến sắc…

Gần trong gang tấc với nhiều loài mãnh thú đó giờ chỉ mới được nghe tên như vậy mà lại không có chấn song lồng sắt, cảm giác áp lực khổng lồ và hơi thở nguy hiểm quấn quanh thân, Giang Luyện không nhịn được hơi hoảng hốt, hắn nuốt nước bọt, nhắm mắt lại trấn định tâm thần, dần dần nghe ra “thần chú” nhóm Khưu Đống đang thấp giọng niệm đi niệm lại.

Đó không phải thần chú, là thiên “Quỷ non” trong “Sở từ – Cửu ca” của Khuất Nguyên.

Là đang cầu xin bà cố tổ trong truyền thuyết phù hộ à? Nữ yêu tinh diễm lệ, thần bí khó lường sống vào mấy ngàn năm trước ấy thực sự sẽ bảo hộ cho họ sao?

Giang Luyện vốn không tin điều này, nhưng những gì nhìn thấy trước mắt lại không khỏi khiến hắn tin tưởng.

Bốn phía dần tĩnh lặng, ngọn lửa bập bùng đã sớm tắt, đến tiếng cháy lách tách cũng không còn nữa, giọng nói khàn khàn trầm thấp của nhóm Khưu Đống quyện vào nhau, trở nên rất rõ ràng…

“…Khoác cỏ thơm, lưng thắt dây tơ, mắt ngóng nhìn, cười mỉm như mơ, dáng thiết tha, dịu dàng, xinh đẹp, xe tân di dùng báo đỏ kéo, cờ ngọc quế dắt chồn hoa theo…”

Niệm đến đây thì dừng lại.

Giang Luyện nhìn ra ngoài.

Rốt cuộc hắn cũng trông thấy Mạnh Thiên Tư.

***

Mạnh Thiên Tư nhìn khác hẳn ban nãy, không giống với bất kỳ lúc nào trước đây. Cô mặc rất ít, ống tay áo, vạt áo và ống quần đều đã dùng dao cắt bỏ, quanh eo quấn cành lá tùng la, hơn phân nửa da thịt đều để trần, được bóng tối làm nên, trông càng thêm trắng trẻo.

Vóc dáng cô rất đẹp, nhưng cũng không phải đẹp kiểu yếu ớt: vai cổ cao thẳng, vòng eo trơn mượt, cánh tay mảnh khảnh mà dẻo dai, đôi chân thon dài mà mạnh mẽ, lúc đi lại, anh có thể thấp thoáng nhìn ra bắp thịt căng mịn cân xứng. Cô đi chân trần, mái tóc dài xõa tung, hơi rối, cánh tay và hai chân đều có vết máu, nhưng điều ấy cũng không khiến cô trở nên nhếch nhác mà ngược lại, tăng thêm vẻ rắn rỏi và sức quyến rũ gần như hoang dã.

Bên cạnh cô là một con…

Giang Luyện hít mạnh một hơi.

Là hổ.

Hắn biết tiếng huýt gió ban nãy vang lên thế nào rồi, hổ gầm sơn lâm, tục ngữ có câu “gió theo hổ, mây theo rồng”, gió là sự chuyển động của không khí, gió hổ tương cảm, tiếng huýt vang lên bốn bề nổi gió, quả nhiên.

Giang Luyện cũng không phải là chưa từng thấy hổ, nhưng nhiều năm nay, hổ hoặc là bị sở thú hóa, hoặc là bị hoạt hình hóa, thế nên hắn đã gần như quên mất tướng mạo vốn có của hổ.

Đấy là một con hổ đã có tuổi, cũng là một con hổ lớn, thân dài gần ba mét, chỉ tính cái đuôi như một chiếc bàn chải bằng thép đang hơi vểnh lên kia đã một mét rồi, giống hổ Hoa Nam rất ít khi có thể to dài được đến vậy.

Lúc nó dời bước, nệm thịt đầy đặn, không một tiếng động, bắp thịt trên người lại rất có lực đạo mà nhấp nhô theo chuyển động, có thể từ đó suy ra được, dưới lớp da lông bao phủ ẩn chứ sức mạnh rung núi lay rừng như thế nào, nghe nói, cái tát của hổ nặng đến một tấn, bởi vậy nên có thể dễ dàng tát chết một người, cũng chẳng biết có thật hay không.

Vì không đủ sáng nên trong màn đêm đen kịt, hai mắt hổ thoạt nhìn cứ như hai quả bóng bàn lớn phát ra ánh sáng trắng, mắt hổ trừng trừng khiến người ta không dám đối diện, rất sợ sẽ bị hợp hồn đoạt phách.

Lúc một người một hổ này đi qua, Giang Luyện đến hít thở cũng ngừng lại.

Không chỉ hắn, nhóm Khưu Đống cũng đều cương cứng người, gắng đứng thật vững trong khoảnh khắc này. Giang Luyện đế ý thấy cánh tay và bên chân hướng về phía hắn của Mạnh Thiên Tư đều có vết dao, máu chảy xuống đều là từ vết thương này mà ra, nhưng cái này nhất định không phải là bị khi giao đấu: bởi ba vết trên nằm ngang, ba vết dưới hình cung ngược, xếp hàng rất ngay ngắn, khoảng cách gần như đồng đều.

Con hổ mà Mạnh Thiên Tư dẫn tới đứng cách đó không xa, in lên con ngươi Giang Luyện hai cái bóng một đứng một ngồi.

Từ đằng xa có tiếng thú gầm vọng lại, thỉnh thoảng cũng sẽ có vài tiếng người kêu lên thảm thiết.

Cũng không biết bao lâu sau, Giang Luyện nhìn thấy Mạnh Thiên Tư buông tay xuống, xoa xoa đầu con hổ.

Con hổ kia đứng dậy, quay đầu rời đi, bước chân ban đầu chậm rãi uy vũ, lát sau, tung người vọt đi, biến mất trong bóng đêm mịt mờ.

Đến tận lúc này, mấy người quanh hắn mới chính thức thả lỏng người, Giang Luyện nghe tiếng Khưu Đống thì thào: “Núi Tương Tây chúng ta đúng là thật sự không còn hổ nữa rồi.”

Người bên cạnh tiếp lời gã: “Phải đó, tôi nghe nội tôi nói, năm bốn chín quân giải phóng diệt hổ, trong vòng nửa năm đã diệt hơn tám mươi con khắp tám huyện toàn khu, chỉ tính riêng quả núi sau trại nhà nội tôi thôi đã đánh chết bốn con rồi… Hiện giờ ở giữa núi sâu, cô Mạnh niệm chú phạm vi rộng như thế cũng chỉ có một con này, nhìn nó đã lớn tuổi, bên người lại không có con cọp nhỏ nào.”

Chỉ sợ cũng là con cuối cùng trong núi lớn Tương Tây.

***

Lúc thú núi động khí thế mãnh liệt, hội tụ lại thành một đợt sóng triều tiến công, rất có thanh thế rung trời chuyển đất, lúc đi lại chỉ phân tán bốn phía, ngoài thỉnh thoảng vọng lại một hai tiếng thú gầm ra thì gần như lặng yên không một tiếng động.

Tất cả những gì vừa xảy ra dường như chỉ là một giấc mộng đêm rừng.

Mấy đống lửa trại liên tiếp nổi lên, bãi chiến trường mấy phút trước còn làm kinh tâm động phách giờ đã thành khu doanh trại lâm thời nương thân.

Quỷ non gần như ai nấy đều bị thương, có hai người bị thương rất nặng, nhóm Khưu Đống cũng không mang theo thuốc thang gì, chỉ có thể liệu cơm gắp mắm, dẫn vài người bị thương nhẹ đi tìm thảo dược ở chung quanh, sau đó phân người ra làm hai tốp, một tốp chăm sóc cho người bị trọng thương, một tốp băng bó giúp Mạnh Thiên Tư.

Không có băng gạc, chỉ có thể mỗi người cắt xé một miếng quần áo xuống, tiếng vải xe vang lên không dứt bên tai. Giang Luyện không giúp đỡ được gì, bèn dứt khoát đứng ra ngoài cho khỏi làm lỡ chuyện của người ta.

Mãi đến khi Khưu Đống đã băng bó cho Mạnh Thiên Tư xong, hắn mới đi lên, đưa vật trong tay cho cô: “Của cô.”

Mạnh Thiên Tư và Khưu Đống cùng ngẩng đầu lên.

Dưới ánh lửa sáng rực bập bùng, giữa ngón tay Giang Luyện rủ xuống một sợi dây chuyền màu vàng đồng, đầu sợi hãy còn rung rinh, vài mảnh tròn mỏng nhẹ chạm cọ vào nhau, phát ra những tiếng chuông rất khẽ.

Môi Khưu Đống mấp máy, tựa hồ muốn nói gì nhưng lại nhịn xuống.

Mạnh Thiên Tư chẳng ừ hử gì: “Cái này à.”

Cô giơ tay lên đón, đầu ngón tay vô tình chạm lướt qua hắn, mãi đến khi nắm sợi dây chuyền vào lòng bàn tay rồi mới cười khẽ, lại ngẩng đầu nhìn hắn: “Thanh toán xong, anh có thể rời đi được rồi.”

Lại phân phó Khưu Đống: “Gọi điện cho Mạnh Kình Tùng, thuận tiện hỏi anh ấy xem có tìm được Huống Mỹ Doanh và Vi Bưu không, nếu tìm được thì đừng làm khó họ.”

Bản hoàn chỉnh của bài Quỷ non (Sơn quỷ) trong “Sở từ – Cửu ca” của Khuất Nguyên và bản dịch thơ của Phạm Thị Hảo trên báo Hồn Việt số 37 tháng 7/2010, tớ cũng sẽ dùng bản dịch này cho mỗi lần bài thơ xuất hiện trong truyện (thực ra cũng làm gì còn nữa):

Nhược hữu nhân hề sơn chi a,

Bị bệ lệ hề đới nữ la.

Ký hàm thê hề hựu nghi tiếu,

Tử mộ dư hề thiện yểu điệu.

Thừa xích báo hề tòng văn ly,

Tân di xa hề kết quế kỳ.

Bị thạch lan hề đới đỗ hành,

Chiết phương hinh hề di sở tư.

Dư xứ u hoàng hề chung bất kiến thiên,

Lộ hiểm nan hề độc hậu lai.

Biểu độc lập hề sơn chi thượng,

Vân dung dung hề nhi tại hạ.

Diểu minh minh hề khương trú hối,

Đông phong phiêu hề thần linh vũ.

Lưu linh tu hề đảm vong quy,

Tuế ký yến hề thục hoa dư?

Thái tam tú hề ư sơn gian,

Thạch lỗi lỗi hề cát mạn mạn.

Oán công tử hề trướng vong quy,

Quân tư ngã hề bất đắc nhàn.

Sơn trung nhân hề phương đỗ nhược,

Ẩm thạch tuyền hề âm tùng bách.

Quân tư ngã hề nhiên nghi tác.

Lôi điền điền hề vũ minh minh,

Viên thu thu hề hựu dạ minh.

Phong táp táp hề mộc tiêu tiêu,

Tư công tử hề đồ ly ưu.

Dường như có người trên góc núi

Khoác cỏ thơm, lưng thắt dây tơ

Mắt ngóng nhìn, cười mỉm như mơ

Dáng thiết tha, dịu dàng, xinh đẹp

Xe tân di dùng báo đỏ kéo

Cờ ngọc quế dắt chồn hoa theo

Mui xe lan buộc đai đỗ hạnh

Tìm hoa thơm hái tặng bạn tình

Chốn thâm sâu, trời mây chẳng thấy

Đường gập ghềnh, ta tới trễ chăng?

Đứng lặng một mình nơi đầu núi

Phía bên kia, mây kéo giăng hàng

Ban ngày mà âm u mù mịt

Gió đông táp, mưa rơi nặng hạt

Ngóng đợi chàng, quên cả chuyện về

Hồng nhan tàn, tươi lại được sao?

Hái linh chi bên bờ khe suối

Đá lởm chởm, rậm rì cây cối

Oán bạn lòng quên cả chuyện về

Chàng nhớ ta nhưng chẳng rảnh chăng?

Người trong núi khác nào cỏ thơm

Ăn bóng tùng, uống nước suối trong

Lòng nhớ chàng, một mình lặng lẽ

Phải vì chàng nghi hoặc ta chăng?

Tiếng sấm rền, mưa mù u ám

Vượn hú đêm, não nuột tiếng kêu

Gió rì rào, lá cây xào xạc

Nhớ bạn lòng, luống những bi thương…

Bản phổ nhạc của ai-đô Winky Thiiiiiiiiiiiii Nghe cho thấm ạ:)))))

Hoặc là nghe bản cover này của Hoàng Thi Phù, giọng nữ chuẩn vang, ảo, ma mị đúng tính chất quỷ non ~
 
Quyển 3 - Chương 14


Khưu Đống đáp dạ, thấy chỗ này rừng sâu cây rậm, sợ chất lượng gọi điện không tốt, bèn ra ngoài một đoạn, chọn một nơi trống trải để gọi. Giang Luyện muốn nói với Mạnh Thiên Tư mất câu, lại nghĩ tới tình hình của Huống Mỹ Doanh và Vi Bưu, sau một thoáng lưỡng lự, quyết định đi theo Khưu Đống trước.

Cuộc gọi nhanh chóng được nối thông, Khưu Đống liên tục gật đầu: “Tốt, tốt, hội hợp trong núi rất thích hợp, tôi đưa máy cho cô Mạnh, xem ý kiến cô ấy thế nào…”

Xoay người lại thì thấy Giang Luyện, sắc mặt sầm xuống, lạnh lùng báo: “Mọi người vội đi tìm cô Mạnh nên chưa để ý tới bạn anh.”

Vốn định nói xong sẽ bỏ Giang Luyện lại, mới đi hai bước, rốt cuộc không nhịn được, che ống nghe điện thoại, lùi trở về, hỏi hắn: “Tại sao chuông vàng phục thú của cô Mạnh lại nằm trong tay anh?”

Chuông vàng phục thú?

Giang Luyện thoáng sửng sốt rồi mới hiểu ra chính là sợi dây chuyền kia, vốn định giải thích vài câu, lại nuốt về: một là không thể nói rõ ràng trong vài câu; hai là mỗi lần bên Mạnh Thiên Tư hỏi về sợi dây chuyền này đều tránh người xung quanh, tựa hồ cũng không muốn để lộ việc này.

Khưu Đống lại cho là hắn đuối lý, hơi tức giận: “Chuông vàng phục thú, phòng thú núi, động thú núi, hàng thú núi, tình thế ban nãy nguy cấp như vậy, anh lại cầm một vật quan trọng như thế trong tay, anh có biết dùng không? Làm tôi cứ thắc mắc, rõ ràng có chuông vàng để dùng, sao cô Mạnh lại phải mười hai dao lấy thân làm bùa như thế, thì ra trên người không có chuông vàng!”

Gã chợt khựng lại, tự biết mình lỡ lời, sắc mặt hơi lúng túng, lại sợ đầu kia Mạnh Kình Tùng đợi lâu sốt ruột, chỉ đành hung dữ trừng Giang Luyện một cái rồi vội vã đi đến dưới tán cây, đưa điện thoại cho Mạnh Thiên Tư.

Mạnh Thiên Tư cũng chẳng quan tâm đến chất lượng cuộc gọi gì, cũng có thể là vì trên người bị thương nên lười hoạt động, cứ thế tựa dưới tán cây nghe máy, Khưu Đống vì tị hiềm, sang bên kia hỗ trợ chăm sóc người bị thương.

***

Giang Luyện đứng bất động một hồi.

Mười hai dao.

Nghĩ ra rồi, hắn từng thấy một bên tay và chân cô có ba vết dao, xem ra bên còn lại cũng có, truy rõ ngọn ngành, nếu không phải tay hắn hèn, để người ta lấy mất chuông vàng thì đã chẳng cần đến mười hai nhát dao này.

Cánh tay ngưa ngứa, không biết là chỗ vết thương nào không băng chặt để máu tràn ra, Giang Luyện đưa tay lau đi, đứng một lúc rồi đi về phía Mạnh Thiên Tư.

Tới gần, tiếng cô nói chuyện liên miên truyền đến, Giang Luyện bất giác nhẹ chân lại.

“… Đều là người quỷ non cả, lẽ nào tự tôi chạy thoát là xong, bỏ người ta lại chịu chết?”

“Anh đi xuống xa quá rồi, còn ngồi xe nữa chứ, đợi được các anh qua đây tôi cũng đủ thời gian vào được rừng đá treo túi mật rồi, hội hợp ở đó là được. Tôi đi đến lò sưởi rồi rẽ hướng tây, đi tắt xuyên thẳng, anh lo lắng thì phái mấy người tiếp ứng dọc đường đi.”

“Đau chớ, sao không đau? Nhưng tôi không thân với đám Khưu Đống, chẳng lẽ lại than đau trước mặt họ? Bây giờ ánh mắt họ nhìn tôi đều sáng rực như đèn pha rồi.”

Lại thở dài: “Nếu anh và Tân Từ ở đây thì tốt quá.”

Giang Luyện không khỏi mỉm cười.

Màn động thú núi ban nãy như một vở kịch hoành tráng, nhân vật Mạnh Thiên Tư chỉ mình cô mới diễn được, không ai có thể thay thế, nhưng lúc xuống đài nghỉ ngơi, cô lại chân thực trở lại, chỉ có điều sự “chân thực” này phải tùy người: nhóm Khưu Đống là khán giả nhiệt thành, quan hệ không mấy thân thiết, cô vẫn phải hàm súc thận trọng; nếu là hai người Mạnh Kình Tùng, cô đại khái sẽ than mệt than đau than khổ không dứt miệng, mặc sức tùy tiện.

Hắn ý thức được mình thất thần, vội thu hồi tâm tư phát tán.

“Anh bảo Tân Từ mau giúp tôi tìm cách lành sẹo hữu hiệu nhất đi, tôi có dùng thuốc đặc trị cũng không lành được, quá nửa là phải đi khâu sẹo thẩm mỹ rồi.”

“Phải, là tôi nói, cho qua chuyện này đi. Nhân hai cũng phải xem trường hợp chứ, ra oai với người đáng thương chẳng thú vị tẹo nào…”

Giang Luyện bước mạnh chân, ho hai tiếng.

Giọng Mạnh Thiên Tư lập tức nhỏ lại. Lát sau, cô ngắt máy, quay đầu.

Thấy là hắn, lấy làm kỳ quái: “Không phải bảo anh đi rồi à? Anh không cần tìm bạn anh?”

Chỉ cần bên quỷ non dừng tay, hai người Huống Mỹ Doanh cũng sẽ không sao, Giang Luyện giơ tay chỉ về phía rừng rậm: “Nào hổ nào báo các thứ, đêm không dám đi, sợ.”

Hắn ngồi xuống tại chỗ, còn đưa tay bưng ngực, cường điệu mức độ “sợ” của mình.

Mạnh Thiên Tư đáp lại hắn: “Có gì mà phải sợ, anh chạy giỏi lắm mà, gắng mà chạy.”

Xem ra cô vô cùng không tán thành trải nghiệm “gắng chạy” mới nếm thử này. Giang Luyện ho nhẹ hai tiếng: “Có chuyện nói chuyện, không thể một gậy đánh chết được. Lần này là tình huống cực đoan, tôi sống hơn hai mươi năm, lần đầu tiên gặp phải cái kiểu…”

Nhất thời hắn không tìm ra từ thích hợp để miêu tả đám dân trại này: “Lần sau, cô chuyển sang địa điểm khác, vào thành phố, chắc chắn sẽ không bị thất vọng nữa.”

Dù sao người thành phố đa phần đều thiếu khuyết thể lực, không mấy ai đáng khen về sức bền, hơn Mạnh Thiên Tư cũng không thể “động thú núi” trong thành phố, nếu điều động một đám thú cưng mèo chó sức chiến đấu cặn bã tới tiếp ứng thì cảnh tượng thật là…hơi bị “rúng động”.

Mạnh Thiên Tư hậm hực, có điều cô thừa nhận: đúng là tình huống cực đoan thật, sinh thời hẳn sẽ không gặp lại lần thứ hai.

Nhất thời không ai nói gì, ánh mắt Giang Luyện rơi lên chân Mạnh Thiên Tư, Khưu Đống đã tìm lại giày cho cô nhưng cô chưa đi, đặt ở một bên, vẫn để chân trần như trước, bàn chân rất đẹp, gầy vừa phải, trắng trẻo xinh xắn, đến móng chân cũng được mài sửa sạch sẽ hồng hào, nhìn là biết được dưỡng cẩn thận.

Chiếc chuông vàng kia được đeo lên mắt cá chân phải, bởi mắt cá chân mảnh khảnh, đeo chuông vàng lên sẽ rất đẹp, mang lại cảm giác quyến luyến nương tựa lẫn nhau, dịu dàng quấn quít đầy thi vị, từ đó suy ra, nếu mắt cá chân quá to, đeo dây chuyền lên chắc chắn sẽ là một hiện trường thảm sát: Không phải dây chuyền ghìm chết cổ chân thì cũng là cổ chân căng chết dây chuyền.

Giang Luyện dời mắt đi, chợt nghĩ đến điều gì, ra hiệu về hướng đám dân trại bỏ chạy: “Những người đó sẽ không bị…ăn thịt đấy chứ?”

Mạnh Thiên Tư theo hướng nhìn sang: “Thú núi nếu không phải cực đói hoặc bị uy hiếp thì sẽ không dễ dàng tấn công con người, đây là ‘động thú núi’, còn gọi là ‘thú núi qua đường’, mượn thanh thế huy động toàn bộ lực lượng của chúng để dọa chạy đám người kia.”

Dừng lại một chút, lại bổ sung: “Tất nhiên, họ có dao có búa, nếu cứ nhất định phải trêu chọc thú núi thì thú núi cũng sẽ không khách khí với họ.”

Giang Luyện nhìn về chỗ băng bó trên người cô: “Nghe nói cô lấy thân làm bùa, có phải nếu có chuông vàng sẽ…không cần bị thương không?”

Mạnh Thiên Tư nhíu mày, đoán được là Khưu Đống lắm miệng.

Chuyện quỷ non vốn không nói với người ngoài, nhưng Giang Luyện đã kể nhiều bí mật thân thế của mình cho cô biết như vậy, lại tận mắt chứng kiến thú núi qua đường, Mạnh Thiên Tư cảm thấy tiết lộ một hai với hắn cũng không sao.

Cô gảy gảy một mảnh kim loại treo trên chuông vàng, hỏi hắn: “Anh nghe chuyện Thương Hiệt tạo chữ bao giờ chưa?”

***

Giang Luyện gật đầu.

Thương Hiệt tạo chữ là một trong những thần thoại sáng thế thời thượng cổ của Trung Quốc, cùng series với “Nữ Oa vá trời”, “Hậu Nghệ bắn mặt trời”, tương truyền Thương Hiệt “mặt rồng bốn mắt”, tức là con ngươi kép, được vân trên mai rùa, dấu chim vết thú, hình dạng non nước truyền cảm hứng, sáng lập nên chữ tượng hình, kết thúc thời kỳ thắt thừng ghi nhớ.

Giang Luyện còn nhớ tiết lịch sử hồi tiểu học, cô giáo giảng đến đoạn này, từng tán tụng cống hiến của Thương Hiệu: “Các em nghĩ mà xem, thắt thừng dây ghi nhớ bất tiện biết bao, mua con lợn thắt một nút, làm cái giá thắt nút thứ hai, lão Vương nhà bên nợ tiền em, lại thắt nút thứ ba, một năm sau, trên thừng toàn là nút thắt, ai mà nhớ được nút nào với nút nào chứ?”

Thế là cả lớp phá ra cười.

Giang Luyện cảm thấy, dù Thương Hiệt có thông minh thật thì những người phía trước Thương Hiệt làm gì ngu xuẩn đến mức miệt mài thắt thừng vậy chứ? Nhưng mọi người đều cười, hắn cũng bèn cười hùa theo: Lúc hắn được Huống Đồng Thắng cho vào tiểu học thì đã quá lứa, không muốn biểu hiện mình khác người.

Mạnh Thiên Tư nói: “Ca dao có một bài về chuyện Thương Hiệt tạo chữ thế này, ‘Thương Hiệt tạo chữ một gánh kê, truyền cho Khổng Tử chín đấu sáu, còn lại bốn thưng không truyền ngoài, để lại cho thuật sĩ vẽ bùa’. Ý bài ca dao này là Thương Hiệt tạo ra rất nhiều chữ, số lượng nhiều chừng một gánh hạt kê vậy đó, đại thánh nhân Khổng Tử học đến tay cũng chỉ có chín đấu sáu, bốn thưng còn lại chính là bùa chú, người thường căn bản xem không hiểu, chỉ có người đặc biệt trải qua nghiên cứu học tập mới biết được.”

Giang Luyện gật đầu: “Nghe nói còn có một câu thành ngữ liên quan đến chuyện này, là ‘tài cao tám đấu (*)’, người đời sau dù chỉ biết tám đấu chữ, còn ít hơn Khổng Tử một đấu sáu nhưng đã có thể gọi là nhân tài rồi, nói chung là càng biết càng ít.”

(*) Nguyên văn: 才高八斗 (tài cao bát đẩu), nghĩa là “tài trí hơn người”.

Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng: “Bùa chú cũng vậy, có một số bùa chúa cổ xưa quá mức phức tạp, truyền truyền rồi thất truyền, anh đưa cho người thời nay nhận chữ, căn bản là nhận không ra.”

Giang Luyện nhớ tới những hoa văn kỳ dị khắc trên những mảnh kim loại của chuông vàng phục thú: “Của cô cũng là…”

Mạnh Thiên Tư không đáp lại ngay, chỉ dựng ngón tay đặt trước môi: “Thế này là ý gì?”

Giang Luyện bật cười: “Bảo tôi ngậm miệng lại, đừng nói.”

Mạnh Thiên Tư lại duỗi thẳng cánh tay, lòng bàn tay cản ra ngoài: “Thế này thì sao?”

Trẻ con ba tuổi cũng hiểu, nhưng Giang Luyện biết hẳn cô có thâm ý, cũng nghiêm túc trả lời: “Bảo người ta đừng tới gần, tránh xa ra.”

Mạnh Thiên Tư thu tay về, tiếp tục chủ đề vừa rồi: “Đèn đỏ dừng, đèn xanh đi; vẫy tay là bảo anh lại đây, đặt ngón tay trước môi là nhỏ giọng chút; lúc mở hội nghị, người chủ trì yêu cầu mọi người ‘đứng lên’, ‘vỗ tay’, mọi người liền đứng lên vỗ tay; ở ngã ba đường cao tốc có hai biển chỉ hướng, một cái đi Bắc Kinh, một cái đi Thượng Hải, thế là xe đi Bắc Kinh từ đó rẽ lên hướng bắc, xe đi Thượng Hải thì từ đó xuôi nam – nói thẳng ra là, bùa chú không hề phức tạp, bùa là ký hiệu hình vẽ, chú là giọng nói, đều dùng để dẫn dắt hành vi nào đó xảy ra, những ví dụ tôi ra dấu ban nãy cũng có thể gọi là bùa chú, là loại bùa chú thông dụng trong xã hội loài người, ai ai xem cũng hiểu.”

Giang Luyện như sờ được chút manh mối, họng hơi phát khô.

Mạnh Thiên Tư nhẹ nhàng thở một hơi: “Có một quan niệm thế này, bốn thưng phù chú Thương Hiệt để lại không phải là cho người xem, trên đời này ngoài loài người ra còn có chim bay cá nhảy, sông nước núi non, thậm chí là những thế lực không giải thích được, nhưng giữa hai bên có ngăn cách, muốn đả thông rào cản này cần phải mượn một công cụ nào đó để ‘thông tắc’. Lấy một ví dụ đơn giản, anh từng ở nhà lão Gàn, cũng không xa lạ gì với mặt nạ rước thần: trong phong tục dân tộc Tương Tây, na diện sư còn gọi là ba đại, họ đeo mặt nạ rước thần, sử dụng thủ quyết ba đại, mới có thể giao tiếp với thần quỷ, mặt nạ và thủ quyết có thể coi là công cụ phá vỡ rào cản giữa người và quỷ.”

Giang Luyện nghe hiểu: “Bùa chú cũng là công cụ đả thông rào cản?”

Mạnh Thiên Tư gật đầu: “Người thường rất khó lý giải loại bùa này truyền ra ngoài như thế nào, được ‘bắt tín hiệu’ như thế nào, anh có thể hiểu nó như một loại sóng, anh nhìn không thấy, sờ không được, nhưng nó thật sự đang phát huy tác dụng, trong hiệu ứng cánh bướm, cánh bướm rung động không phải còn có thể gây nên bão táp cách đó vặn dặm sao? Thế giới là một hệ thống động lực khổng lồ, một dấu tay, một loại bùa chú hoàn toàn có thể mượn phản ứng dây chuyền liên tiếp này truyền ra ngoài, hướng đến người bắt sóng.”

Nói tới đây, cô đột nhiên hỏi một câu: “Tôi nói nhiều vậy, có phải anh cảm thấy tôi rất có văn hóa không?”

Giang Luyện không ngờ được cô sẽ hỏi như vậy, nhất thời dở khóc dở cười, không biết phải trả lời thế nào.

Mạnh Thiên Tư cười khanh khách: “Tất nhiên không phải tôi nghĩ ra rồi, là cụ Đoàn nhà tôi, bà ấy là nữ sinh viên du học thời Dân quốc, những năm hai mươi ba mươi, lúc mọi người đại đa số đều vẫn đang nói quỷ luận thần, bà ấy đã dựa vào khoa học giải thích cái này cái kia rồi.”

Nói tới đây, trong lòng hơi phiền muộn: Cụ Đoàn Văn Hi mất trên đường tìm xương rồng ở Côn Lôn.

Cô cúi đầu nhìn chuông vàng nơi mắt cá chân: “Chúng tôi là quỷ non, giao tiếp với chim bay cá nhảy, sông núi đầm rừng, chiếc chuông vàng phục thú này có chín mảnh chuông nhỏ, trên mỗi mảnh chuông nhỏ đều khắc một loại hoa văn bùa phức tạp, tổng cộng chín cái, là vật độc hữu của quỷ non, một trong số đó chính là ‘động thú núi’ – có lúc tôi nghĩ, có khả năng bùa chú trong bốn thưng ấy đã được quỷ non chia vào chín cái này.”

Giang Luyện lẩm bẩm: “Hèn chi các cô lo lắng giữ gìn chuông vàng như vậy, rơi vào tay người có dụng tâm khác thì nguy.”

Mạnh Thiên Tư liếc hắn: “Anh nghĩ sai rồi.”

“Bất kể là anh hay Bạch Thủy Tiêu cầm chuông vàng này đều chẳng có tác dụng gì. Nói thẳng ra thì chuông vàng là công cụ, cần mật mã để mở ra, nhưng các người không có mật mã, mà tôi…”

Cô chỉ tay vào mình, cười xán lạn: “Vừa là công cụ, vừa là mật mã.”

Trên đời này, chỉ người ngồi trên ngai vàng quỷ non mới có thể dùng được chuông vàng phục thú, những người khác không thể, bảy vị cô bác không thể, cụ Đoàn cũng không thể.

Chuông vàng mất tích đương nhiên là chuyện lớn, bởi chiếc chuông vàng này không phải là của cô, còn phải truyền xuống tiếp – nhưng đối với cá nhân cô mà nói thì không tính là đả kích trí mạng, cũng không vì mất chuông vàng mà bó tay hết cách.

Bởi cô trời sinh đã là bùa, một lá bùa người.

Từ nhỏ cô đã thành thạo chín điệu múa bùa, rạch mười hai nét bút máu hình cung chính ngược trên người, múa điệu múa bùa trong núi rừng tăm tối, cô chính là hoa văn bùa chú sống biết múa.

Bùa người thân máu.

***

Những băn khoăn khi trước vẫn nghĩ không thông rốt cuộc cũng được giải, Giang Luyện cười rộ: “Bảo sao dọc đường tới đây, bất kể tình thế hung hiểm thế nào, cô cũng một mực không căng thẳng gì, hóa ra là có chiêu lớn.”

Lớn hơn “gắng chạy” của hắn nhiều, hơi có cảm giác gà trụi đuôi đứng cạnh phượng hoàng.

Mạnh Thiên Tư lắc đầu: “Quỷ non có giới luật, nếu không đặc biệt nguy hiểm thì không thể dùng bừa bãi, mượn dùng loại sức mạnh không thể nắm bắt này phải thành kính mời thỉnh, không thể gọi là tới đuổi là đi… Người phải có lòng kính sợ.”

Hơn nữa, không có chuông vàng, nếu không phải vạn bất đắc dĩ thì cô cũng chẳng muốn lấy dao rạch mình, nhất là ‘động thú núi’, trăm thú đáp lời triệu tập, ào ạt ra khỏi tổ, sẽ tổn thương nguyên khí rất nặng.

Nhiều hơn nữa cũng không thể nói ra tiếp được, dù sao Giang Luyện cũng không phải người nhà quỷ non, Mạnh Thiên Tư đổi chủ đề: “Đợi bao giờ trời sáng thì anh đi?”

Giang Luyện hỏi một đằng đáp một nẻo: “Tôi có thể giúp gì không?”

Kỳ quặc, người trước đó vội vàng muốn về giờ lại dây dưa không muốn đi, Mạnh Thiên Tư nhìn hắn, chợt nghĩ ra: “Anh lo lắng chuyện thận châu hả?”

Ấn đường cô lóe ra chút sắc thái khoe khoang: “Yên tâm, nói lời giữ lời tôi vẫn biết, sau khi anh và hai người Huống Mỹ Doanh hội hợp, có thể tới Vân Mộng Phong chờ… Dù sao cũng phải chờ đến lúc tôi xong việc bên này trở về rồi mới nói tiếp được.”

Giang Luyện đáp: “Cũng không phải…”

Hắn chỉ về phía mấy hộ núi cách đó không xa: “Tôi nghe nói Mạnh Kình Tùng không kịp tới đón cô, người của cô lại không nhiều, đám Bạch Thủy Tiêu bị đuổi đi rồi nhưng khó nói có thể trở lại hay không, cô biết con ả này mà.”

Cũng phải, con ả Bạch Thủy Tiêu này dù chỉ còn móng tay cũng có thể quay lại cào.

“Tôi thì còn ổn, bị thương không nặng, còn có thể ra sức, hay là để tôi đưa cô một đoạn đường đi, chờ đến lúc cô và Mạnh Kình Tùng hội hợp rồi lại nói.”

Lý do này hợp tình hợp lý, Mạnh Thiên Tư liếc thoáng qua mấy hộ núi, người nào người nấy đều nghiêng nghiêng ngả ngả, Khuông Tiểu Lục và một người khác bị trọng thương, dẫn theo sẽ làm hao tổn nhân lực, cô định để lại một người chăm sóc cho hai người họ, chỉ mang những người bị thương nhẹ lên đường, nhân thủ qua thực bị giảm xuống, Giang Luyện bằng lòng hỗ trợ sẽ đỡ được không ít.

Cô nhìn sang Giang Luyện: “Tôi không trả tiền đâu.”

Giang Luyện nói cô: “Nhà lắm tiền thế mà vẫn ki bo, thật biết làm chủ nhà mà…”

Hắn nhìn ra Mạnh Thiên Tư hơi mệt mỏi, bèn kết thúc cuộc nói chuyện này, đứng dậy muốn đi: “Không lấy tiền, dù sao ban nãy cũng là được bé hổ nhà cô cứu một mạng…”

Mạnh Thiên Tư phì cười, cô nhắm mắt lại, định chợp mắt một lúc, song vừa lùi ra sau tựa người, gáy bị cộm, “á” lên một tiếng.

Lúc mở mắt ra, Giang Luyện đã ngồi xuống cạnh cô, bảo: “Dịch ra đi, tôi xem thử xem.”

Mạnh Thiên Tư nhích người, Giang Luyện thấy rõ rồi, đưa tay sờ sờ: “Là một cục bướu cây, có dao không?”

Cũng không đợi cô trả lời, liếc thấy có con dao bên cạnh bèn nhặt lên gọt cái bướu đi, gọt xong cũng không dừng tay, trên gọt dưới đào, Mạnh Thiên Tư nói: “Mất công vậy làm gì… Đổi chỗ là được mà.”

Tay Giang Luyện bận rộn không ngừng, nhìn lưỡi dao ánh bạc cười cười: “Bề mặt thân cây hình cung, sau đầu hình cầu, lưng lại hơi cung, cô có đổi nhiều vị trí hơn cũng chưa chắc đã hợp… Con người cũng thật kỳ quặc, thà rằng động cước cũng không muốn động thủ, trên đời này làm gì có chuyện chỉ dựa vào chân là có thể tìm được tổ ấm chứ, cuối cùng vẫn phải động thủ đó thôi.”

Trong lòng Mạnh Thiên Tư khẽ động, liếc nhìn Giang Luyện: Lời này của hắn như đang nói chính hắn vậy, từ không tìm được tổ ấm, phải vừa xúc vừa khoét cái hố gặp gỡ, xây tổ cho mình, ví dụ như…làm trộm phải luyện chạy.

Cô nói: “Có chuyện này tôi vẫn muốn hỏi anh.”

Giang Luyện cẩn thận xem chỗ gọt khoét, tay vẫn bận rộn: “Cô hỏi đi.”

“Là về chuyện anh kể, Huống Đồng Thắng dạy dỗ các anh, rốt cuộc ông ấy tìm anh, Vi Bưu, và cả những người bị ông ấy loại đi, là để làm gì?”

Tay Giang Luyện khựng lại, ánh mắt hơi tối xuống, lại nhanh chóng khôi phục như thường: “Không phải đã nói rồi à, giúp ông ấy làm việc, chăm sóc cho Mỹ Doanh.”

Mạnh Thiên Tư quan sát sắc mặt hắn: “Nói vậy quá sơ lược, lúc anh nói đến đoạn này, tuy đã bị chuyển đi rất mơ hồ nhưng có một vài chi tiết lại nối vào với nhau lại không logic.”

Giang Luyện không nói gì, động tác trên tay hơi chậm lại, không nhìn cô song lời cô nói lại từng chữ từng chứ rót vào tai.

“Huống Đồng Thắng 106 tuổi rồi, là người rất lạc hậu, có rất nhiều cách làm cách nghĩ đã không còn hợp lý, thậm chí là đã bị cấm vào thời buổi hiện đại, vào thời của ông ấy thì vẫn được chấp nhận; giúp việc, thân thể khỏe mạnh đầu óc tháo vát là được, chăm sóc cho Huống Mỹ Doanh, bác sĩ, y tá đều có thể, nhưng ông ấy ngàn chọn vạn tuyển, bới lông tìm vết, đến cả đạo đức nhân phẩm cũng phải cân nhắc; lại liên tưởng tới chồng của Huống Vân Ương, Huống Phượng Cảnh, đều là giữa chừng rời bỏ, ông ấy còn từng giậm chân mắng…”

“Tôi nghe me lớn của tôi nói, trước giải phóng rất thịnh hành con dâu nuôi từ bé, không chỉ nuôi con dâu từ bé mà cũng có một vài nhà hiếm hoi nuôi cả bé trai để sau này lớn lên rồi làm con rể.”

Việc đã xong, Giang Luyện phủi vụn gỗ dính trên tay đi.

Mạnh Thiên Tư hơi ngập ngừng: “Anh và Vi Bưu, đều là vậy phải không?”

Giang Luyện lặng thinh một thoáng, chợt nở nụ cười, giọng ung dung: “Cụ nuôi tôi đúng là có ý đó, nếu Mỹ Doanh lấy chồng, ông ấy không yên tâm gả cô ấy ra ngoài cũng là điều dễ hiểu.”

Mạnh Thiên Tư ồ một tiếng.

“Vậy, quyết định cuối cùng là của Huống Mỹ Doanh hay là Huống Đồng Thắng?”

Giang Luyện nhìn cô, hơi buồn cười: “Cụ nuôi tôi dẫu là người lạc hậu nhưng cũng biết cái gì là tự do yêu đương, đương nhiên là Mỹ Doanh quyết định rồi.”

“Nhưng Huống Mỹ Doanh thích Vi Bưu?”

Giang Luyện hơi bất ngờ: “Sao cô biết?”

Đến cả Vi Bưu cũng không biết, mấy năm nay cứ ghen tuông loạn xạ với hắn.

Mạnh Thiên Tư nhướng mày: “Khó nhìn ra lắm à? Lúc bị tôi giam giữ ở Vân Mộng Phong, họ ở chung một phòng, nếu cô ấy thích anh thì đã kiêng kỵ rồi.”

Cũng phải, Giang Luyện gật đầu: “Con người Vi Bưu không tệ, Mỹ Doanh rất biết chọn.”

Hắn muốn dừng lại ở đó, nhưng Mạnh Thiên Tư lại không định dừng lại: “Nhưng tại sao Huống Mỹ Doanh lại không thích anh?”

Cô từng gặp Vi Bưu, xét về các mặt, người đó cũng không quá xuất sắc.”

Giang Luyện nhún vai: “Chuyện củ cải bắp cải thôi mà, khó hiểu lắm à?”

Mạnh Thiên Tư nhìn chằm chằm vào mắt hắn: “Rốt cuộc là cô ấy không thích anh, hay là anh làm cho cô ấy không thích anh? Một người đàn ông, muốn làm phụ nữ thích mình có thể sẽ phải phí chút sức lực, nhưng muốn làm phụ nữ không thích mình thì thực ra rất dễ.”

Thân mình Giang Luyện hơi cứng lại, từ lúc nói chuyện tới giờ, lần đầu tiên đáp lại ánh mắt cô.

Xung quanh rất yên lặng, ánh lửa rọi lên gò má họ, cũng ngấm vào mắt, ánh mắt nhuốm ánh lửa, đan vào nhau biến thành lớp chắn, ai cũng khó nhìn thấu, không ai nhìn thấu ai.

Một lúc lâu sau, Giang Luyện mới cất tiếng: “Cô Mạnh, cô hỏi nhiều quá đó.”

Mạnh Thiên Tư bình tĩnh đáp: “Tôi chỉ muốn biết anh là người thế nào thôi, hơn nữa, anh có thể không trả lời mà.”

Không sai, hắn có thể không trả lời.

Thoáng sững người, sự cảnh giác nơi đáy mắt Giang Luyện bỗng biến mất, trên mặt lại treo lên nụ cười như biển hiệu, tựa như tất cả mọi chuyện mới rồi đều chưa từng xảy ra, hắn chỉ vào thân cây: “Được rồi, cô thử xem.”

Là không bằng lòng đi sâu hơn, Mạnh Thiên Tư cũng không truy hỏi tới cùng, cô tựa người lên cây, hơi ngẩn ra.

Hắn nhìn thì như gọt khoét bừa bãi nhưng thực chất lại rất vừa người, chỗ cột sống hơi hõm vào, trên ót cũng được kê lót rất thoải mái.

Cô khen: “Làm mộc không tệ.”

Giang Luyện gật đầu: “Cũng là sở trường.”

Vừa nói vừa chống đầu gối đứng lên, nhưng ngồi xổm đã lâu, vừa dùng sức lại đã động tới vết chém trên lưng, ấn đường hơi nhíu rồi lại lập tức mỉm cười, ra vẻ không sao: “Vậy cô nghỉ ngơi trước.”

Mạnh Thiên Tư thấy chỗ áo nơi miệng vết thương sau lưng hắn thấm ra màu máu.

Không chỉ ở đó, vết thương trên người hắn đều không được băng bó tốt, lúc gọt khoét, trên cánh tay thậm chí còn trượt xuống vết máu rất nhỏ, cũng không phải là tay nghề băng bó của hắn quá vụng, hẳn là dùng vải ấn thẳng lên vết thương, không đắp thảo dược gì. Mạnh Thiên Tư đoán là hắn không hiểu biết về thảo dược lắm, hơn nữa, dược liệu xung quanh đều đã bị Khưu Đống dẫn người hái hết, cung cấp cho cô và người bị thương còn ngại không đủ nữa là đưa cho hắn dùng.

Mạnh Thiên Tư gọi hắn lại: “Đợi đã.”

Cô cầm đống thảo dược đặt bên cạnh vốn để dành cho ngày mai đổi thuốc lên, dùng nhánh cỏ buộc gọn lại rồi ném cho hắn: “Nhai nát lá cây đắp lên vết thương rồi hãy băng bó, hiệu quả cầm máu sẽ tốt hơn chúng, là cách của quỷ non chúng tôi, dùng khá ổn.”

Nói rồi dịch người, để lộ góc tựa vào cây đằng sau lưng: “Cảm ơn anh cái này.”

Nói xong, cô đổi một tư thế thoải mái, nhắm mắt lại.

Không xem phản ứng của Giang Luyện nữa.

Nhưng vẫn lờ mờ biết rằng, lửa trại đang cháy hừng hực, Giang Luyện đứng tại chỗ một lúc rồi mới rời đi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top