Vạn Giới Pháp Thần

Dịch 

Chương 40: Chuyến phiêu lưu chưa kết thúc


Cuộc sống của họ là một niềm vui bất tận và nếu như họ nhớ về quãng đời trong thế giới chúng ta thì nó cũng đẹp như người ta nhớ về một giấc mơ vậy.

Một năm nọ lại là Tumnus (người lúc này đã đứng tuổi và bắt đầu trở nên bệ vệ) đi xuống mạn bờ sông mang đến cho các vua và các nữ hoàng tin tức về một con sơn dương trắng như tuyết một lần nữa lại xuất hiện trong khu rừng của ông. Đó là một loài hươu này sẽ ban cho bạn những điều ước nếu bắt được nó.

Thế là bốn anh em cùng với những viên quan đại thần trong triều cưỡi ngựa mang theo tù và cùng một đàn chó săn lên đường đuổi theo sơn dương.

Họ không săn bắn được gì cho đến khi họ thoáng thấy bóng nó. Sơn dương khiến họ thúc ngựa chạy như bay qua những vùng đất gồ ghề, rồi bằng phẳng, qua những cánh rừng thưa rồi đến vùng rừng rậm cho đến khi ngựa của các triều thần mệt nhoài đành bỏ cuộc chỉ còn bốn anh em đi tiếp.

Cánh rừng yên ắng, những con gió nhè nhẹ mang theo cái ẩm ướt của khu rùng khiến bốn người thư thái, cái cảm giác này rất quen thuộc, họ đã cảm nhận ra ở đâu đó..

Họ thấy sơn dương chui vào một bụi rậm và ngựa chịu không thể đi qua.

Đến đây vua Edmun đề nghị nói:

“Vua và các nữ hoàng kính mến, chúng ta hãy xuống ngựa đuổi theo con thú vừa chạy vào bụi rậm kia, bởi vì trong suốt đời mình, tôi chưa hề thấy con mồi nào đáng mơ ước hơn thế”.

Bây giờ bọn chúng đã nói chuyện với nhau bằng một phong cách khác sau một thời gian dài sống trong cung đình.

Đại đế Perter cười hào sản nói:

“Edmun, em tai ta, ta đã nói với em bao nhiêu lần rồi. Khi không có người ngoài ở, chúng ta phải xưng hô với nhau như trước. Chúng ta là một gia đình.”

“Phải phải, Perter nói đúng, Edmun anh không cần quá nghiêm túc như vậy.” Lucy hoạt bát hưởng ứng luôn, cô vẫn là Lucy hồi nào.

“Em biết rồi, Đại… Perter.” Edmun xoa đầu xấu hổ nói.

“Được rồi bây giờ ta tìm con sơn dương thôi.” Susan cất tiếng giải vây cho Edmun.

Thế là họ xuống ngựa, cột ngựa vào những thân cây và đi bộ vào khu rừng sâu hun hút. Đi được một đoạn, Susan lên tiếng:

“Này, ba người, ta lấy làm ngạc nhiên lắm, dường như ta thấy có mọc lên một cái cây bằng sắt.”

“Susan, nếu nhìn kỹ chị sẽ nhận thấy đó là một cây cột bằng sắt, có một cái đèn lồng treo trên cao.” Edmund nói.

“Nhân danh bờm sư tử, đó là một phép màu.” Peter đưa ta sờ cột treo đèn nói:

“Alan đã đặt một cột đèn ở cái nơi cây cối mọc tươi tốt và cao lớn đến nỗi nếu đèn có thắp sáng đi chăng nữa, thì nó cũng chẳng chiếu được ánh sáng xuống cho con người.”

Lucy phân tích lên tiếng:

“Có vẻ như cái cột này được trồng ở đây trước. Khi ngọn đèn kia xuất hiện thì ở đây cây cối vẫn còn rất thấp, hoặc thưa hơn, hoặc chẳng có cây cối gì hết.”

Susan tiếp lời:

“Đây là một cánh rừng non trẻ còn cái cột đèn kia thì đã quá lâu đời rồi.”

Cả bốn dừng lại trầm tư nhìn cột đèn. Đoạn vua Edmund nói:



“Em không rõ chuyện này lắm, nhưng ngọn đèn trên cái cột này có một tác động lạ lùng đến em.”

“Trông nó rất quen, chúng ta đã gặp nó trước đây rồi, hình như trong một giấc mơ hoặc trong một giấc mơ của những giấc mơ.”

“Đúng thế.” Tất cả cũng kêu lên, Lucy ba người cũng có cảm giác như vậy.

“Hơn nữa.” Lucy nói.

“Em có linh cảmhoặc chúng ta sẽ có những cuộc phiêu lưu kỳ lạ hoặc sẽ có một sự thay đổi lớn trong tương lai của mỗi chúng ta nếu chúng ta tiếp tục đuổi theo con sơn dương.”

“Lucy, anh đồng ý với suy nghĩ đó.” Vua Edmund nói, cậu có cảm giác tiến lên trước sẽ tìm thấy một phần cậu đã quên mất.

“Chị cũng vậy.” Susan nói. “Nhưng chị nghĩ chúng ta nên quay về chỗ buộc ngựa và thôi không đuổi theo con hươu trắng nữa.”

Peter cuối cùng lên tiếng:

“Susan à, thứ lỗi cho ta nhưng em vẫn luôn quá cẩn thận như vậy.”

Perter tự hào nói tiếp:

“Chưa bao giờ, kể từ ngày chúng ta lên làm vua và nữ hoàng ở Narnia. Chúng ta lại không giải quyết những vấn đề trọng đại như các trận chiến, những bữa đại tiệc, những trận đấu võ, việc phân định phải trái và có vẻ như mọi chuyện đều tốt đẹp. Nếu phía trước có một thử thách, một chuyến phiêu lưu đang chờ ta thì không lên ngại ngần tiến tới.”

Lucy xen vào:

“Peter nói rất chí lý. Thật đáng hổ thẹn nếu vì bất cứ nỗi sợ hãi nào hay nguy cơ nào mà chúng ta phải từ bỏ không đi theo một con vật tuyệt đẹp và chúng ta mong muốn.”

“Em cũng có ý này.” Edmund phụ họa.

“Như vậy nhân danh Aslan.” Susan nói ”Nếu tất cả đồng lòng thì chúng ta hãy đi tiếp và đón nhận bất cứ cuộc phiêu lưu nào rơi xuống chúng ta.”

Thế là bốn anh em vua chúa đi tiếp vào rừng sâu và trước khi họ đi quá xa, tất cả thình lình nhớ lại nhớ lại thứ mà họ vừa nhìn thấy gọi là cột đèn.

Trước khi bước thêm khoảng hai mươi bước nữa họ nhận ra không phải là họ tìm đường đi qua các cành cây mà lại đi qua những lớp áo khoác.

Một phút sau cả bốn lóng ngóng đi qua cánh cửa tủ bước vào căn phòng trống trải, không còn là các vua và nữ hoàng và chỉ là Peter, Susan, Edmund, Lucy trong bộ quần áo cũ.

Vẫn là cái ngày ấy, giờ ấy khi tất cả ùa vào trốn trong tủ áo. Bà Macready và khách tham quan vẫn nói chuyện sôi nổi ngoài hành lang, may họ không bước vào căn phòng để trống làm gì và bọn trẻ không bị phát hiện.

Tối hôm đấy, Lucy rón rén trở lại căn phòng trống, cô bé mở cái tủ ra, cô bé hi vọng mình thấy lại Narnia, nhưng không có thử gì ngoài quần áo bên trong.

“Cháu làm gì ở đây vậy?”

Lucy giật mình quay lại, cô thấy giáo sư Digory Kirke đứng cạnh cửa, ông tò mò nhìn cô.

Thấy cô bé không nói gì, ông tiến gần nói:

“Cháu muốn trở lại Narnia phải không?”

Lucy kinh ngạc nhìn vị giáo sư già, cô bé thốt lên:

“Ông cũng biết Narnia ạ.”

Giáo sư gật đầu.

Tìm được đề tài, Lucy và giáo sư say sưa trò chuyện, cô bé kể cho ông nghe rất nhiều chuyện ở Narnia.

Lucy nghĩ giáo sư là một người rất đặc biệt, ông không bảo Lucy là ngu ngốc cũng không quy tội cô bé nói láo mà hoàn toàn tin vào câu chuyện đó.

Bỗng nhiên cô bé nhớ tới một chuyện, la lên:

“Thôi xong, chúng cháu quên mất Ambrose và Fayola ở đó rồi, chúng ta phải trở lại tìm hai bạn ấy.”

Lucy lại tiến vào trong cái tủ, nhưng cũng không có điều kì diệu gì xảy ra.

“Không nên.” Giáo sư Digory Kirke nói.

“Ta không nghĩ việc quay lại Narnia qua tủ áo để lấy lại mấy cái áo là việc làm khôn ngoan. Cháu không nên quay lại Narnia bằng con đường này.”

“Cháu không thể quại lại đó nứa sao?” Lucy thất vọng lí nhí trong miệng.

“Cái gì à? Có chứ, tất nhiên cháu sẽ quay lại Narnia lần nữa, vào một ngày nào đó.” Giáo sư Digory Kirke xoa đầu cô bé. Ông nói thêm:

“Cháu không nhớ Alan đã nói gì sao: Một khi đã là vua ở Narnia thì sẽ mãi là vua ở đấy.”

“Nên đừng cố làm như vậy thêm một lần nữa. Cái gì phải đến sẽ xảy đến vào lúc các cháu không hề mong đợi. Đừng bàn tán quá nhiều về chuyện này dẫu là giữa các cháu với nhau chăng nữa.”

Ánh mắt cô bé lấp lánh, cô gật đầu.

“Cũng đừng đề cập đến chuyện này với bất cứ ai trừ phi là các cháu thấy họ cũng có những cuộc phiêu lưu tương tự.”

Giáo sư Digory Kirke bây giờ trông giống một ông già lẩm cẩm, ông nói:

“Ồ, cháu rồi sẽ hiểu tất tật. Những điều kỳ lạ người ta nói sẽ bộc lộ những điều bí mật. Hãy mở to mắt ra mà nhìn.”

“Trời đất ạ, không hiểu ngày nay người ta dạy các cháu những gì ở trường?”

Lucy che miệng cười khúc khích.

Và thế là câu chuyện về cuộc phiêu lưu trong tủ áo đến đây là hết. Nhưng nếu giáo sư nói đúng thì đấy mới chỉ là bắt đầu những cuộc phiêu lưu ở Narnia.

---------Hết quyển 1---------
 
Chương 41: Khởi hành


Một tuần sau lễ đăng quang của anh em Penvensive, Ambrose và Fayola cùng tùy tùng trở về lâu đài Phù thù thủy trắng. Trước khi rời khỏi Narnia, hai người cần thu dọn tài sản của mụ phù thủy ở đó.

Ẩn sĩ không đi theo cậu, ông bảo rằng ông đi chuẩn bị thuyền, bọn họ sẽ khởi hành trong nửa tháng tới, thật là nhanh, chắc ông có giao ước với Alan, còn về vụ ba năm lao động bị xóa bỏ.

Đoàn người đi dọc sông Lớn, lần này không còn mấy con ngựa hay tuần lộc nào kéo xe, bọn chúng đã được tự do. Hai người buộc phải đi thuyền, cái thuyền này là do vị Ẩn sĩ biến ra, may mắn là quãng đường không quá xa.

Nhìn tổng thể Narnia cũng không rộng lớn, nó chỉ to bằng nửa Iceland ở thế giới thực, từ Khúc cạn Becruna tới lâu đài phù thủy cũng chỉ hơn một trăm ki lô mét.

Bây giờ, mùa xuân đã tới, con sông không bị đóng băng như trước, dòng nước nó khá lớn và mạnh. Dọc con sông, Ambrose có thể thấy những cánh rừng đã chuyển màu áo xanh tươi, nhiều loại hoa mùa xuân nở rộ, như hoa đào, hoa trà, hoa anh thảo,... ta có thể nghe tiếng vo ve ong mật, mùi hoa thoang thoảng.

Không khí cực kì trong lành, ta cảm thấy không khí từ khí quản xuống dạ dày, rồi ngược lại. Ambrose thư thái nằm trên khoang thuyền tắm nắng, và cảm nhận vạn vật xung quanh.

Ngày hôm sau, bọn họ tới lâu đài phù thủy, nó trông toang hoang không tả nổi, tường thành bị sập một mảng rộng, các cánh cửa bị bật tung. Điều quan trọng nhất là nó đang tan ra, từng giọt nước rơi xuống máy chóp như mưa.

Ambrose nghĩ họ chỉ ở đây được nhiều nhất năm ngày, vì sau đó sẽ chẳng còn lâu đài nào cả, cậu nói với bọn bề tôi:

“Các ngươi đi vào lâu đài, cái gì còn sử dụng được thì mang đi….”

“Vâng, đức vua.” General Otmin vâng lệnh,

“Còn nữa, phải cẩn thận với mấy cuốn sách trong thư viện.” Fayola bổ sung.

Otmin để tay trước ngực cúi đầu, rồi ông chỉ đạo mấy tên khác bắt đầu dọn dẹp.

Trong mấy người trung thành với phù thủy, một nửa họ đã đi giúp Ẩn sĩ đóng thuyền, một nửa còn lại do Otmin chỉ huy hộ tống Ambrose hai người.

Nhìn mọi người bắt đầu công việc, Fayola nói với Ambrose:

“Chúng ta bây giờ tới phòng nữ hoàng, ta có thể tìm được một vài thứ.”

Ambrose gật đầu, sau đó cậu và Fayola theo trí nhớ đi về phòng ngủ của mụ phù thủy.

“Ầm.” Cánh cửa nặng nề mở ra, hai người đi vào một căn phòng trắng muốt, bên trong không có nhiều đồ đặc. Chính giữa phòng là một cái gường rộng lớn, góc bên phải có một cái tủ, góc trái đặt một giá sách.

Hai người chia nhau đi trái phải, Ambrose đi tới cái tủ to kệch, nó làm bằng gỗ sồi, cậu mở cánh tử ra, bên trong chứa đầu quần áo, mấy bộ áo lông thú mụ phù thủy hay mặc, mấy cái đầm,... Ngoài ra không có thứ gì hữu dụng cả.



Fayola bên kia cũng lắc đầu, cô cũng không thấy thứ gì giá trị.

Hai người đi tới bên cái gường, Ambrose lật bỏ lớp đệm, bất ngờ bên dưới nó có một cánh của xếp. Nói thật cậu cũng không bất ngờ lắm, từ sau vụ ngục giam mà để chìa khóa ngay ngoài cửa, cậu kết luận người dân Narnia không có thói quen đề phòng người khác lẻn vào nhà. Không ngờ mụ phù thủy cũng vậy, nơi dấu đồ của mụ chắc chỉ để bọn người hầu không nhìn thấy thôi, chắc mụ cũng tự tin không ai vào phòng mình lục lọi.

Ambrose lật cánh của sang một bên, trong khi Fayola ra ngoài phòng lấy hai cây đuốc, Ambrose đi trước dò đường, ánh đuốc lập lòe nhưng cậu vẫn thất rõ đây là một mật đạo bằng băng, nếu để mấy hôm sau băng tan hết thì không còn ai biết tới kho báu mụ phù thủy.

Các bậc thang rất trơn, hai người phải dò từng bước một, bọn họ đang đi lên trên, đúng vậy lên trên, Ambrose đoán mụ phù thủy xây hầm bí mật ở lưng chừng núi cho tiện phi tang chăng?

Sau khi đi ríc rắc vài vòng, bọn họ tới một hang động. Chính xác Ambrose đã đoán đúng, khi tuyết tan hết thì con đường nối lên hang động này biến mất, không ai có thể tìm ra nó.

Ambrose tiến vào, bên trong trống hang khá nhỏ, chỉ đủ cho một người đi qua, cai hang thông thẳng vào trung tâm quả núi, cậu phải thật cẩn thận vì những mỏm đá ở đây rất sắc nhọn.

Cuối cùng họ cũng tới kho báu phù thủy, thật nhiều vàng, dường như toàn bộ vàng ở Narnia bị mụ thu thập ở đây, chỗ này cũng phải tới chục tấn, không những thế còn có nhiều sản vật như một cái ngà voi to hơn cột đình, một bộ lông hổ trắng to hơn mười mét vuông,...

Mấy thứ này bọn họ không để ý, hai người đã bàn trước là tìm sách phép thuật của phù thủy, chúng xông tới lục lọi đống châu báu.

Thật may mắn, hai người tìm được chính xác bảy quyển sách ma thuật, phân biệt bảy màu cầu vòng đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.

Chúng hồi hộp mở một quyển ra xem, nhưng bên trong viết những kí tự kì lạ, không thể hiểu được.

Fayola lên tiếng:

“Không biết đây là chữ gì, chúng ta có thể hỏi Ẩn sĩ, ông ta khả năng biết.”

“Mình cũng nghĩ vậy.” Ambrose gật đầu, cậu không nghĩ ra cách nào tốt hơn.

“Bây giờ chúng ta mang đi được bao nhiêu thì mang, xây dựng một đất nước cần rất nhiều tiền.”

Hai người chỉ mang theo bốn cái túi, mặc dù chúng có thi chú mở rộng không gian nhưng không nhét hết được, Ambrose nghĩ là họ phải đi mấy lượt.

=========

Nói tới chỗ Ẩn sĩ, ông cho mọi người tập chung lại nói:

“Bây giờ tất cả các ngươi vào rừng chặt những cây gỗ to nhất, tốt nhất, chắc nhất mang về đây.”

Cả lũ vác rìu vào rừng, chỉ sau một ngày, bọn chúng đã đốn được hơn hai trăm cây gỗ, Ẩn sĩ hài lòng nhìn bọn chúng, ông nói:

“Rất tốt, các ngươi bây giờ tránh ra, ta niệm chú khiến chúng biến thành thuyền.”

Cả bọn kinh ngạc lùi ra sau, chúng chăm chú nhìn Ẩn sĩ niệm chú. Chúng thấy ông ta đứng trên một tảng đá, hai tay ông giang ra hai bên, một giai điệu huyền ảo toát ra từ trong miệng ông, chúng chỉ cảm nhận được nhưng không nghe rõ nó.

Đột nhiên, mấy cây gỗ như sống lại, chúng nhảy múa, tự xếp thành hình một cái thuyền, rồi nhũng dụng cụ làm thuyền cũng bật dậy, chúng bào, cưa, gọt mấy thanh gỗ.

Tiếng ‘đục’ ‘đục’, ‘Xoẹt xoẹt’,... liên tục vang lên như một đoạn nhạc.

Đầu tiên là khung thuyền, rồi tới cột buồm, tiếp là vỏ thuyền,... từng bộ phận con thuyền hoàn thành.

Liên tục như vậy gần mười tiếng đồng hồ, thành quả là hai mươi chiếc thuyền mới banh xuất hiện.

===============

Trở về lâu dài, Ambrose sai người chuẩn bị xe kéo, vận chuyển chỗ kho báu lên thuyền, cả đoàn người ở lại lâu đài hai đêm, sau khi sắp xếp xong, họ khởi hành đi về bờ biển, nói Ẩn sĩ chờ sẵn.

Bọn chúng thật bất ngờ, trong vòng không đầy hai ngày, Ẩn sĩ đã làm xong hai mươi con thuyền vượt biển. Chiếc nào chiếc đấy đều dài hơn hai mươi mét, bên trong chứa được một trăm người bao gồm thủy thủ đoàn.

Bọn họ mấy thêm hơn một tuần để huấn luyện binh sĩ lái tàu, chuẩn bị đò ăn và nước uống.

Hôm nay, trời đẹp gió đông bắc thổi nhẹ, thời tiết rất đẹp cho chuyến ra khơi, đội thuyền đã sẵn sàng, thủy thủ đầy đủ, thần dân của vương quốc mới đã lên thuyền.

Ambrose đứng con thuyền lớn nhất, con thuyền này tên là Ánh rạng đông (Lux Aurorae), bên cạnh cậu là vị Ẩn sĩ và Fayola, cậu hồi hội không chịu được, cậu nói to về phía mọi người:

“Nhổ leo, căng buồm, mục tiêu của chúng ta là The Seven Isles.”

Ánh rạng đông (Lux Aurorae) dẫn đầu đoàn thuyền tiến về hướng đông bắc.
 
Chương 42: Nước uống, chim và giun


The Seven Isles là một quần đảo gồm bảy đảo lớn và vô số hòn đảo nhỏ xung quanh, nó nằm phía đông bắc Narnia, cách bờ biển khoảng hai trăm hải lý.

Suốt một nghìn năm lịch sử của Narnia không một ai chọn tới đây sinh sống, hiện tại nó thật rất ‘hoang sơ’. Tuy họ biết vị trí quần đảo nhưng không có bản đồ cụ thể từng hòn đảo.

Tới tận bây giờ, chưa có ai đặt tên cho chúng, hai người thống nhất hòn đảo đầu tiên họ đến tên là Avaritia.

Đoàn thuyền lênh đênh trên biển suốt bảy ngày, cuối cùng họ nhìn thấy hòn đảo đầu tiên của The Seven Isles.

Ấn tượng đầu tiên về hòn đảo là nó rất xanh tốt, cả hòn đảo phủ đầy rừng cây. Địa hình hòn đảo nghiêng theo hướng từ bắc xuống nam, ta thấy rõ những dãy núi cao hiểm trở phía bắc, và đồng bằng, rừng rậm ở phía nam.

Con thuyền ‘Ánh rạng đông’ cập bờ phía nam hòn đảo, thủy thủ đoàn nhanh chóng vận chuyển đồ thám hiểm xuống thuyền con. Chúng là mấy cái lều, vũ khí, đò ăn, thức uống, v… v...

Trước khi tới đây, Ambrose cùng mấy người bề tôi đã bàn nhau rồi. Chuyện đầu tiên trước khi khai hoang một hòn đảo trên biển là tìm được nguồn nước, đây cũng là mục đích trước hết của đoàn thám hiểm.

Đoàn thám hiểm gồm một trăm người, chúng đều là những chiến sĩ cùng mụ phù thủy đi tới doanh trại Alan.

Ambrose và Fayola dẫn đầu đoàn, phụ giúp hai người là Ẩn sĩ và báo đen Black Panther, chọn báo đen mà không chọn Otmin vì ông ta thân hình nhỏ bé và linh hoạt, ông dễ dàng đi lại trong rừng hơn thân hình cao lớn của Otmin.

Riêng phần chuyển đồ và chuẩn bị thám hiểm đã ngốn cả đoàn một buổi chiều. Bọn họ nghỉ trên bờ biển một đêm, sáng sớm hôm sau họ xuất phát, Ẩn sĩ đi đầu nói:

“Chúng ta đi thẳng về hướng đông, với dạng địa hình này thì những con sông, hay con suốt thường chảy theo hướng Bắc Nam, chẳng mấy chốc ta sẽ gặp nguồn nước.”

Ambrose gật đầu, cậu cũng nghĩ vậy. Fayola cô bé không có ý kiến gì. Cả đoàn theo hướng đông vào rừng.

Rừng cây tại đây âm u hơn Ambrose nghĩ, từng lớp lá, từng lớp cây cối đan xen khiến ánh sáng khó lọt qua. Độ ẩm không khí rất cao, cậu có thể ngửi thấy mùi thực vật phân hủy, mùi đất rõ ràng.

“Xoẹt xoạt.” Ba tên lính đi trước mở đường, bọn họ cầm thanh kiếm chặt mấy cậy thân leo chắn lối.

Đoàn thám hiểm càng ngày càng xa bờ biển, Ambrose lúc trước còn nghe rõ tiếng sóng vỗ rạt rào, bây giờ cậu không nghe thấy gì cả. Khu rừng này quá yên ắng, không biết thứ gì đang đợi họ phía trước.

Bỗng nhiên, một người hét lên:

“Có thứ gì đang kéo tôi… CỨU.”

Ambrose quay lại thấy anh ta nằm sấp, hai tay bám chặt một gốc cây bên cạnh, một thứ dài dài quấn lấy chân anh ta, nó đang kéo anh ta vào bụi cây.

Thật may mắn ở đây đều là những chiến sĩ tinh nhuệ của vương quốc, nếu là người bình thường chắc chắn đã bị kéo đi mất tăm không biết sống chết rồi.

Mười người lính đi cuối phản ứng thật nhanh, họ chia nhau hai người mang kiếm đi chém thứ dài dài đấy, tám người khác giữ lấy người lính đen đủi. Những người còn lại trong đoàn nhanh chóng hộ vệ quanh Ambrose hai người.

“Phập.” Thứ dài dài bị chém đứt, phần còn lại của nó vẫn bấu chặt lấy người lính, nó quằn quạy như cái đôi thạch sùng bị đứt.

Người lính đen đủi hoàn hồn, anh cảm ơn mấy đồng chí giúp đỡ, anh đứng dậy gỡ cái dài dài ra khỏi chân, rồi anh ta mang nó tới gần Ambrose và Fayola.

Ambrose thấy nó nhầy nhầy, màu đen thui, bóng bóng, bên trong nó như có nước vậy. Trên người nó tỏa ra một mùi hôi khủng khiếp. Cậu nhìn Ẩn sĩ hỏi:

“Ẩn sĩ, ông có biết đó là gì không?”



Ẩn sĩ vuốt vuốt râu, ánh mắt nghiêm nghị:

“Đây là một con giun Wuchereria, nó thường xuất hiện vùng rừng rậm phía nam, không ngờ nó có mặt ở đây. Chắc là nó theo dòng hải lưu trôi rạp tới hòn đảo này...”

“Ở đây còn một con nữa…” Đúng lúc này, một người kêu lên cắt đứt lời ông.

Mọi người nhanh chân xúm lại xử lý con giun, Ẩn sĩ thấy vậy nhắc nhở:

“Bắt sống lấy nó, chúng ta có việc phải nhờ con giun.”

Quân lính tuân lệnh, bọn họ mỗi người cầm một cái sô, thứ mang theo để đựng nước, họ bao vây lấy con giun. Bằng một cái vồ ếch khéo léo, con giun bị nhốt gọn gàng trong cái sô.

Ambrose nhìn kĩ con giun, lần này nó nguyên vẹn. Con này nhỏ hơn con trước nhiều, nó to bằng một ngón tay và dài hơn hai mét. Trông nó rất khỏe, con giun quành quạy khiến cái sô kêu thùng thục.

Fayola ghé mắt nhìn con giun, rồi nhanh chóng quay đi, cô bé hỏi Ẩn sĩ:

“Con vật này thật xấu xí. Chúng ta làm gì với nó?”

Ông ta từ từ đón lấy con giun nói:

“Loài giun Wuchereria sống theo bầy, trong đó, cầm đầu là giun chúa, nó to gấp mười lần giun bình thường, con này chỉ là con giun non thôi.”

Ambrose nghĩ mà cả người run lên, to gấp mười lần, vậy giun chúa to như con chăn khổng lồ rồi, cậu thứ tưởng tượng một cái ổ có một con giun chúa to như vậy, xung quanh bò nhúc nhúc mấy con giun khác, cả bọn đều nhớt nhớt, bốc mùi.

“Điều quan trọng là, loài giun Wuchereria làm tổ sống ở trong một hồ nước, chúng sẽ tiếp tục sống ở hồ nước ấy tới khi cả hồ đầy giun, rồi giun chúa sẽ chia tổ, đi tìm hồ nước khác. Nhìn xem hai con giun này chắc là quân dò đường, đàn giun chuẩn bị chia tổ rồi.” Ẩn sĩ nói tiếp.

Lần này Ambrose hoảng rồi, một hồ nước nhỏ nhất cũng hơn một héc ta, cả một hồ ta như vậy nhúc nhích đầy giun, cậu khó khăn nói:

“Chúng ta có thể tìm nguồn nước từ đấy, nhưng bọn giun hôi như vậy, nước đó ta có dùng được không?”

Fayola nghe vậy nhất trí, da gà cô bé nổi hết lên từ lúc nào. Mấy còn giun này thật kinh tởm.

“Yên tâm đi nhà vua, giun Wuchereria chỉ sống trong hồ nước hở, nghĩa là hồ nước có sự bổ sung nước từ một vài con suối và nước trong hồ cũng thoát ra một đường khác. Chúng ta chỉ cần chờ vài tuần là có một hồ nước mới tanh.” Ẩn sĩ giải thích.

“Bây giờ ta sẽ dùng phép thuật làm cho con giun khô lại rồi nó sẽ phải tự tìm về tổ.”

Nói xong, Ẩn sĩ miệng niệm thần chú, năm chùm lửa nhỏ xuất hiện, chúng bay lòng vòng quanh cái xô và hong khô con giun.

Sau một phút, con giun như bị xẹp đi một nửa vậy, Ẩn sĩ bấy giờ thu hồi lại phép thuật, ông thả con giun xuống đất. Vừa chạm đất nó như tìm được tự do, nó vội vàng bò cong cong về phía trước.

Ẩn sĩ nói với mọi người:

“Nhanh, chúng ta đi theo con giun, chú ý đừng mất dấu nó…”

Nói thật được lần theo dấu vết của một con giun đen sì, lại trong một cái khu rừng tối tăm như vậy là cực kỳ khó.

Mọi người ai ai cũng phải cắng mắt lên tìm kiếm dấu vết của nó.

Sau gần một tiếng đông hồ lọ mọ và chui rúc, họ thoát khỏi khu rừng rậm và đến một bãi cỏ thưa hơn nhiều. Lúc này cũng nhận thấy mùi hôi thối càng ngày càng đậm đà.

Ambrose đoán rằng mình đã tới cái hồ hay nói chính xác hơn là cái ổ giun, cậu ngước lên nhìn.

Thật là một khung cảnh kinh dị, Ambrose thề cậu chưa bao giờ thấy thứ nào hơn thế. Một cái hồ nước không có tí sóng nào, chỉ có mấy con giun đang ngoi lên ngoi xuống, thỉnh thoảng chúng phun bọt vàng khè, mấy bong bóng vàng ấy bay lên nửa mét trên không rồi “Pục” vỡ ra.

Fayola che miệng lại cố kìm nén cảm giác buồn nôn, cô bé nhìn lão Ẩn sĩ nói:

“Cháu nói thật, dù cho nước hồ có sạch thật đi chăng nữa, cháu vẫn không dám uống nước ở đây đâu. Chúng ta phải làm gì đi chỗ này thật là kinh tởm?”

Ẩn sĩ cũng thấy ghê ghê, ông hối hận về đề nghị của mình, nhưng nếu không có nguồn nước khác thì bọn họ phải đành chịu thôi, ông đề nghị:

“Vậy ta sẽ triệu hồi ngọn lửa đốt cháy hết của chúng, chất nhớt nhớt của mấy con giun là thứ rất bắt lửa...”

Ông chưa nói hết thì biến cố nổi lên, gió thổi mạnh khiến những cái cây nghiêng ngả, lá rụng bay khắp nói. Nhưng dây không phải gió thổi ngang mà là từ trên trời thổi xuống đất.

Ambrose ngần đâu lên nhìn, trên hơn hai mươi cái bóng khổng lồ. Đó là những con chim, Ambrose nhận ra, những con chim đủ to để ăn những con giun khổng lồ.

Fayola lo lắng nói, cô sợ mình bị mấy con chim coi là giun:

“Chúng ta lấp đi, những con chim kia quá to, có khả năng chúng tấn công ta.”

Mọi người cũng nghĩ như vây, họ nhẹ nhàng lùi về bụi cây rậm rạp, chờ đọi đàn chim bay đi.

Thật không ngờ, với kích thước không lồ như vậy, mấy con chim này có thể bay đứng như chim ruồi, Ambrose hứng thú quan sát đàn chim, cậu nhận xét.

Lũ chim co đôi cánh lại rồi lao mình xuống mặt hồ, tới nơi, chúng bật mở đôi cánh ra hết cớ: cả thân hình con chim như một cái tàu lượn lướt trên mặt hồ.

Chúng dùng mỏ cắp lấy một con giun rồi bay lên nuốt chửng. Chúng lao lên lao xuống như vậy, cho tới khi cái diều căng đầy.

Không biết chúng làm thế nào mà chịu được mùi vị mấy con giun, Ambrose tự hỏi. Cậu đoán chúng đang nuôi con cho nên mang ăn nhiều như vậy. Đột nhiên, cậu có một ý tưởng lóe sáng trong đầu, cậu nói hỏi Ẩn sĩ:

“Ông nghĩ chúng ta có thể thuần hóa được loài chim kia không?”

“Thật thông minh, Ambrose. Cậu định dùng chúng là phương tiện đi lại à.” Fayola nhận ra ngay ý tưởng của cậu.

“Ta nghĩ có thể, loài chim này trí thông minh khá thấp, chính xác là chúng không có trí khôn giống con người, ý tưởng của điện hạ sẽ thành công.” Ẩn sĩ suy tư nói.

“Nếu vậy ta phải tìm nguồn nước khác rồi, chúng ta phải giữ lại bầy giun làm thức ăn cho lấy con chim.” Fayola chỉ ra vấn đề, trong lòng cô bé luôn kháng cự việc dùng nước hồ này.

“Chúng ta có thể dùng nước thượng nguồn, Ẩn sĩ vừa nói ràng đây là một cái hổ hở, nó co nguồn nước bổ sung, ta chỉ cần tìm nó. Và cẩn thận dùng không quá nhiều để bầy giun đủ nước sống, mặt khác ta có thể hạn chế được số lượng giun trong hồ. Không để chúng bò lung tung tới chỗ khác.” Ambrose nghĩ ra cách nói.

“Đúng vậy, chúng ta có thể giải quyết nước uống, giun và chim.” Fayola nói.
 
Chương 43: Dự định


Ẩn sĩ híp mắt nhìn Ambrose và Fayola bàn bạc, chúng là hai đứa trẻ thông minh, đầy ý tưởng sáng tạo và rất chăm chú học hỏi, ông nghĩ.

“Rất tốt, lũ chim đã bay đi rồi, chúng ta phải tìm nguồn nước khác thôi.”

Ambrose nhìn ra cái hồ, không còn một bóng chim nào cả, cậu nói với Black Panther:

“Panther, chú có thể đi trước tìm nguồn nước không, nó ở đâu đó quanh hồ thôi.”

“Vâng, điện hạ, thần đi ngay.” Báo đen tuân lệnh, ông nhún mình lao về phía cái hồ, ông vòng lên trên phía bắc, hướng đó có khả năng lớn có nguồn nước.

Chỉ sau năm phút ông trở lại, ông bẩm:

“Thưa đức vua và nữ hoàng, thần tìm thấy một thác nước nhỏ phía trước.”

Một thác nước, nếu vậy họ không thể lấy nước ở đó được, hơn nữa nó quá gần cái hồ bốc mùi. Ambrose e ngại nước ở đó bị nhiễm nhiều thứ khác.

“Chúng ta vòng lên tháp nước, lấy nước ở xa hơn.”

Cả đoàn thám hiểm khởi hành, bọn họ đã tìm được mục tiêu, rất nhanh họ đi tới tháp nước. Nó rộng khoảng một mét, đúng như Ambrose đoán tại đây vẫn thoang thoảng mùi giun.

Bọn họ đi vòng lên tháp, phải đi thêm hai cây số nữa thì mới hết mùi, Ambrose quyết định đi thêm một cây nữa cho an toàn.

Chỗ này là một ngã ba, hai con suốt chập lại thành một, với lại ở đây nhiều đá nên nước rất trong. Địa thế khá cao, lợi dụng chênh lệch độ cao để đưa nước về.

“Chúng ta sẽ lấy nước ở đây.”

Buổi chiều, cả đoàn bắt đâu công việc dẫn nước về bờ biển, họ chặt gỗ, làm máng nước. Ẩn sĩ dùng phép chỉ thẳng đường từ Ngã ba suối tói bờ biển, mọi người theo đó mà chặt cây, vừa lấy nguyên liệu làm máng nước, vừa thông đường để sau này dễ bảo quản, sửa chữa đường dẫn nước.

==========

Ambrose và Fayola không giúp được gì, hai người giao cho báo đen Black Panther phụ trách, rồi trở về bờ biển.

Bây giờ, bãi biển không chống trải như trước, một cái lều rất to dựng lên, xung quanh mấy cái lều khác đang được lắp đặt. Otmin và đội của anh làm việc rất hiệu quả.

Xa xa hai mươi chiếc thuyền đã neo lại, một số thần dân không chịu nổi không gian chật hẹp khoang thuyền, họ xuống bãi biển đi dạo. Thấy hai người đi qua, bọn họ cúi đầu hành lễ.

Hai người bước vào lều chính, trong này đặt hai hàng ghế, Otmin cung kính nói:

“Chúc mừng đức vua và nữ hoàng tìm được nguồn nước.”

“Chú không cần đa lễ, lều có đủ cho người dân không?” Ambrose hai người trở về vị trí của mình, đó là hai cái ghế được xếp cao hơn mấy cái khác.



“Đủ, thưa đức vua.”

“Rất tốt.” Do thời gian quá ngắn, cậu sợ không chuẩn bị đủ chỗ ở cho mọi người.

“Chúng ta có một nhiệm vụ quan trọng, Chú bây giờ dẫn tàu men theo hòn đảo này một vòng, rồi vẽ một tấm bản đồ bao quát hòn đảo nhất có thể.”

Nguồn nước đã có nhưng nó quá ít, không phù hợp để phát triển lâu dài, cậu phải tìm một chỗ khác tốt hơn, cậu rất hy vọng vào kết quả chuyến khảo sát của Otmin.

“Tuân lệnh.” Nói xong, Otmin ra khỏi lều.

Ambrose hỏi Fayola:

“Dân số của đất nước hiện tai có bao nhiêu?”

Sau khi Fayola đồng ý kế thừa đất nước của phù thủy, hai người ăn ý chia nhau việc, Ambrose lo nhiều hơn về quân đội, còn Fayola quản lý dân chúng.

“Chúng ta có tất cả 3146 người, trong đó một phần ba là quân lính.”

“Số lượng vậy thật ít ỏi.”

“Đúng vậy, có rất nhiều chủng loài khác nhau, vô cùng phức tạp.” Fayola bổ sung.

“Chúng ta theo ưu điểm từng chủng loài mà phân công.” Ambrose nêu ý kiến.

Ví dụ có loài người lùn, họ là những thợ mỏ, thợ rèn trời sinh. Hay tộc đầu trâu hình người, họ là những chiến binh to khỏe nhất vương quốc.

“Mình cũng nghĩ vậy, chúng ta có thể mua nô lệ ở Carlomen.”

Theo sách viết, có tất cả ba quốc gia lớn nhất trên lục địa là Narnia, Archerland và Carlomen. Narnia ở phía bắc, Carlomen ở phía nam còn, Archerland ở giữa hai quốc gia này.

Carlomen là một quốc gia hiếu chiến, nó thường xuyên bành chướng những vương quốc xung quanh. Hằng năm, các cuộc chiến mang lại cho họ tiền bạc, của cải, đặc biệt là nô lệ, nguồn lao động chính cả vương quốc.

Nô lệ được mua bán tự do, chỉ cần có đủ tiền muốn mua bao nhiêu cũng được.

“Chúng ta đủ tiền mua bao nhiêu người?” Ambrose hỏi Fayola, cô bé kiêm luôn chức giữ quốc khố.

“Mình đã hỏi Ẩn sĩ giá tiền rồi, ông không chắc làm vì lâu lắm rồi ông chưa tới Carlomen, nhưng theo tính toán ta tối đa, mua được một nghìn người thôi.”

“Vậy cũng là rất nhiều rồi, ngoài ra chúng ta còn phải mua hạt giống và gia súc nữa.”

Có quá nhiều thứ phải chi tiêu, mà tiền không nhiều. Tuy có thể bắt cá ăn nhưng không phải chủng loài nào cũng ăn cá được.

“Chúng ta chỉ có hai mươi con thuyền thôi, chờ khi tìm được nói thích hợp cho dân chúng sống, ta sẽ điều bảy chiếc tới Carlomen mua đồ.”

Bọn chúng cũng nghĩ tới nhờ Ẩn sĩ dùng phép thuật làm ra thêm thuyền, nhưng chúng không thể mãi dựa vào ông được, nếu không, chúng sẽ giống như Narnia khi gặp việc gì chỉ biết cầu nguyện Alan sẽ giúp vậy.

“Mình nghĩ để Hag đi tới Carlomen, bà ta là phù thủy, sự khôn khéo của bà có thể khiến chúng ta bất ngờ.”

“Nhưng bà có quá xấu không...”

Hag là mụ già nhăn nheo, mũi bà ta nhọn như đỉnh núi cao nhất Narnia, bà ta lùn tịt, không những thế lưng bà còn bị còng.

“Chắc bà ta phải có cách ngụy trang…”

Con phù thủy Hag là một bề tôi trung thành của mụ phù thủy, nói thật lòng, cả hai người đều không ưa bà ta, nhưng vì bà có uy tín cao trong người dân, nên chúng phải giữ mụ lại dùng.

Hai ngày sau, Otmin cùng con thuyền trở lại, ông mang về một tấm bàn đồ khá chi tiết về hình dạng hòn đảo.

Hòn đảo này có hình giống con hải cẩu, phía Bắc lưng hải cẩu là các dãy núi song song, cao chót vót. Còn về phía bụng hải cẩu, tức phía Nam, là rừng và đồng bằng, bãi cát ven biển. Cái mũi hải cậu là cực đông, là nơi các ngọn núi gặp biển.

Bây giờ, bọn họ đang ở gần về phía đuôi của con hải cẩu.

Hòn đảo này không có con sông lớn nào cả, Otmin không tìm thấy cửa sông nào. Ông nhìn thấy mấy thác nước nhỏ trên vách đá.

Điều bất ngờ là phía nam của hòn đảo là một thảo nguyên khá rộng, trên đó có một cái hồ, ta có thể nhìn thấy từ biển, theo Otmin thấy, cái hồ nước này nằm trên một cao nguyên.

Chính cái cao nguyên này chia hòn đảo thành hai khu rừng riêng biệt.

Đây, chính nó là chỗ thích hợp để xây dụng thủ phủ hòn đảo, gần nguồn nước, gần biển, có đồng cỏ để chăn nuôi và trồng trọt. Vị trí này cũng là trung tâm của hòn đảo hay cái rốn của con hải cẩu.

Trong tính toán cảu mình, cậu cũng không nghĩ bỏ lại chỗ này, Ambrose định quy hoạch đây thành nơi đóng quân lực lượng không quân đầu tiên của cả thế giới.

Quay lại tổng thể hòn đảo dài khoảng hai mươi ki lô mét và rộng mười ki lô mét, trừ đi diện tích khác, thì nó rộng khoảng mười ki lô mét vuông, nếu hai người sắp xếp họp lý thì hòn đảo đủ cho hơn mười ngàn người sinh sống.

Otmin cũng nhìn thấy được mấy hòn đảo còn lại, ông vẽ sơ qua về vị trí của chúng, hòn đảo gần nhất về phía bắc cách hơn năm mươi ki lô mét, hòn đảo về phía nam cũng hơn sáu mươi ki lô mét.

Khoảng cách khá xa, Ambrose từ bỏ suy nghĩ khai phá nhiều nơi một lúc, trên đảo này có một loài loài giun quá cỡ, một loài chim khổng lồ, ai biết còn gì nữa…. bây giờ mọi thứ còn quá sớm
 
Chương 44: Khó khăn


Thời gian 4 năm nháy mắt qua đi, The Seven Isles nói chung và hòn đảo Avaritia nói riêng đã thay đổi toàn diện. Tại mỗi đảo bây giờ đều có quân đội thường trú, mới tháng trước Ambrose và Fayola quyết định khai hoang đảo Superia ở phía bắc Avaritia.

Đảo Avaritia đã đông đúc hơn nhiều, nhờ kế hoạch sinh sản, cộng thêm mua nô lệ từ các quốc gia phái nam, hòn đảo bây giờ đã có gần 8 000 dân sinh sống.

Việc đầu tiên Ambrose làm là xây dựng một đội thuyền buôn từ Seven Isles kết nối thương mại với tất cả các nước. Họ bán các sản phẩm biển như san hô, ngọc trai,... mua lâm sản ở các cánh rừng cổ ở Narnia rồi lại bán lại với giá cao ở Calorman. Hơn nữa, những người lùn tìm thấy một mỏ vàng khá lớn trên đảo. Họ tạo ra những đồ trang sức đính ngọc tai vô cùng xinh đẹp, dây là thứ hàng mà các Quý bà Calorman rất yêu thích.

Tiền bạc sung túc là điều kiện để chiêu mộ dân chúng tới Seven Isles. Chỉ cần có người tới ở, họ dược cấp một căn nhà rộng rãi thoáng mát và nhiều phòng.

Kinh tế cả vương quốc dựa vào sản xuất đồ thủ công, vì quỹ đất ít ỏi, vương quốc phải nhập rất nhiều lương thực, chủ yếu từ Narnia.

Phát triển một quốc đảo là một quá trình khó khăn và vắt vả.

Ngoài biển cũng không yên lành, có một con quái vật biển khổng lồ, nó dài hơn năm mươi mét, với những cái xúp tua kinh khủng, mọi người đặt tên cho nó là Himilco.

Himilco lần đầu tiên xuất hiện khoảng ba năm trước, nó đã phá hủy nguyên một cái thuyền, và làm hư hỏng ba cái khác.

Ngay lập tức, Ẩn sĩ xuất hiện, ông lao ra bờ biển nhanh như một mũi tên. Ông đứng trên không, triệu hồi một tia sét đánh thẳng vào đầu con quát vật Himilco.

Trận chiến kết thúc nhanh chóng, Himilco sợ hãi trốn xuống biển, không ai biết tổ của nó ở đâu. Thỉnh thoảng, nó lại ngoi lên phá hoại thuyền bè như để trả thù. Ẩn sĩ không thể xuống biển đổi bắt nó.

Mặt khác, trên đất liền quân đội gặp tấn công. Đó là những con nhện không lồ, to như một chiếc xe tải. Loài nhện này tên là Araranner sống ở trong núi, Nó có tập tính kì lạ, trong khi các loài khác ngủ đông thì bọn nhện lại ngủ hè, mùa đông chúng sẽ rời tổ đi săn mồi.

Nhện Araranner có bộ lông dài và trắng phau, rất dễ ngụy trang trong lớp tuyết, sáu con mắt đỏ như máu, người ta nhìn thấy mấy con mát này phát sáng, như cái đèn dụ con mồi vào chòng vậy.

Tất cả con vật yếu và nhỏ hơn chúng đều là mồi cả, nhiều cư dân vào rừng đi săn dễ bị nhện Araranner bắt thịt. May mắn cho hòn đảo là nhện Araranner chỉ đẻ một quả trứng trong mười năm, nếu không đảo Avarita phải đổi tên thành đảo Nhện mất.

Trở lại với Ambrose và Fayola, hai người bây giờ không phải chui trong một cái lều như trước, bọn họ đã có một lâu đài, trông nó giống một tòa nhà hơn, hai người đặt tên nó là Newfound.

Tòa nhà Newfound xây dựng sát biển, nó cũng không to lắm, chỉ có một đại sảnh rộng lớn là nơi họp, bên cạnh đó là gồm có các phòng chức năng riêng biệt để giải quyết các việc lặt vặt trong hòn đảo.

Tất nhiên không thể thiếu thư viện, Ambrose mở một thư viện công cộng, tất cả sách ở lâu đài phù thủy bị cậu chuyển hết tới đây, mọi người ai cũng được vào đọc sách.

Fayola có một phòng luyện phép, Ambrose chỉ luyện kiếm, bắn cung, cậu dường như quên mất mình là cũng là một phù thủy.

Bên cạnh tòa nhà có trường đua ngựa, không, đúng bây giờ phải gọi là một trường đua chim, từ khi thuần hóa được loài chim Ôtit Kori, xuất hiện một môn thể thao gọi là đua chim.

Trường đua là một dãy khán đài hướng ta biển, hàng quý sẽ tổ chức một giải đua, ban tổ chức xếp mất con thuyền thành chướng ngại vật. Các tay đua bắt đầu từ bờ biển đảo Avarita tới đảo Invidia phía nam. Khán giả sử dụng một dụng cụ đặc biệt - Ẩn sĩ gọi nó là ống nhòm - giúp họ có thể nhìn xa hơn năm mươi ki lô mét.

Trước tòa nhà là một quảng trường rộng lớn, nơi sẽ tổ chức hội chợ, các lễ hội,... các sự kiện lớn của quốc gia. Như năm ngoái một đoàn sứ giả của Narnia được tiếp đón tại đây.



Hôm nay là một ngày bình thường với mọi người dân Kingdom of Seven Isles, nhưng đối với người lãnh đạo đất nước là một tình huống nguy hiểm. Trong đại sảnh tòa nhà Newfound, đại thần của đất nước mặt nghiêm trọng, một người mặc áo giáp đang nói:

“Thưa đức vua và nữ hoàng, một tiêu đội phòng thủ bị tập kích ở Incarn, tất cả mười tám chiến sĩ hy sinh, chúng thần tìm thấy dấu vết của nhện Araranner tại hiện trường.”

Cả hòn đảo có một thành phố trung tâm là Newfoundcity, chính là nơi Ambrose hai người đang ở, xung quanh nó có ba thị trấn nhỏ là Incarn, Doom và Ancayla. Incarn là một thị trấn nông nghiệp gần cánh rừng Đen.

Bình thường năm chiến sĩ sẽ đánh hòa với một con nhện Araranner, một tiểu đội gần hai mươi người có thể giết chết hai con nhện Araranner.

“Làm sao có thể, một con nhện Araranner không thể tiêu diệt một tiểu đội tinh nhuệ của ta.” Một vị thống lĩnh nói, một người đàn ông to cao, da ngăm đen, ông ta bị chột một mắt.

Trong bốn nắm qua, quân đội vương quốc tăng gấp rưỡi về số lượng, Ambrose phải bổ nhiệm thêm một vị thống lĩnh, ông ta là Darius - một tên nô lệ, ông từng là tướng quân của một nước đã bị Calormen diệt quốc. Ambrose mua ông với giá bằng hai mớ rau, cậu vẫn luôn tự hào về quyết định này của mình.

“Chúng thần cũng nghĩ vậy, nhưng khi xem kĩ hiện trường, thần phát hiện dấu vết không chỉ một con, mà là một đàn nhện ít nhất hai mươi con.”

Vị trung đội trưởng này vẫn còn sợ hãi, ông tận mắt thấy những chiến hữu của mình bị hút thành những cái xác khô quắt, mắt bọn họ rơi ra, có người còn bị nhai chỉ còn xương.

Cả đại sảnh ồn ào, không ai ở đây không biết là nhện Araranner đi săn mồi một mình, chúng có lãnh địa riêng của mình, và chỉ săn mồi ở đó.

Theo trung đội trưởng báo cáo thì tiểu đội dưới quyền anh ta không vào lãnh địa bất kì nhên Araranner nào. Mà bọ nhiện lại chủ động tấn công, hơn nữa đi theo đàn.

Từ khi phát hiện sự tồn tại của nhện Araranner, hai người đã cử mười tiểu đội khoảng hai trăm người thường xuyên đi tuần ven rừng, đề phòng lũ nhện tấn công khu dân cư. Bây giờ một đàn nhện với số lượng lớn như vậy, cả tuyến phòng thủ bị đe dọa.

Một vị nghị viên đề nghị:

“Chúng ta phải phái quân đội tới tiêu diệt bầy nhện, thật kinh khủng nếu chúng tấn công vào Incarn, rất nhiều người sẽ chết, hoa màu, ruộng đồng,... bị phá hủy.”

Vương quốc được vận hành theo chế độ bán nghị viện - phong kiến. Giúp việc Ambrose và Fayola là một nghị viện gồm chín thành viên, ba người từ ba thị trấn, ba người từ thành phố Newfoundcity, họ được bầu từ những người dân của đất nước. Ngoài ra còn có ba vị thống lĩnh quân đội.

Đúng vậy, mấy nghị viên khác khác gật đầu đồng ý, họ nhìn về phía ba vị thống lĩnh quân đội.

Báo đen Black Panther trầm ngâm nói:

“Nếu đàn nhện Araranner có hai mươi con, thì chúng ta cần ít nhất năm trăm người để dành chiến thắng.”

Báo đen vừa mở miện ra đòi một phần ba quân số quân đội.

Darius cũng nêu quan điểm:

“Thần đồng ý với thống lĩnh Báo đen, nhưng thần nghĩ ta nên thêm ba trăm người để giảm thiểu hy sinh tới mức tối thiểu, cũng là để dề phòng khả năng số lượng nhện không ở con số hai mươi.”

Ngồi trên ngai vàng, Ambrose lúc này mới lên tiếng:

“Hai vị thống lĩnh dẫn tám trăm người đi tới Incarn. Nhưng hai vị luôn phải nhớ rằng chúng ta có rất ít người, mỗi một người lính đều là tài sản quý báu của đất nước, nếu không thể giết hết được bọn nhện thì cho quân rút ngay lập tức, chúng ta sẽ từ bỏ Incarn.”

Darius và Báo đen đồng thanh nói:

“Thần tuân lệnh.”

Một giọng nói khàn khàn vang lên:

“Thần có một đề nghị.”

Đó là con phù thủy Hag, bà ta bây giờ là đoàn trưởng của thương đoàn quốc gia. Bà nói:

“Theo thần biết thì nhện Araranner rất sợ lửa, từ tập tính ngủ hè của chúng có thể đoán được chúng sợ nhiệt độ cao. Thần xin mạn phép hỏi Nữ hoàng gần đây đã hoàn thành một phép thuật có thể làm thay đổi nhiệt độ một khu vực phải không?”

Fayola ánh mắt sắc bén nhìn Hag nói:

“Đúng vậy, một tháng trước ta có thể làm biến đổi nhiệt độ trong bán kính năm trăm mét.”

Sau bốn năm, Fayola cô bé đã mười hai tuổi, chiều cao gần một mét rưỡi, khuôn mặt xinh đẹp mang một vẻ ngây thơ tuổi nhỏ lẫn một vẻ cao quý của một nữ hoàng.

Đặc biệt, về trình độ phép thuật của cô có sự phát triển vượt bậc, cô có thể thi triển mười loại phép thuật khác nhau.

Khả năng chiến đấu cô rất xuất sắc, Fayola có thể kiên trì đấu phép với Ẩn sĩ trong mười phút. Tất nhiên là lão Ẩn sĩ không dùng toàn lực.

“Thần mong nữ hoàng sẽ dẫn đầu đội quân, người có thể thi phép tăng nhiệt độ làm giảm sức chiến đấu….”

“Không cần ngươi nói, trận chiến này ta sẽ đi, ta sẽ chiến đấu cùng những binh sĩ của mình.” Fayola cắt lời Hag, cô bé cao giọng nói.

Rõ rằng, điều khiển hơn một nửa quân đội quốc gia cần một trong hai người đi theo, Fayola là một phù thủy giúp ích nhiều hơn Ambrose trong trận chiến này. Hơn nữa, Fayola cũng rất tự tin vào chiến lực của mình.

Himilco: http://bit.ly/2qrnTEy

Nhện Araranner: http://bit.ly/2qsIvMK
 
Chương 45: Khó khăn liên tiếp


Hôm sau, Fayola và tám trăm binh sĩ đi tới Incarn, các thị trấn đều được nối với Newfound City bằng một con đường riêng, nên bọn họ rất nhanh đi tới Incarn.

Incarn có sấp sỉ tám trăm người dân, bọn họ sống chủ yếu nhờ trồng trọt và khai khác rừng. Khi biết tin nữ hoàng Fayola tới xử lý lũ nhện Araranner, bọn họ đều tập chung của thị trấn đón chào nữ hoàng.

Khi thấy đoàn quân, tất cả người dân Incarn quỳ xuống, hô:

“Nữ hoàng muôn năm.”

“Nữ hoàng muôn năm.”

“Mọi người xin đứng dậy.”

Fayola xuống ngựa, cô đi tới nhìn từng người dân của mình, cô bé nhận ra trên mặt họ đầy một vẻ lo lắng, cô cần cho họ điểm hi vọng. Cô nói:

“Tình hình ta và nhà vua đã biết, ta cùng quân đội tới để quét sạch bọn nhện gớm giếc ra khỏi vương quốc này.”

“….”

Sau khi trấn an người dân, Fayola đoàn người lập tức đi tới khu rừng. Đến tận khi mặt trời lấp bóng, bọn họ mới tới trại tạm trú của lính phòng thủ Incarn.

Fayola ra lệnh mọi người nghỉ ngơi một đêm, sáng mai họ sẽ tiến vào rừng.

Cánh rừng vô cùng yên lặng, không có một tiếng động nào, cũng không thấy một sinh vật nào. Đàn nhện Araranner đem tới sự chết chóc cho cả khu rừng.

Đêm hôm đó, Fayola đang ngồi minh tưởng trong lều, một tiếng cây đổ gẫy khiến cô bừng tỉnh. Fayola vội khoác áo choàng rồi chạy thẳng ra khỏi lều.

Ngoài trời tuyết đang rơi, một lớp tuyết dầy đã phủ trắng mặt đất, đây là hoàn cảnh phù hợp cho bọn nhện Araranner tấn công.

Darius cũng ra khỏi lều, ông nói to:

“Mọi người cảnh giác, tập chung thành một nhóm.”

Còn Báo đen nhanh chóng phục bên cạnh Fayola để bảo vệ cô.

Cả khu trại rộng hơn một nghìn mét vuông, bao quanh nó có tường bao bằng cây cối, chính giữa trại có một tháp canh cao hơn hai mươi mét. Trên có, một tên lính nói:

“Phía đông, có cái gì đang tới…”

Fayola thận trọng nhìn về hướng đó, cô thấy một khoảng rừng đang rung động, một thứ gì đó to lớn đang di chuyển, đó là nhũng con nhện Araranner.

Tám con mắt đỏ lòm của chúng phát sáng trong đêm, từng cái chân khổng lồ đặt lên cành cây khiến nó kêu răng rắc. Có tới tất cả mười một con nhện. Còn nào con ấy đều to hơn ba con ngựa cộng lại.

Bọn chúng chỉ đứng đó nhìn về trại lính.

Thống lĩnh Darius đang tập chung binh lĩnh phòng thủ, cung tên, dao kiếm sẵn sàng chiến đấu.

Tuyết rơi dày hơn, một cơn bão tuyết đang diến ra, tầm nhìn của mọi người bị thu hẹp, Fayola khó có thể nhìn thấy thứ gì ngoài ba mươi mét.

“Khít khít…” Một tiếng rít chói tai vang lên, Bọn nhện tấn công.

Từng con nhện co mình nhảy qua hàng rào dễ dàng như bước qua thềm nhà của chúng vậy. chúng khua khua cặp hàm sắc nhọn, ta nhìn rõ cái ngòi tiêm nọc độc đen ánh màu chết chóc.



“Tách lũ nhện ra, hai mươi người một nhóm, những người còn lại đề phòng bọn nhện tấn công từ hướng khác.”

Rất nhanh chóng bốn trăm bốn mươi binh sĩ xông ra, bọn họ chia làm mười một tốp bao vây lấy từng con nhện.

Một nửa họ tay cầm một sợi giây thừng dài, trên mỗi đầu có gắn một cái móc sắt, họ sẽ dùng nó để hạn chế nó di chuyển con nhện lại, thậm trí trói nó lại khi có thể. Một nửa binh kính còn lại cầm dao kiếm lao vào quật nhau với con nhện.

Da nhện Araranner rất dày và cứng, chỉ có một loại kiếm đặc biệt mới có thể phá hủy lớp giáp đó, đao kiếm va chạm vào da nhện tạo thành những tiếng cong cong.

Bên cạnh Fayola, Báo đen hô lên:

“Thiện xạ đâu, chuẩn bị nhắm bắn.”

Đây là hai mươi người bắn cung giỏi nhất vương quốc, bọn họ có thể bắn trúng bất kì mục tiêu nào trong vòng hai trăm mét.

Thiện xạ xếp thành hai hàng trước mặt Fayola, họ đã gương cung sẵn sàng.

“Chú ý, nhắm con nhện hướng 10 giờ.”

Hai mươi người như một đều quay mũi tên lệch sang bên trái một góc sáu mươi độ, chúng chỉ vào một con nhện cách fay gần năm mươi mét.

“BẮN.” Báo đen ra lệnh.

‘Vèo vèo…”

Hai mươi mũi tên rời cung bay nhanh như chớp cắm thẳng con nhện Araranner khiến da chúng bị thủng mấy lỗ, rồi từ hai mươi cái lỗ đó một dòng máu xanh lè chảy ra. Con nhện rít lên, rẫy giụa vì đau đớn, mấy giọt máu bắn tung tóe khắp nơi.

“Mọi người cẩn thận, đùng để máu nhện dính vào người, đó là chất ăn mòn mạnh.”

Báo đen vừa nói xong, một giọt máu xanh lè văng tới một thân cây, cả thân cây bốc khói khét lẹt, chỉ trong mười nhịp thở, cái cây khỏe mạnh đổ sập, tất cả binh sĩ thấy vậy, ánh mắt họ nghiêm trọng hẳn nên.

Thiện xạ lại lên tiễn, sau ba lượt bắn, con nhện hướng 10 giờ bị hạ, hai mươi binh lính không ai hi sinh cả, chỉ có một người bị trật khớp tay.

Đây là một tín hiệu tốt.

Bọn nhện lúc này điên cuồng hơn, chúng vung sáu cái chân của mình vào binh lính, từ phía sau chúng phun ra những sợi tơ rắn chắc, một số binh sĩ không may bị tơ nhện dính vào. Họ di chuyển rất khó khăn.

Măn mắn bọn họ nhanh chóng được thay thế, những người bên ngoài nhảy vào kéo họ ra, rồi một người khác vào thay. Cứ như vậy, ai mệt thì ra nghỉ, ai bị thương thì thay người.

Trận chiến nghiêng về một bên, thiện xạ cứ rỉa từng con nhện một, binh lính thì cố kéo chân bọn nhện.

“Phộc”

Con nhện cuối cùng bị hạ, mọi người reo lên, bọn họ đã chiến thắng. Darius chỉ huy mọi người dọn dẹp chiến trường.

Fayola tiến đến gần xác bầy nhện, cô lật từng con nhìn kỹ. Chúng rất khác những con nhện Araranner cô thấy trước đó.

Bọn nhện này ngực chúng không có lông, những cái móng ở chân màu đen. Không lẽ một con nhện biến chủng.

Bỗng nhiên cô cảm thấy ngứa ngứa, một sợi tơ nhỏ vướng lên má Fayola. Cô gạt sợi tơ xem, nó chỉ to hơn tơ một con nhện bình thường một chút.

Má cô lại ngứa, một sợi tơ khác vướng vào. Không bình thường, có chuyện gì đang xảy ra, Fayola nhận ra lập tức.

Fayola nói với Darius hai người:

“Nhanh, cho mọi người tập chung lại. Địch tập.”

Darius hai người gật mình, tuy không rõ nhưng họ vẫn cho toàn bộ quân lính tập chùng lại quanh Fayola.

Tất cả mọi người vừa vào chỗ, thì.

Một cơn mưa tơ nhện rơi xuống, chúng bao phủ toàn bộ tá cây, những cai lều. Chỉ trong hai phút, mọi thứ đều trắng xóa bởi tơ nhện.

Tuyết đã ngừng rơi, bầy trời trong veo sau cơn bão, ánh trăng sáng chiếu rõ

“Nhìn kìa.” Một tên lính kêu lên.

Fayola nhìn theo hướng chỉ cảu anh ta, cô thấy một cơn mây đen đang tới, không, nó là một đàn nhện bay, Rất nhiều rất nhiều, có tới hàng nghìn con.

“Mọi người tập chung, lên khiên.” Báo đen nuốt nước bọt ra lệnh mọi người.

Mây nhện càng gần, mọi người thấy từng con nhện, chúng nhỏ hơn rất nhiều mười một con vừa nãy nhưng vân to hơn một con chó.

Mỗi con đều bám vào một sợi tơ nhện, mấy sợi tơ đan vào nhau như một con diều không lồ.

Đến lúc này, Fayola chắc chắn đó không phải là nhện Araranner, hoặc chúng đã tiến hóa thành một loài khác.

===========

Ambrose thấy hôm nay là một ngày đen đủi trong đời cậu, buổi sáng Fayola và quân đội lên đường tới Incarn tiêu diệt bọn nhện Araranner. Buổi tối, Ambrose đang đứng trong đại sảnh, một vấn đề nghiêm trọng lại xảy ra với vương quốc.

Cậu đang cầm trong tay thư cầu viện khẩn cấp từ đảo Superia, con quái vật Himilco lại xuất hiện, lần này nó tấn công quân đội và người dân đang thực hiện nhiệm vụ khai hoang hòn đảo.

Chuyện này không bình thường chút nào, Himilco vừa bị Ẩn sĩ dần cho một trận vào hai tháng trước, thường thì nó mất năm tháng mới dám ngoi lên mặt biển làm gây khó dễ với vương quốc.

Sau khi bị Ẩn sĩ giáo huấn, Himilco chỉ dám phá họa thuyền bè, nhưng lần này nó lại giết gần ba mươi người, hơn năm mươi người mất tích, thương vong tiếp tục tăng.

Theo miêu tả trong báo cáo, Himilco điên cuồng phá hoại, nó phá hủy bất kì thứ gì nhìn thấy. Trong vòng ba mươi phút qua, cả bờ biển tang hoang như bị một cơn siêu bão quét qua.

Bây giờ Himilco vẫn đang phá hoại.

Cả vương quốc chỉ có một mình Ẩn sĩ là đối pháo được Himilco, hiện tại ông đang bế quan tu luyện - ông ta bảo hai người như thế.

Ambrose nói tóm tắt vội tình hình vào một tờ giấy: “Himilco đang tấn công Superia.”

Cậu gọi người vào nói:

“Người đâu. Nhanh. Cho mời Ẩn sĩ lập tức tới Superia.”
 
Chương 46: Fayola chiến đấu


Cả bầu trời toàn nhện, vừa rồi bọn họ dùng số lượng áp đảo thắng bọn nhện, bây giờ lại tới hàng nghìn con, nghĩ vậy, Fayola không biết phải nói gì.

Fayola quyết đoán ra lệnh:

“Báo đen, chỉ huy tất cả ai có thể bắn cung thì cầm cung.”

“Darius, cho người mạng tất cả dầu Wuche, chúng ta sẽ thiêu đốt toàn bộ lũ nhện kia.”

Dầu Wuche là chất nhờn lấy tờ loài giun Wuchereria, nó có khả năng bắt lửa rất tốt, Ẩn sĩ đã chế tạo một công thức để khử mùi, tăng khả năng cháy của nó để sử dụng trong sản xuất lẫn quân sự. Đây là một vũ khí vô cùng hiệu quả với loài nhện sợ nhiệt như Araranner.

Chỉ là Fayola lo lắng loài nhện mới này có nhược điểm như loài Araranner cũ không.

Trở lại trận chiến, thống lĩnh Darius đang dục mọi người nhận cung tiễn, bọn họ chuẩn bị đúng năm trăm bộ cung tiễn. Thật may mắn khi mang nhiều tới vậy.

Về phần Báo đen, ông đang chỉ huy người khiêng từng thùng dầu ra sân, nhúng từng mũi tên vào dầu. Thời gian rất gấp rồi, đàn nhện bay chỉ cách họ hơn một Ki lô mét.

Sau khi mọi sự sẵn sàng, Báo đen hô to:

“Vào vị trí. Chuẩn bị.”

Năm trăm người bắn tên tốt nhất chỉ mất không tới hai giây xếp thành năm hàng.

Dần nhện bay đã vào tầm ngắm, Báo đen tiếp tục ra lệnh:

“Lên cung.”

Năm trăm anh em kéo dây cung, họ chếch một góc bốn mươi nắm độ lên trên không. Các mũi tên xếp thành một hàng thẳng tắp.

“Châm lửa.”

Ở hai đầu mỗi hàng, hai người lính nhanh chân nhất cầm đuốc, hai người chỉ cần chạy theo đường thẳng do mũi tên tạo ra trước đó. Họ châm lửa cho từng mũi tên.

Sau khi tất cả mũi tên đều tóe lửa, Báo đen tiếp tục:

“Ngắm…”

Tất cả hướng mũi tên về phía đàn nhện bay, Báo đen gầm lên:

“BẮNNNN”

Rồi.

“Vèo… vèo… vèo…”

Năm trăm mũi tên xé gió bay thẳng lên không chung. Cả bầu trời như bốc cháy bởi cơn mưa tên.

Rất nhiều nhện trúng tên, chúng bị bắt cháy và rơi xuống cánh rừng.

“Vèo… vèo… vèo…”

Một đợt tên khác bắn ra. Nhện bay chết rất nhiều, nhưng bằng mắt thường không thể thấy số lượng chúng giảm tí nào.



Lúc này.

“Có nhện tập kích.” Một người lính hô lên.

Quanh trại bây giờ co hơn ba mươi bóng đen rập rình. Chúng giống hệt lũ nhện lúc trước.

Darius phụ trách bộ binh hét lên:

“Mọi người lập vòng bảo vệ cung thủ.”

Lập tức ba trăm người còn lại tiến lên, chia nhóm rè chừng từng con nhện.

Báo đen cũng chia ra một trăm cung thủ trợ giúp họ.

Bọn nhện không tấn công, chúng đang chờ đàn nhện bay, không thể tin được, bọn nhện lại biết chiến thuật, có người chỉ huy chúng hay chăng?

Fayola lên tiếng nói:

“Báo đen, tấn công lũ nhện đất trước đi, bọn chúng đang chờ đàn nhện bay.”

Báo đen cũng nghĩ tới khả năng này, nếu vậy tình hình trận chiến rất khó khăn, bọn họ sẽ bị tấn công cả trên không lẫn mặt đất.

“Cung tiễn, bắn bọn nhện đất..”

Không khí rất căng thẳng, nhiều người lính vừa đánh giết mười một con nhện còn run run chưa hồi phục sức lực. Tiếng nhện rít vang khắp nơi, trên trời dưới đất: trước mặt, sau lưng, trên đầu khiến đầu bọn họ ong ong.

Cuối cùng, đàn nhện bay đã tới, chúng từ bầu trời hạ xuống như mưa. Báo đen quát:

“Gác cung, cầm kiếm, chiếnnnnnn.”

Cung thủ bây giờ không có tác dụng nhiều, bọn nhện đã tiếp cận quá gần, năm trăm cung thủ đòng loạt rút kiếm lao về bọn nhện bay.

Còn hai mươi vị thiện xạ phục bên cạnh Fayola bảo vệ cô.

Fayola và quân lính bị bao vây bời hàng ngàn con nhện, tình hình rất nguy cấp, chỉ cần một chỗ phòng thủ bị phá vỡ là đàn nhện đất khổng lồ xông vào đánh tan tác đội hình.

Không thể để như vậy được, Fayola bắt đầu điều động ma lực trong cơ thể.

Cô và Ambrose tìm được bảy cuốn sách phép tại kho báu phù thủy đã được Ẩn sĩ dịch ra hết tiếng Anh, ông bảo rằng bảy cuốn sách này ghi lại bảy phương pháp minh tưởng khác nhau, chúng kết hợp thành một quá trình, cần phải học tập lần lượt từng quyển, không thể nhảy cóc.

Trình tự lần lượt theo màu đậm dần, không chính xác là từ màu nóng sang màu lạnh: đỏ đậm, đỏ, da cam, vàng, xanh lá cây, xanh ngọc, xanh nước biển và tím.

Phương pháp minh tưởng mụ phù thủy dạy hai người lúc còn sống là từ quyển màu đỏ đậm.

Bằng thiên phú của mình, Fayola đã hoàn thành hai quyển đầu tiên, tháng trước cô bé lại học xong một lửa quyển thứ ba (quyển màu da cam).

Nói chung cả ba quyển này phần nhiều nói về pháp thuật lửa, phương pháp minh tưởng cũng làm tăng uy lực các phép thuật lửa. Tới quyển thứ ba, Fayola mới học về cách điều khiển nhiệt độ tăng giảm.

Đây là cách đối phó với lũ nhện.

Fayola miệng niệm chú, không khí xung quanh cô bé xoay vòng vòng tạo thành một cơn lốc xoáy nhỏ.

Báo đen và đội thiện xạ đứng bên cạnh bị luồng khí áp đẩy lùi ra ngoài, bọn chúng mở to mắt nhìn nữ hoàng.

Nữ hoàng Fayola sắp phóng phép thuật, phải đảm bảo an toàn cho người, Báo đen chớp nghĩ. Ông chỉ huy điều thêm mấy người bao quanh Fayola, đảm bảo không để một con muỗi lọt qua.

Ông bố chí đội thiện xạ bắn bất kì nhện bay nào dám tới gần Nữ hoàng, công việc của họ chỉ có một việc như vậy.

Fayola không biết bên ngoài xảy ra chuyện gì, và cô bé cũng không có tinh thần để lưu ý. Cô đang tập trung một trăm phần trăm tinh lực điều khiển ma lực.

Đây là một phép thuật khó, và đây là lần đầu tiên cô bé thi triển trên phạm vi trận chiến lớn như bây giờ.

Cơn lốc xung quanh Fayola càng mạnh, chúng hình thành một cái lồng không khí xung quanh cô. Rồi hai bàn tay cô phát sáng, một ánh sáng màu cam.

Ánh sáng này nhanh chóng lan ra xung quanh, cả cơn lốc biến thành màu cam.

“HOMING WIND.” Fayola kết thúc niệm chú hét lên.

Ngay lập tức cái lồng lốc xoáy như một ngọn núi lửa phun trào, nó phình ra to theo mọi hướng lấy Fayola làm trung tâm.

Chỉ tring nháy mắt, toàn bộ chiến trường đều bị nhốt bên trong cái lồng màu da cam ấy, chuyện chưa kết thúc ở đó, nhiệt độ không khí tăng cao.

Lớp tuyết tan nhanh như ta đặt que kem trong lò vi sóng vậy, quân đội bắt đầu đổ mồ hôi, những quân đội từng là nô lệ ở Calormen nghĩ nhiệt độ bây giờ còn cao hơn cả ở hoang mạc Lớn lúc mặt trời lên đỉnh.

Trong khi quân đội chỉ thấy hơi nóng thôi, những con nhện bị ảnh hưởng rất rõ rệt. Bọn chúng cử động không lưu loát như trước, đặc biệt lông chúng từ màu trắng dần biến thành màu đen.

Một số con nhện bay quá gần Fayola bị bốc khói, bằng mắt thường có thể thấy thân thể nó thối rữa, không đúng hơn là bị tiêu hóa bởi chính dịch tiêu hóa của mình.

Chắc chắn nhiệt độ cao ảnh hưởng tới lượng axit trong máu và trong túi độc nó, hoặc là có một số chất giúp ngăn cản axits trong cơ thể nó an mòn chính mình nhưng do nhiệt độ cao nên chất đó mất hiệu quả. Đầu óc Fayola lóe sáng, cô nghĩ ra ngay được hai giả thuyết.

“Ta chỉ duy trì trong năm phút thôi, các ngươi nhanh đêm bọn nhện chém hết sạch.”

“Vâng, thư nữ hoàng, chúng thần dốc hết sức.” Báo đen mùng rỡ nói. Rồi ông vận dụng hết cỡ giọng nói mình, quát lên:

“Anh em, nữ hoàng đã thi phép làm chậm bọn nhện, xông lên giết chúng…”

Tất cả binh lính khí thế dâng trào, bọn họ cầm chặt binh khí xông về phía những con nhện.

Đội thiện xạ nhanh tay chọn mục tiêu, bây giờ lũ nhện di chuyển quá chậm so với trình độ của họ. “Vèo.. vèo..” từng mũi tên ra khỏi cung trúng đích.

Một người lính hét lên:

“Chém vào khớp chân nhện, nó bây giờ rất giòn.”

Nhện Araranner bao bọc toàn thân một lớp giáp dày, đặc biệt là ở các khớp chân, chúng cứng như kim cương vậy. Từ trước tới nay muốn tiêu diệt một con nhện Araranner thì họ phải kìm giữ tám cái chân nó lại trước, rồi dùng kiếm đặc chế tấn công thân nhện, hay dùng cung từ xa xạ kích.

Thật bất ngờ bây giờ chỗ tưởng chừng chắc chắn nhất của nhện Araranner lại thành yếu điểm chết mạng của chúng.
 
Chương 47: Biến cố chưa chấm dứt


Newfound City.

Trong khi, Fayola đang chiến đấu bọn nhện, tình hình ở đây cũng không tốt lắm. Ẩn sĩ đẫ xuất phát được mười phút, từ đó tới giờ không có bất kì tin tức gì chuyền qua.

Ambrose sốt ruột đi qua đi lại trong đại sảnh, cậu sai Otmin mang người đi sơ tán người dân trong thành phố, cậu sợ rằng trận chiến sẽ lan tới đây.

Lần này khác hoàn toàn những lần tập kích khác của Himilco, Ambrose có dự cảm rất xấu, có thể một điều kinh khủng khác sẽ xảy ra.

“Bịch... bịch…”

Một người lính gấp gáp chạy vào, thấy vậy Ambrose hỏi ngay:

“Bên kia Ẩn sĩ có tin tức gì không?”

“Thưa đức vua, Ẩn sĩ, ngài ấy tình trạng không tốt, quái vậy Himilco như phát điên, ngài Ẩn sĩ đang rất vất vả…”

Càng nghe Ambrose càng cảm thấy không ổn, linh cảm cậu bây giờ như một cái còi cứu hỏa đang kêu bí bô.

Bỗng nhiên, một người hớt hải chạy tới, Ambrose nhận ra đây là dưới trướng Otmin ba vị đội trưởng, tên là Craken, anh ta quỳ xuống hoảng hốt nói:

“Không xong, thưa đức vua, phía Tây thành phố bị nhện Araranner tấn công…”

“Cái gì..” Ambrose hét lên.

Chuyện của Himilco chưa xong, tại đây lại xuất hiện nhện Araranner, ở đâu ra nhiều nhên Araranner như vậy, Ambrose lo lắng nhìn về hướng Incarn, không biết Fayola có gặp chuyện gì không, không thể theo báo cáo đơn giản hai mươi con nhện được.

“Thống lĩnh Otmin đâu?” Ambrose nhìn Craken hỏi.

“Thống lĩnh ngài đã dẫn một phần ba quân đội thành phố chặn đánh lũ nhện rồi...”

“Không được, ngươi điều thêm một phần ba quân đội tiếp ứng thống lĩnh Otmin...”

Vị đội trưởng Craken này còn muốn nói, nhưng Ambrose dành trước:

“Không cần lo cho sự an toàn của ta, người dân là quan trọng nhất, đi mau.”

Đội trưởng gật đậu, rồi anh ta nhanh chóng ra khỏi đại sảnh.

Ambrose cố bình tĩnh ngồi xuống ngai vàng của mình, phía nam thành phố là khu dân cư đông đúc, nếu để bọn nhện bừa bãi đi vào sẽ tạo thương vong rất lớn, Ambrose và Fayola hai người chỉ có từng đấy dân chúng thôi.

Ngỡ như tin xấu đã hết thì một binh lính khác lại lao vào, vẻ mặt hắn kinh hoàng, người lính lắp bắp nói:

“Thưa… thưa đức vua, nhện Araranner tập kích mạn đông thành phố, chúng thần cầu viện gấp, có hơn ba mười con…”

Phía đông thành phố không có nhiều dân, nhưng đấy là nói tập chung kho hàng, cảng biển, các xưởng thủ công nghiệp, đặc biệt có cả kho lương thực.

Không nói về tài vật, khi quy hoạch xây dụng thành phố này, Ambrose và Fayola nhất trí làm một đại lộ rộng hơn năm mươi mét nối liền hai mặt bắc nam, đông tây.

Nếu bọn nhện theo đường này tiến về phía tây thì Otmin sẽ đối địch hai mặt, không thể để điều đó xảy ra được.

“Ngươi gọi tất cả người còn lại, chúng ta đi tiếp ứng.” Ambrose đúng dậy ra lệnh cho tên lính.

Rồi cậu nhanh chóng lấy bộ áo giáp bên cạnh chuẩn bị sẵn từ trước, bộ giáp này sáng bóng, sau lưng khoác một cái áo choàng màu xanh nước biển, theo Otmin mọi người nói là để đối lập với màu đỏ của Alan.

Ambrose rút thanh gương của mình, thanh gươm trong như bạch ngọc, đây là thanh kiếm Ẩn sĩ tặng cho cậu lúc đăng quang.



Ông nói rằng ông đã thu thập ánh sao và ánh trăng, dùng chín mươi chín ngày rèn đúc, bảy mươi bảy ngày dục hồn kiếm, kết quả được hai thanh kiếm màu bạch ngọc của trăng và màu xanh lam của sao trời.

Thanh kiếm bạch ngọc Ambrose đang giữ, thanh còn lại Fayola đang cầm bên mình.

Kiếm giáp đầy đủ, Ambrose bước nhanh ra khỏi đại sảnh, cậu sắp phải bước tới một trận chiến thực sự. Bây giờ cậu mới cảm nhận được cái cảm giác hồi hộp, lo lắng đan xen của Peter bốn năm trước.

Sau bốn năm, Ambrose cũng đã mười hai tuổi, nhưng do thường xuyên luyện tập cậu trông không khác mấy đứa trẻ mười bốn mười năm tuổi.

Ẩn sĩ không chỉ dạy Fayola mà cũng dạy Ambrose rất nhiều thứ, ông luôn bảo cậu làm sao để giữ mình bình tĩnh nhất có thể trong mọi trường hợp, chỉ cậu mẹo kiềm chế cơn giận dữ, trong khi chịu áp lực từ việc quản lý cả một đất nước.

Ngoài ra ông cũng chỉ Ambrose kiếm thuật, khi biết Ẩn sĩ là một cao thủ dùng kiếm Ambrose và Fayola rất bất ngờ, chúng nghi ngờ nhìn ông.

Nói thật, bề ngoài Ẩn sĩ rất bị người khác nhầm lẫn, ông trông như một ông già lọm khọm, sắp xuống lỗ tới nơi, tuy vẻ mặt hồng hào khỏe mạnh lại bị bộ râu dài và dày che mấy phần. Ông mang một cây pháp trượng, mọi người thấy chỉ bảo ông là một pháp sư chứ không ai nghĩ ông là một kiếm khách cả.

Không chịu nổi ánh mắt hoài nghi của hai đứa trẻ, Ẩn sĩ tức giận nói:

“Thế các cháu nghĩ làm thế nào ta có thể đánh ba ngày ba đêm bất bại với Phù thủy trắng. Hồi đó, chúng ta chỉ đấu phép được hai giờ là hết sức chịu đựng rồi (ý là hết ma lực), sau đó ta ném pháp trượng một bên cầm kiếm xông vào chứ..”

Rồi, Ẩn sĩ cầm lấy một thanh kiếm, ông vẫy tai nói với hai người:

“Không tin, hai đứa vào đây…”

“Cả cậu nữa, ta chấp tất…” Lúc đó, Songoku giáo sư cũng ớ đó.

Trận đấu kiếm diễn ra rất nhanh, năm chiêu đầu tiên, Ambrose và Fayola bị hạ, mười chiêu sau Songoku bị rơi kiếm. Cả bọn đều phải trợn mắt nhìn Ẩn sĩ.

Quay lại hiện tại, Ambrose bước ra sân trung tâm của tòa nhà Newfound, ở đây sấp sỉ một trăm binh linh xếp ngay ngắn thành hàng. Họ là những người lính cuối cùng của thành phố cũng như của vương quốc.

“Nghiêm”

Ambrose bước ra cánh cửa, cậu đứng trước những binh sĩ của mình. Cậu thấy trong mắt họ một sự sợ hãi, một niềm lo lắng. Không ai trong họ không có người thân ở thành phố. Ai cũng ngay lúc này muốn chạy về nhà bảo vệ cha mẹ, vợ con mình. Một lý do duy nhất để họ ở đây là bảo vệ Ambrose, cậu cần cho họ một lý do cao cả hơn vậy.

Ambrose lấy hơi từ bụng lớn tiếng nói:

“Đêm nay là thử thách lớn nhất, từ khi vương quốc thành lập tới giờ, trong bốn năm qua mọi người đã cùng nhau xây dựng Thất đại đảo quốc, nó không chỉ thuộc về riêng ta và nữ hoàng Fayola, mà cũng thuộc về mọi người dân. Ngay bây giờ, kẻ thù đang phá hủy vương quốc này, là một phần của nó, chúng ta phải làm gì...”

“Giết hết chúng…” Tất cả binh sĩ trả lời.

“Ngay lúc này, những chiến sĩ dũng cảm khác của vương quốc đang chiến đấu với kẻ thù, ở phía đông thành phố và ở rừng Đen. Trả lời ta, chiến sĩ của Thất đại đảo quốc, chúng ta phải làm gì?”

“Xông ra, giết sạch bọn nhện..”

“Đúng vậy, bọn nhện Araranner bẩn thỉu đang tấn công tuyến phòng thủ phía đông Newfound City, nếu chúng xông vào thành phố thì tất cả mọi người sẽ gặp nguy hiểm người già, phụ nữ, trẻ em,… sẽ thành thức ăn của bọn nhện. Các ngươi có sẵn sàng trả mọi giá bảo vệ gia đình mình không?”

“Chúng thần sẵn sàng.”

“Rất tốt, tất cả xuất phát.”

Tiếng kèn lệnh vang lên, Ambrose dẫn đầu đoàn quân chạyj về hướng tây. Một bóng đen thình lình xuất hiện bên cạnh Ambrose, đó là một con khỉ, Ambrose mừng rỡ nói:

“Giáo sư Songoku, thầy không ở nhà dưỡng lão chạy ra đây làm gì.”

“Thưa đức vua, thần không thể chịu được lũ nhện, chúng quá bốc mùi, mong người cho thần tham chiến…” Giáo sư Songoku cười đáp, trên đầu ông một búi tóc ngả bạc bay phấp phới.

“Không có gì tốt hơn, hoan nghênh thầy gia nhập.”

Bỗng nhiên, một tiếng vỡ vụn nổ ra ngay trước mặt Ambrose cắt dứt cuộc trò chuyện của hai người.

Những mảnh gạch vụn bay khắp nơi, Ambrose một tay ném cao cây đuốc về phía trước xem có chuyện gì xảy ra, một tay khác sẵn sàng cầm kiếm. Giáo sư khỉ bên cạnh cậu tay đặt chuôi kiếm, mắt ông ngưng đọng nhìn phía trước.

“Cục... cục…”

Đống đổ nát rung lên, một vài viên gạch vụn bị hất tung lên, một thứ gì đó đang chui ra. Ngay lập tức, Ambrose thấy hai cái chân trắng dài đầy lông đâm ra, rồi một con nhện khổng lồ xuất hiện, nó là nhện Araranner.

Ambrose thận trọng lùi lại một bước, cậu nín hơi hô to:

“Tất cả cẩn thận, địch tập.”

Con nhện trắng muốt này rung rung mình khiến những mảnh vụn rơi ra khỏi người, nó rít một tiếng nhức tai nhức óc.

Giáo sư Songoku bên cạnh Ambrose hạ thấp đầu nói:

“Thưa đức vua, xin ngài cho phép thần xuất chiến.”

“Thầy có được không?” Ambrose lo lắng nhìn ông khỉ, bốn năm trước ông bị thương rất nặng, mấy năm qua, ông vẫn không trở lại thời kì đỉnh cao lại có xu hướng yếu đi. Có lẽ ông đã qua lớn tuổi. Ambrose không biết tuổi thọ của cư dân ở đây có giống động vật ở thế giới thực không.

“Ha Ha, xin người yên tâm.” Giáo sư Songoku quyết tâm nói.

Ambrose gật đầu: “Thầy chú ý an toàn.” Cậu ra lệnh mọi người:

“Tất cả lùi lại mười bước…”

Giáo sư Songoku híp hai mắt, ông nhìn con nhện như nhìn con mồi ngon lành của mình vậy.

“Xoẹt…” Ông rút kiếm, thân hình ông nhanh như một mũi tên lao vào con nhện.

“Keng..” Lưỡi kiếm va vào chân nhện, cả hai bị hất lùi ra sau.

Songoku cười gằn, ông nghiêng người né một cái chân nhện bổ xuống, rồi dùng cán kiếm làm chệch hướng cái chân khác. Ông vẫn rất dẻo dai.

Con nhện đâm hai nhát không làm gì được ông, nó tức giận gầm lên, nước bọt nó bay khắp nơi. Nó lại nhấc cái chân nên định đánh ông khỉ một đòn.

Thật nhanh, ông khỉ Songoku tay trái tóm lấy chính xác cái chân nhện đấy. Mượn đà, ổng bay mình lên quá đầu con nhện, rồi hông ông vặn một cái, cả cơ thể xoay người khéo léo, thanh kiếm đưa ra, ông đâm chém mù hai con mắt to và nồi của đối thủ.

Tiếng hoan hô nổ ra, binh lính theo dõi trận chiến ủng hộ ông khỉ. Chỉ trong không tới năm giây con nhện đã bị thương ‘nghiêm trọng’. Nó đau đớn kêu lên, máu xanh lè từ hai hốc mắt chảy ra, cũng may nó còn bốn con mắt còn lại không tới mù.

Nhưng thế cũng đủ hình thành một khoảng mù trong tầm nhìn con nhện, trong một phút sau đó, giáo sư lợi dụng điểm yếu này liên tục đâm đối thủ mấy nhát.

Con nhện đuối sức gần, nó bây giờ co mình phong thủ hết sức có thể. Sau một đợt tấn công, giáo sư lùi và một góc nhỏ. Bất ngờ, một thứ gì đó sắc nhọn đâm xuyên qua bức tường thẳng về đầu khỉ.

Quá nhanh, giáo sư trợn mắt kinh ngạc, ông chỉ nhìn thấy một vệt trắng xuất hiện, không kịp rồi, không tránh được. Trong tích tắc, ông chỉ nghĩ, không ngờ mình lại chết như thế này.

Đúng lúc này.

“Keng…’

Một lưỡi kiếm trắng ngọc đánh chệch hướng thứ sắc nhọn đấy, bằng kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm, giáo sư lập tức phản ứng nhảy lùi lại một nhịp. Khi xác định an toàn, ông thở phào một tiếng, ông thấy Ambrose đang cười nhìn ông nói:

“Giáo sư, ngài đã dạy ta luôn phải chú ý xung quanh phải không?”
 
Chương 48: Ambrose tham chiến


Một lưỡi kiếm trắng ngọc đánh chệch hướng thứ sắc nhọn đấy, bằng kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm, giáo sư lập tức phản ứng nhảy lùi lại một nhịp. Khi xác định an toàn, ông thở phào một tiếng, ông thấy Ambrose đang cười nhìn ông nói:

“Giáo sư, ngài đã dạy ta luôn phải chú ý xung quanh phải không?”

Cậu vừa dứt lời, cái thứ sắc nhọn đó rút lại, một con nhện khác nhảy qua bức tường gia nhập cuộc chiến. Không, tất cả là thêm ba con nữa, con thứ hai từ trên mái nhà nhảy xuống, con thứ ba xuất hiện sau góc đường.

Ambrose lơ đễnh nhìn ba con nhện xung quanh rồi nói với ông khỉ:

“Lần này tới lượt ta ra tay rồi, thầy nên kết thúc trận chiến của mình.”

Ông khỉ hoàn hồn cười ha hả, ông tự hào nhìn Ambrose, đây là chính là học trò của mình. Rồi ông đổi ngay sang một bộ mặt nghiêm trọng nhìn con nhện đang khốn khổ vì vết thương chửi ầm lên:

“Khốn khiếp, suýt nữa ta mất mạng già vì chúng bay.”

Nói xong ông giơ kiếm xông vào con nhện mù.

“Hai mươi người vây lấy hai con nhện, còn lại cảnh giới xung quanh, để ta xử lý con kía.” Ambrose bình tĩnh ra lệnh, cậu chỉ vào con nhện đánh lén suýt giết chết thầy khỉ.

Nghe lệnh một trăm binh sĩ rút vũ khí, chuẩn bị tiến tới quần nhau với hai con nhện.

Ambrose nhếch mép khiêu khích nói:

“Xem nào, không biết ngươi chịu được mấy chiêu…”

Con nhện như nghe hiểu lời cậu nói, nó rống lên giận giữ, nó nhảy chồm tới Ambrose, chân nó chạm đấy khiến mấy viên gạch lót đường vỡ vụn, bắn tứ tung.

Ambrose không vội vã, cậu thở nhịp nhàng nhìn con nhện xông tới, cậu thấy mỗi động tác của nó như chậm lại, Ambrose đưa ngang thanh kiếm Lleuad lên quá đầu, ánh kiếm hòa cùng ánh trăng tạo thành một vầng sáng huyền ảo.

Kèm theo một tiếng hét, Ambrose hạ thấp trọng tâm lấy đà lao lên phía trước, cậu chuẩn bị đối đầu trực diện với con nhện.

Ánh kiếm lóe lên, một tiếng trầm đục vang lên.



Rồi “Uỳnh” một tiếng, cao bóng đen to đùng của con nhện đổ xuống đất, mọi người thấy rõ ba cái chân nhện vẫn còn đứng thẳng như mấy cái cọc nhà, ba cái móng vuốt cắm sâu xuống đất, một dòng máu xanh lè phun ra từ trên đỉnh cọc.

Thật ngọt, thanh kiếm chép dứt ba cái chân nhện.

Ambrose chân trái đạp về trước phanh người lại, hông quay một góc một tăm tám mươi độ, chân phải cậu nhún xuống lấy đà. Cả thân hình cậu bé bắn lên khỏi mặt đất, cậu nhảy tới trước mặt con nhện, kiếm hạ xuống chém thật mạnh vào đầu con nhện.

Như dùng một con dao chém đậu hũ vậy, đầu con nhện bị sẻ làm đôi. Nhện vừa chết, máu a xít của nó lập tức ăn mòn cơ thể, xác nhện bốc khói xanh lè.

Xong một con.

Đúng lúc này, một giọng nói phía sau lưng Ambrose vọng tới: “Bệ hạ, cận thận…”

Ambrose cảm thấy một con nhện khác đang ở ngay sau lưng cậu. Ngay lập tức cậu nghiêng người, nhảy sang một bên tránh nó ra. Cậu vừa nhảy ra khỏi thì lập tức hai cái chân nhện nhọn hoắt đâm thẳng xuống đúng vị trí đó, cái đầu bị bổ đôi lúc này nát như một quả dưa hấu rơi từ trên mười mét xuống đất.

Ambrose nhìn con nhện, cậu doán ngay chuyện gì xảy ra. Con nhện này vốn dĩ ở góc đường, sau lưng nó là tường nhà, binh lính không thể bao vây nó hoàn toàn được, nên trong tích tắc nó nhảy qua đám lính xông tới phía cậu.

Thấy con mồi của mình tránh được một chân, con nhện này tiếp tục quật cái chân to như đùi người đàn ông về phía Ambrose, nó không thèm để ý một chút nào đồng loại mới chết.

Thấy vậy, Ambrose chỉ kịp đưa sống kiếm che trước người, “Ầm” Ambrose cảm thấy mình như bị một chiếc xe tải đâm vậy, lực chấn động khiến tay cậu run run, nếu không phải ý chí cứng rắn thì thanh kiếm đã tuột ra rồi.

Cả người cậu bé bị hất về phía sau năm mét, Ambrose gập người cố giữ thăng bằng, câu tiếp đất trong tư thế một chân quỳ. Ambrose cảm thấy rõ cơn đau nhức nhói lòng từ đầu gối, mặt cậu nhăn lại, hai môi mím chặt.

Dù thế nào cậu vẫn là một đứa trẻ, sức mạnh không phải lợi thế của cậu. Lần sau phải tránh con nhện ra, không nên trực diện đỡ đòn của nó, Ambrose rút kinh nghiệm.

Con nhện tiếp tục xông đến, nó nhảy lên thành một đường cong cầu vòng, trên không chung, tám cái chân nó co lại về sau, thân mình, cái ngực, cái bụng nó hướng lên trước.

“Ầm…” Sáu tiếng va chạm lớn vang lên, khói bụi mù mịt, bọn lính để con nhện thoát lo lắng nhìn về dám khói bụi, chúng chỉ nhìn thấy một ánh kiếm lóe lên thành một đường cung.

Khói tan đi, thân hình Ambrose dần xuất hiện, cậu bé đang đứng ‘hiên ngang’, khuôn mặt câu bé dính đầu bụi, áo giáp đang bốc khói, chúng bị dính máu nhện, cái áo choàng sau lưng rách te tua, một mảnh áo đã bị xé mất.

Sau lưng Ambrose, con nhện nằm sấp bất động, một bãi máu xanh lè đang lênh lãng chảy ra từ bụng nhện. Nếu để ý kĩ ta sẽ thấy một mảnh vải rách màu xanh dương dưới bụng nhện bên cạnh một cái chân lòi ra như là cậu ta vừa chui từ đó ra vậy.

Xong hai con.

Đúng là như vậy, khi con nhện sắp tiếp đất, Ambrose đánh liều trượt người xuống bụng nhện, may cho cậu là không dính một cái chân nhện nào. Cậu vung kiếm chém ngang bụng con nhện. Trong khoảnh khắc đó cậu mới biết mình liều như thế nào, một bể a xít hơn tạ ở trên đầu cậu, và cậu vừa đâm thủng đáy bể. Ambrose phải lăn người thật nhanh hòng thoát khỏi bể a xít.

Trong lúc đó, chiếc áo choàng lại vị một cái chân nhện, trong đầu cậu than một ngàn cái xui xẻo. Cái áo choàng này khiến cậu chậm mất nửa giây, thế là một phần ba áo giáp bị tắm a xít. Ambrose thề sau này không mặc áo choàng khi chiến đấu nữa.

Từ xa theo dõi, tất cả binh lĩnh tĩnh lặng, họ thở phào, họ đã không hoàn thành nhiệm vụ, may bây giờ, con nhện chết, như một tảng đá trong ngực họ biến mất. Họ chưa bao giờ nghĩ rằng đức vua của họ lại mạnh tới như vậy, một ngọn lửa bùng cháy trong lồng ngực họ, đó là ngọn lửa của tự hào. Tất cả ồ lên hoan hô: “Đức vua muôn năm! Đức vua muôn năm!..”

Ambrose thở gấp hơn, một phần do dùng sức quá nhiều, một phần nhiều do hưng phấn. Thật không ngờ giết một con nhện Araranner lại dễ ràng như vậy, câu làm theo lời của Ẩn sĩ đã nói: “Trong mọi trận chiến, chiến thắng sẽ gành cho người nào tỉnh táo hơn, nhưng khi đấu với một quái vật không có tư tưởng thì càng cần phải tỉnh táo hết sức có thể.”

Cộng thêm kiếm Lleuad vô cùng sắc bén, Ẩn sĩ luôn dặn cậu phải cẩn thận khi dùng nó nếu không muốn tự làm thương mình. Hơn nữa Lleuad nó còn là một thanh kiếm ma thuật, ta có thể truyền ma lực từ cơ thể vào thanh kiếm, từ đó thi triển một số phép thuật đơn giản. Mặt khác, thanh kiếm có khả năng hấp thụ năng lượng từ ánh trắng, mỗi khi chiến đấu dưới ánh trăng, nó trở lên càng sắc nén.

Kết cục của con nhện đã xác định từ trước khi trân chiến bắt đầu.

Ambrose chậm rãi nâng thanh kiếm lên rồi cậu chém một đườn xuống đất cho máu nhện văng hết ra khỏi lưỡi kiếm.

Một bên khác, giáo sư Songoku vừa xử lý xong con nhện mù, ông đâm nó một nhát giữa ngực. Ông đã thật thót tim khi thấy Ambrose bị con nhện đánh lén sau lưng, may mắn cậu bé không sao.

Ambrose hít một hơi thật sâu đè xuống cảm giác hưng phấn, rồi xoay người nhìn con nhện còn lại. Trong chớp mắt, Ambrose có ảo giác con nhện đang nhìn mình. Lắc lắc đầu, Ambrose cho là mình hơi bị choáng.

Cậu nhìn lại con nhện thấy nó không chủ động đánh trả quân lính mà lại có xu hướng chạy trốn. Cậu chuẩn bị nhắc nhở binh lính mình thì.

Con nhện xông tới chịu một kiếm, rồi nó nhảy lên lợi dụng thanh kiếm chém đứt mấy sợi dây thừng. không những vậy, nó còn cố ý cắt dứt một chân để chạy trốn.

Không kịp rồi, con nhện nhảy qua dãy nhà phía bắc chạy mất.
 
Chương 49: Con thỏ


Nhìn con nhện biến mất, đột nhiên Ambrose có ảo giác bọn lính kia sao vô dụng tới vậy, chỉ có việc vây hai con nhện mà cũng làm không xong, dạ dằn Ambrose quặn lại, cậu chỉ muốn chửi ‘một lũ vô dụng’.

Từ hôm qua tới giờ, biến cố diễn ra quá nhanh, liên tục và dồn dập, Ambrose đang phải chịu áp lực rất lớn.

Giáo sư Songoku đi tới bên cạnh Ambrose lo lắng hỏi:

“Đức vua, chúng ta làm gì tiếp theo?”

Ambrose giật mình, cậu cố xua đi những ý nghĩ lung tung, cậu nhẩm nghĩ tiếp theo làm thế nào, vừa rồi, bọn họ bị bốn con nhện tập kích, nhưng chỗ này cách tuyến phòng thủ phía đông hơn ba Ki lô mét, chỉ có một khả năng là bốn con nhện nảy đã vượt qua tuyến phòng thủ để xông tới đây.

Vấn đề là nếu tuyển phòng thủ bị phá vỡ, thì chắc chắn có nhiều hơn bốn con, ta có thể đoán tuyến phòng thủ chưa hoàn toàn bị phá vỡ, nhưng tình trạng của nó vô cùng nguy hiểm, lũ nhện có thể tràn vào thành phố bất kì lúc nào.

Ambrose cần nhất bây giờ là tiếp viện cho bên đó, nhưng cũng không thể để mặc con nhện kia chạy lung tung, thật rắc rối, cậu nói:

“Chúng ta chia làm hai đường, thầy cùng quân đôi đi tiếp viện phòng tuyến, còn ta sẽ xử lý con nhện.”

“Không nên, quá nguy hiểm cho người thưa đức vua.”

“Chỉ có cách này thôi, thầy dẫn mọi người đi.”

“Nhưng…” Songoku còn muốn nói gì nhưng khi ánh mắt ông nhìn thấy ánh mắt tóe lửa của Ambrose, ông biết nhà vua đang mất kiên nhẫn, không có cách nào thay đổi quyết định của người, ông đành gật đầu nói:

“Thần biết rồi, thưa đức vua.”

Ambrose nhắm hai mắt lại, vừa rồi cậu lại suýt mất kiểm soát, một tháng trở lại đây, cậu thường xuyên vô cớ nổi nóng nhất là lúc có người không nghe lời cậu, như bị một thứ gì đó thôi thúc. Thứ đó tồn tại vô cùng sâu trong người cậu. Cậu không rõ nó là gì, nhưng nó đã bên cậu từ lúc cậu nhớ được, và nó ảnh hưởng càng mạnh, như một thứ gì đang thức dậy vậy.

Cũng trong một tháng này, hầu như đêm nào cậu cũng mơ một giấc mơ, trong mơ, cậu rất lạnh, lạnh chân tay không thể cử động được, và lại rất nóng, cảm giác như máu cậu dâng sôi lên trong mạch máu vậy.

Mới đầu chỉ là cảm giác nóng và lạnh đó, nhưng về sau cậu có một cảm giác gò bó, bất lực, chính nó khiến cậu bị ức chế dễ dàng nổi nóng. Càng về sau cảm giác đó càng mạnh, sự bất lực ngày càng thấm sâu.

Mới đầu, cậu chỉ nhìn thấy một vùng tối tăm, sau đó cậu thấy được ánh lửa đỏ rực, rồi đúng ba ngày trước, Ambrose nhìn thấy hai bóng đen lờ mờ, chúng ở ngay trước mặt cậu, cậu muốn tiến tới xem đó là gì rất gần nhưng cậu không thể nhúc nhích cơ thể, mỗi lần hai đen ấy rõ ràng hơn một chút thì một ánh sáng xanh lè đột nhiên xuất hiện… Cậu tỉnh dậy.

Lúc này, tất cả binh lính đã tập hợp thành một hàng chỉnh tề, Ambrose nói với bọn họ:

“Tất cả chú ý, bây giờ ta sẽ đuổi theo con nhện, Kiếm sư Songoku sẽ chỉ huy các ngươi đến tuyến phòng thủ, các ngươi phải làm mọi cách kéo dài thời gian nhất có thể, Thống lĩnh Otmin sẽ cử quân sang tiếp viện, lúc đó chúng ta sẽ giết sạch nhũng con nhện gớm giếc này.”



Kiếm sư Songoku là hướng dân viên kiếm thuật trong quân đội, những người lính không ai không biết ông, bọn họ đồng loạt hô to:

“Tuân lệnh.”

Thở dài một hơi, Ambrose quay sang Songoku nói tiếp:

“Được rồi, ta đi trước, ta sẽ xử lý con nhện trong chớp mắt rồi tiến tới chiến trường, thầy không phải lo lắng đâu, thực lực của ta thầy cũng biết.”

Nói xong cậu xoay người đuổi theo con nhện.

================

Hôm nay trăng tròn, rất nhiều chuyện đều xảy ra vào đêm trăng tròn, trận chiến bốn năm trước của quân đội Alan vói Phù thủy trắng vào đêm trăng tròn, trận chiến hôm nay cũng vào đêm trăng tròn, trong giấc mơ, cậu cũng thấy một vầng trăng tròn.

Ánh trắng chiếu sáng con đường, Ambrose thấy rõ từng dấu vết con nhện để lại. Nó chảy máu rất nhiều, nói nào nó đi qua cũng đề bị a xít ăn mòn, tạo thành từng vết ăn sâu vào gạch lát đường.

Con nhện đi về hướng bắc, nó đang tiến tới một kho hàng ven cảng. Xung quanh bến cảng có rất nhiều kho hàng, toàn bộ nền kinh tế của đất nước đặt ở đây, nó quan trọng như là một quả tim trong lồng ngực vậy, từ đây, mọi hàng hóa được vận chuyển tới các quốc gia, tới chợ của vương quốc, rồi tới từng nhà dân.

Sau năm phút, xuất hiện trước mặt Ambrose là một cánh cổng khổng lồ cao hơn mười mét. Cái cổng này bị mất một miếng ở giữa, trong không khí cậu vẫn ngửi thấy mùi két lẹt. Chắc chắn con nhện dùng máu mình ăn mòn tạo thành lỗ thủng kia.

Ambrose thận trọng bước vào trong kho hàng, bên trong ánh sáng mờ mịt. Một ít ánh trăng len qua tám khung cửa thông gió xung quanh kho. Bên trong xếp đặt từng khối thùng gỗ đen sì, mùi nhự thông khá mới ập vào mũi cậu, rất nhiều thùng mới được đóng, bọn họ chuẩn bị một đợt giao hàng lớn nhất trong năm.

Dưới chân cậu đệm một lớp cỏ khô, chúng có chức năng hút ẩm, không để hàng hóa bị hỏng. Không khí tĩnh lặng tới mức cậu có thể nghe thấy nhịp tim của mình: ‘bụp’ ‘bụp’.

Con nhện không chạy trốn nữa, nó đang lấp một chỗ chờ cơ hội đánh lén cậu, Ambrose chớp nghĩ.

Thình lình, một tiếng xột xoạt rất nhẹ từ phía trước vọng lại, anh mắt Ambrose lóe lên, cậu dần dần thích ứng không gian thiếu sáng, Ambrose hạ thấp người bước thật nhanh về phía trước. Các giác quan cậu hoạt động hết công xuất cảnh giác xung quanh, đề phòng bất kì thứ gì đột nhiên xuất hiện.

Rất nhanh, Ambrose nhìn thấy thứ phát ra tiếng động, đó là một con thỏ đen thui đang gặm cà rốt, tiếng xột xoạt phát ra từ trong mồm con thỏ.

Ambrose nhớ là các quý tộc Calorman rất thích ăn thịt thỏ, đặc biệt là giống thỏ đặc hữu chỉ có ở Kingdom of Seven Isles. Con thỏ này là một sản phầm chăn nuôi của vương quốc bán sang Calorman với giá cao.

Nếu đây là một trò đáng lạc hướng thì nó thật là rẻ tiền, Ambrose đột nhiên có một ý nghĩ.

Trong tích tắc, một cảm giác nguy cơ bao phủ toàn thân cậu, tim cậu đập dồn dập, từng sợi lông trên da dựng ngược lên, Ambrose chỉ biết dồn lực xuống chân mình, cậu lấy đà nhảy sang bên phải, rồi Ambrose xoay người chém một nhát may mắn về phía con thỏ.

Lúc này không có con thỏ nào ở đấy cả, thay vào đó là một con nhện khổng lồ, cậu liếc thấy con thỏ đáng thương bị đè xẹp dưới chân nhện.

Lưỡi kiếm vung ra cắt dứt một cái chân nhện, con nhện rít lên đau đớn. Nó bổ cả người về phía Ambrose như muốn liều mạng vậy.

Ambrose vừa vung kiếm đánh chệch chân nhện vừa nhảy lùi về sau, cậu dụ con nhện về chỗ mặt trắng hất xuống, cậu chỉ cần chờ thời cơ.

Đã tới, khi kiếm Lleuad chạm tới ánh trắng, cả lưỡi kiếm phát ra một ánh sáng trắng ngọc huyền ảo. Rồi như được tiếp thêm năng lượng, Ambrose chém thật mạnh về cái đầu nhện đang tới.

Con nhện không kịp phản ứng khi Ambrose bất ngờ đổi hướng, nó không né được lưỡi kiếm.

“Xoẹt…”

Con nhện bị chém làm đôi.

Ambrose thở dốc thu hồi thanh kiếm, lần này cậu lợi dụng ánh trăng cung cấp một phần sức mạnh để sử lý nhanh gọn con nhện. Tuy quá trình diễn ra rất nhanh, nhưng lần đánh nén này hung hiểm rất nhiều lần lúc trước.

Lần trước khi binh lính để lọt con nhện, bọn họ không quên kêu lên cảnh báo Ambrose, dù thời gian rất ngắn nhưng cậu cũng ứng phó được, lần này Ambrose chỉ dựa vào linh cảm và sự may mắn.

Nói thật, cậu thật không ngờ rằng con nhện Araranner này lại dùng con thỏ đánh lạc hướng cậu, nó đáng lẽ không thông minh như vậy.

Nghĩ tới chỗ này, cả người Ambrose cứng lại. Cậu nhanh chóng tua lại tất cả sự việc xảy ra ngày hôm nay.

Thình lình, những ngọn đuốc ở đâu bùng lửa, Ambrose nheo mắt lại bởi ánh đuốc đâm thẳng vào mắt.

Bộ áo giáp nóng lên, nó trở lên nặng trĩu, Ambrose muốn đứng vững nhưng không được, cậu ngồi uỳnh xuống. Cậu thấy rõ rằng trên ngực áo giáp bóng loáng nổi lên một vòng tròn với những họa tiết kì lạ, bên trong nó là một ngôi sao sáu cánh. Đây là một ma pháp trận.

“Ha Ha… Đức vua kính mến của ta, người có thích món quà này không…” Một giọng nói quen thuộc vang vọng toàn bộ kho hàng.
 
Chương 50: Kế hoạch


“Ha Ha… Đức vua kính mến của ta, người có thích món quà này không…” Một giọng nói quen thuộc vang vọng toàn bộ kho hàng.

Tất cả là một âm mưu được sắp đặt trước.

Ambrose ngẩn đầu lên, cậu thấy một vóc người nhỏ bé, lưng còng, tay chống gậy, hắn ta mặc một cái áo chùm dài lê thê. Ambrose nhận ra đó là ai, cậu nói từng chữ:

“Là ngươi phù thủy Hag, chính ngươi sắp xếp mọi chuyện..”

Hag nhìn khuôn mặt sắp bão nổ tới nơi của Ambrose, bà ta lại cười lớn.

“Đúng vậy, chính là thần.” Hag giọng nói vô cảm thừa nhận.

“Chính ngươi điều khiển con nhện này?”

Lúc trước cậu tưởng mình bị ảo giác, nhưng đúng là đã Hag theo dõi cậu qua con nhện, bà ta điều khiển nó dụ cậu tới đây.

“Đúng vậy, hơn nữa thần còn điều khiển chúng tấn công tiểu đội ở rừng đen đêm hôm qua, và cả lũ nhện tấn công thành phố tối nay nữa…” Hag giọng khàn khàn nói.

Lần này Ambrose thật sự tức điên lên rồi, cậu mãi mới bật ra một chữ:

“Tại sao?”

Đúng vậy, tại sao Hag lại chọn phản bội vương quốc, bà ta biết rằng nếu Ambrose có xảy ra chuyện gì thì bà cũng không thoát, không cần Ẩn sĩ ra tay, một mình Fayola cũng đủ tiêu diệt Hag.

“Tại sao thần làm vậy ư!” Hag đi tới bên cạnh Ambrose đá cậu một cái trước ngực, bà ta tức giận nói “Chính xác là ta chưa bao giờ thuần phục một tên nhóc náo toét như mi và con nhỏ xấc xược kia. Mi biết tất cả những thứ mi có hiện tại là của ai không?”

Một kinh tởm giống mùi mỡ thiu xộc lên mũi Ambrose, Hag bà ta thật bốc mùi, cậu có kìm nén cảm giác nôn bửa. Cậu giọng nói mang vẻ ngạc nhiên đáp lại:

“Người vẫn còn trung thành với Phù thủy trắng, nhưng bà ta đã chết rồi…”

“Ai nói người đã chết…” Hag gầm rú hét lên, giọng bà hết sức kích động “Không ai trên thế giới này giết Người được, kể cả con sư tử Alan hay lão Ẩn sĩ cũng vậy.”

“Hag, bà bị hoang tưởng rồi hả, chính mắt bà đã thấy Phù thủy trắng tan thành bùn, trừ khi…” Ambrose ánh mắt như nhìn một mụ điên nhìn Hag.

Hag không nói gì chỉ cười càng lớn, bà nhìn Ambrose như nhìn một tên ngốc. Hag thò tay vào trong áo choàng, bà rút ra một cái pháp trượng.

Đây là… pháp trượng của Phù thủy trắng. Ambrose nhận ra ngay, chính cậu mấy lần suýt bị Phù thủy trắng dùng nó giết.



Bốn năm trước, khi mụ phù thủy chiến đấu với Alan, pháp trượng của mụ bị Alan đánh bay đi, chính cậu và Ambrose lúc thu dọn chiến trường đã tìm nó nhưng không thấy, thật không ngờ nó lại ở trong tay Hag.

Phù thủy Hag nhìn sắc mặt Ambrose thay đổi cười the thé nói:

“Mi hẳn là nhận ra được đây là pháp trượng của Nữ hoàng.” Hag khịt mũi nhìn Ambrose “Tất cả những gì mi và con bé Fayola kia có hiện nay chỉ là đòn đánh lạc hướng Alan thôi.”

“Bà định nói gì?” Ambrose không hiểu hỏi Hag, bà ta muốn làm gì?

“Ta làm tất cả mọi thứ để phục sinh nữ hoàng…”

Lời phù thủy Hag như một tiếng sấm rền trong lòng Ambrose, Hag đã nói như vậy và đã làm tới bước này thì bà ta đã nắm chắc phục sinh Phù thủy trắng. Cậu nghe bà nói tiếp:

“Nữ hoàng là một người vĩ đại hơn ngươi hiểu nhiều, Người đã đoán được một ngày những con người bẩn thỉu sẽ hợp lực với Alan ám hại người. Người đã chuẩn bị kế hoạch này lâu lắm rồi.”

“Kế hoạch gì?” Ambrose cố giữ giọng mình bình tĩnh lại hỏi

“Ha ha… Đầu tiên người sẽ chia rẽ những con trai của Adam và con gái của Eve, không nghĩ chỉ bằng kẹo…” Nói tới đây, Hag nhịn không ngừng được cười, “Ha ha… Tên ngu ngốc kia vẫn con ở Narnia làm vua đấy.”

“Nếu thành công thì Alan sẽ chết bởi Phép thuật tối cao, nhưng may mắn con sư tử đó không chết…” Bà ta hừ lạnh một tiếng. “Người đã dự tính được điều này và sai ta lấy một thứ từ trên người Alan.”

Bà ta lại lục trong túi áo lấy ra một chai thủy tinh nhỏ, bên trong đụng một dung dịch đỏ như máu. Bà chỉ cái chai nói đầy tự hào:

“Đây là máu của Alan, lúc con sư từ đó tới chịu chết chính tay ta đã ‘chăm sóc’ nó. Mi xem, máu này là một phần rất quan trọng trong nghi thức phục sinh Người.”

Lúc này Ambrose đã nhận ra lý do mình ở đây, cậu trầm ngâm nói: “Thứ cần thiết tiếp theo là vật hiến tế… là ta phải không?”

Phép thuật không phải vạn năng, muốn làm bất cứ chuyện gì thì cũng cần đánh đổi đúng giá, thậm trí là trả giá đắt. Một sinh mạng chỉ đổi bằng một sinh mạng, cậu biết điều này.

“Mi khá thông minh đấy, nói đúng.” Mụ phù thủy bất ngờ nhìn Ambrose nói

“Thứ cuối cùng... là linh hồn của Nữ hoàng.”

“Không thể nào, mụ ta đã đánh đổi linh hồn với Cái Ác…” Ambrose không tin nói.

Khi Ambrose hỏi tại sao phù thủy trắng lại đột nhiên đánh bạo đem Alan suýt đánh chết, Ẩn sĩ đã giải thích phù thủy đã dùng linh hồn mình để đối lấy sức mạnh.

Hag không để ý cậu, bà đi sang một bên giựt một sợi dây đang treo giữa phòng, “bịch” một tấm gỗ rơi từ trên máu xuống, trên trần hiện ra một cái lỗ hình tròn, ánh trăng xuyên chéo từ trên xuống mặt đất, tạo thành một hình e líp bằng bạc.

Làm xong tất cả, mụ mới nói:

“Đúng Người đã làm vậy, nhưng ai bảo là người không chuẩn bị trước, trong lúc chiến đấu với Alan, Nữ hoàng đã bí mật chuyển pháp trượng cho ta.”

“Một phần linh hồn của Người ở trong này, phần linh hồn này khá yếu, ta phải chờ bốn năm mới tới lúc linh hồn người khỏe hơn, nếu không mi đã chết từ khi mới lên đảo rồi...” Hag vừa nâng niu pháp trượng vừa nói.

Hag ngừng lại không nói tiếp, bà nhìn lên bầu trời, lúc này đã là giữa đêm, mặt trăng lên cao nhất. Ánh trắng dọi thẳng từ trên trời xuống đất, không biết từ lúc nào xung quanh Ambrose phủ đầy ánh trăng, cái hình e líp đã biến thành hình tròn.

“Nói chuyện phiếm dừng ở đây, đến thời gian nghi thức bắt đầu rồi.”

Phù thủy Hag tiến tới xách Ambrose đặt cậu nằm dưới ánh trăng.

Rồi bà trở ra vòng tròn, bà vừa ngâm xướng một giai điệu ma mị vừa đi lòng vòng xung quanh Ambrose.

Pháp tượng của Hag cắm xuống đất, bà vừa vẽ một thứ gì đó.

Đó là một cái ma pháp trận khổng lồ.

Một vòng tròn hình thành, tiếp tới hai ngôi sao bẩy cánh chồng lên nhau,... tất cả chúng lấy Ambrose là trung tâm.

“Xong…” Bà ta liếm môi nhìn Ambrose, “Bây giờ là giờ khắc Người trở lại…”

Mụ tới trước mặt Ambrose, bà ta giơ cao pháp trượng qua đầu rồi hạ thật mạnh xuống đất.

“Choang” Một ánh sáng trắng xanh lóe lên, chiếu sáng toàn bộ không gian, Ambrose thấy rõ khuôn mặt méo mó, xấu si đầu nốt của Hag dưới cái mũ chùm.

Cây pháp trượng đúng trên mặt đất một lúc, rồi một trụ băng chồi lên nâng nó lên không.

Sau đó nhiệt độ không khí giảm nhanh lạnh, bên trong vòng tròn ma pháp trận, tất cả mọi thứ bắt đầu đóng băng, cả người Ambrose cũng vậy.

Phù thủy Hag nhảy lùi về phía sau, ánh mắt mong đợi nhìn ma pháp trận.

Chỉ trong hai giây, Ambrose bị đóng băng trong một khối băng hình lồng chim úp, trên đỉnh lồng là cây pháp trượng đang tỏa sáng rực rỡ.

Phù thủy Hag tiến đến, Bà nhỏ một giọt máu của Alan lên tảng băng.
 
Chương 51: Nhớ lại


Ambrose tỉnh lại, cậu cảm thấy mình đang nằm trên một thứ gì đó xốp xốp, lành lạnh, đó là một đống tuyết dày. Cậu ngồi dậy nhìn quanh, đầu cậu ong ong như có một đàn ong vo ve trong tai.

Bây giờ là buổi tối, Ambrose đang ngồi trong một cái sân khá rộng, trước mặt cậu là một ngôi nhà ba tầng, trên đầu cậu là một tán cây liễu cổ thụ trắng muốt vì tuyết.

Ngôi nhà, cái sân, cái cây,... mọi thứ trông rất quen thuộc, nhưng cậu không nhớ đã gặp chúng ở đâu.

“Lạnh quá… mình đang ở đâu…”

Hai tay xoa vay, Ambrose tự hỏi: tại sao cậu lại xuất hiện ở đây, cậu nhớ là mình bị Hag bắt, sau đó… sau đó… thì sao? Cậu vỗ vỗ cái đầu để nhớ xem chuyện gì, nhưng cách này xem ra cách này không hiểu quả.

Bỗng nhiên, Ambrose nghe thấy nhiều tiếng đồ đạc rơi vỡ loảng xoảng, bên trong căn nhà có chuyện gì đang xảy ra. Nghĩ vậy, cậu đứng dậy bước tới bên căn nhà, nhòm qua cửa sổ xem.

Trong phòng rất tối, cậu loáng thoáng thấy một nhóm năm người mặc áo chùm che kín người, quỳ bên cạnh họ là hai bóng người lờ mờ.

Sao cảnh này quen thuộc tới vậy, đây là giấc mơ của mình, Ambrose kinh hãi nghĩ.

Bỗng nhiên tim cậu đập mạnh, dạ dày quặn lại. Cậu cảm thấy rất buồn, cực kì buồn, đây là cảm giác đau khổ, mất mát, từng cảm xúc trong giấc mơ tái hiện.

Chuyện gì đang xảy ra vậy? Ambrose hoang mang nhìn xung quanh.

Một tiếng rên đau đớn phát ra từ trong phòng khiến Ambrose bật tỉnh, cậu thấy người đàn ông đang rên rỉ, con người phụ nữ đang cầu xin tha thứ.

Không, lòng Ambrose nóng như lửa, cậu muốn xông vào cứu họ, không biết vì sao cậu lại cảm thấy như vậy. Ambrose muốn hét lên: “Dừng tay.” Nhưng không một âm thanh nào phát ra, miệng cậu cứng lại không nói được một từ nào. Cậu muốn nhảy vào, nhưng chân cậu không nghe lời, cậu không nhúc nhích được một li nào cả.

Một cảm giác quen thuộc bao chùm toàn bộ cơ thể lẫn tinh thần Ambrose, đó là sự bất lực, giống hệt trong giấc mơ.

“Ngươi đang rất muốn cứu bọn họ…” Một giọng nói du dương hiện lên trong tai cậu.

“Ai! Là ai đang nói vậy?” Ambrose giật mình nhìn xung quanh.

“Ngươi có phải muôn cứu họ không?” Giọng nói không trả lời câu hỏi mà tiếp tục nói.

Tuy rằng cậu rất muốn trả lời là có nhưng linh cảm của cậu lại nói rằng chuyện này không đơn giản như vậy.

Nếu là lúc trước, cậu chỉ nghĩ mình lại nằm mơ giấc mơ này một lần nữa nhưng lần này nó quá thực, Ambrose quá tỉnh táo. Và giọng nói kia chỉ lần này mới xuất hiện.

“Ngươi rối cuộc là ai?” Ambrose hỏi thêm một lần nữa.

Lúc này, một làn khói xanh lục bốc lên từ mặt đất, chúng cuộn vào nhau tạo thành một hình nửa thân người trên. Hai mắt Ambrose co rút lại, đó là mụ Phù thủy trắng, không phải mụ đã chết rồi sao?

“Sao… sao bà lại ở đây?” Ambrose kinh ngạc lắp bắp hỏi.

Cậu đang định nói tiếp nhưng bị tiếng la hét trong phòng nhân cắt dứt, cậu quay đầu lại nhìn.

Qua cửa sổ, Ambrose thấy người đàn ông bị đá ra xa, nhóm người Áo đen đang rất giận dữ, cậu nhín thấy khuôn mặt chúng giống hệt khuôn mặt mụ phù thủy lúc thi phép hóa đá cậu.



Một tên rơ lên một cái que đen đen, đó là một cây ‘đũa phép’. Một cái tên lạ hoắc xuất hiện trong đầu cậu, cậu không biết đũa phép dùng để là gì nhưng nó mang đến một cảm giác chết chóc.

“Hắn định làm gì? Tại sao hắn lại chĩa đũa phép về phía hai người kia?” Ambrose thầm nghĩ.

“Hắn đang định giết hai người đáng thương đó. Ngươi không muốn cứu họ ư?” Mụ phù thủy trắng như đoán được ý nghĩ của cậu, mụ bên tai cậu thầm thì.

“Bà im đi.” Ambrose cảnh giác nói.

“Chỉ cần người cầu xin là ta sẽ cứu hai người họ, đứa bé ngốc nghếch.” Mụ cười nhạt nhéo, ánh mắt mụ như ăn chắc Ambrose.

Đúng lúc này, từ cây đũa phép phát ra một ánh sáng xanh lè.

“Không... không…” Ambrose nhận ra ánh sáng đó. Cái thứ ánh sáng đó ăn sáng luôn kết thúc giấc mơ. Tên áo đen sẽ giết chết hai người kia….

“Mi nhìn thấy không, tên kia sẽ giết chết hai người đáng thương ấy. Ta nới cho mi biết hai người họ là cha mẹ của mi đó...ha… ha….”

“Cha... mẹ…” Ambrose lẩm bẩm, nước mắt bắt đầu rơi trên má cậu.

“Nhanh lên chỉ cần mi cầu xin ta, ta sẽ cứu họ…” Mụ thủy tiếp tục nói.

Không, mình không thể để họ chết được… Trong sâu thẳm, một giọng nói thôi thúc Ambrose phải cứu họ. Ánh mắt không rời vị trí hai người, Ambrose run run nói:

“Cầu xin... bà, bà mau cứu họ đi...”

Ambrose vừa nói xong bộ phù thủy cười ha ha như bị điên.

“BÀ làm gì vậy? Nhanh cứu cha mẹ tôi đi…”

Mụ phù thủy không động đậy, mụ ánh mắt trêu tức nhìn Ambrose. Không xong, tên áo đen sắp thi chú…

“AVADA KEDAVRA….”

Ánh sáng xanh lóe lên rồi lao về phía hai người, mụ phù thủy vẫn không làm gì cả, Ambrose bất lực hết lên:

“KHÔNG…. Bà nhanh cứu họ…”

Cậu vừa nói xong thì ăn sáng đã chạm đến hai người, chớp mắt cái hai người họ biến mất

“Chuyện gì đã xảy ra….”

Ambrose cảm thấy mất đi một thứ vô cùng trọng yếu của mình. Đây là cái gì? Cậu ngồi phệt xuống đất. (Lúc này thân thể cậu cử động được trở lại)

Cậu chưa kịp suy nghĩ gì cả, mụ phù thủy đã dùng hai bàn tay lạnh buốt của mụ bóp chặt lấy cổ cậu.

“Bà đang làm gì?” Ambrose khó khăn nói, âm thanh đọng lại trong cổ cậu không thoát ra được.

Bà ta đang định giết mình, cậu nhận ra. Bỗng nhiên cậu cảm thấy không muốn sống nữa, cái cảm giác mất mát, đau khổ ấy khiến cậu không muốn sống.

Ambrose từ từ nhắm mắt lại, cậu không chống lại nữa.

Đúng lúc này, một ánh sáng trắng chói loà bay ra từ trong người cậu, một cuốn sách tỏa sáng như một mặt trời nhỏ, cậu chỉ nghe thấy một giọng nói hét lên:

“Con điên phù thủy, cút ra, mi làm gì bạn tao…..”

Rồi sau đó, Ambrose ngất đi.

====================

Lúc này bên ngoài, Hag đang trợn to mắt sợ hãi nhìn,cả tảng băng lóe sáng rồi phát nổ, bà ta không kịp phản ứng thì đã bị lực chấn bay ra ngoài.

Tảng băng vỡ tan, Ambrose nằm trong đó, trên đâu cậu trôi lơ lửng một quyển sách, một giọng nói non nớt từ trong đó phát ra:

“Ê, Ambrose, tỉnh lại đi…”

Cuốn sách bay xuống đập đập vào đầu Ambrose như lay tỉnh cậu.

Sau một lúc, cảm thấy như bị ai đó gõ vào đầu vậy, cậu mở mắt ra. Rồi giật mình chồm dậy, cậu nhớ là mình bị Hag làm vật hiến tế, Ambrose cảnh giác nhìn xung quanh.

Ma pháp trận trên bộ giáp không biết lúc nào đã biến mất, Ambrose có thể tự do xoay người.

“Hag đâu rồi?” Ambrose nghĩ thầm.

“Ê, tỉnh rồi ư?” Một giọng nói thình lình vang lên từ trên đầu Ambrose khiến cậu giật bắn mình.

“Ngươi là cái gì vậy?” Ambrose kinh ngạc nhìn quyển sách bay lơ lửng trên không nói.

Bỗng nhiên, Ambrose cảm thấy đầu đau như nứt ra, hàng loạt hình ảnh xuất hiện.

Cậu nhớ ra được mọi thứ kể cả cái đêm hôm ấy, kể cả mình đến thế giới này như thế nào.

Từ khi tới thế giới này, trí nhớ về thế giới thực của cậu bị xóa dần dần, cậu nhớ lại về Baemyn, cha mẹ, cả đêm tập kích...

“Cậu là Deus.” Ambrose bật thốt lên.

“Hà hà, thế là nhớ lại rồi hử..” Deus nói.

“Khoan, cậu làm sao lại nói được…..” Ambrose còn muốn hỏi nhưng một tiếng lộc bộc lôi kéo sự chú ý của cậu, cậu thấy Con phù thủy Hag đang bò ra khỏi đống băng đá.
 
Chương 52: Trở lại hiện thực


“Làm sao có thể, mi sao lại còn sống?” Con phù thủy Hag run rẩy bò từ đống đổ nát ra, mụ không tin vào mắt mình, sợ hãi nói.

Ambrose quay đầu nhìn vào đôi mắt xanh biếc của Hag nói:

“Sao lại không thể, bà cho là tôi đã chết ư…”

“Không, nữ hoàng, mi đã làm gì người…?” Hag quát lên, giọng mụ lại xèo xèo giống một cái đài cũ rích vặt to volume.

Ambrose nghe vậy cũng thắc mắc, cậu không để ý Hag la ó mà nhìn Deus hỏi:

“Chuyện gì đã xảy ra với Phù thủy trắng?’

“Bạn bảo là cái tên định giết bạn hả?” Deus hỏi lại.

Ambrose gật đầu, Deus nói tiếp:

“À, mụ ta định thôn chiếm linh hồn cậu, may là mình ở ngay trong đầu cậu nếu không thì cậu đã chết…”

Ambrose rùng mình, không ngờ mụ phù thủy lại còn chiêu này, cậu nghe Deus nói tiếp:

“Bạn yên tâm, mụ ta bị mình xóa bỏ rồi, dù rì cũng chỉ là một cái tàn hồn yếu ớt…”

“Không thể nào, mi lại giết nữ hoàng….” Bên cạnh hai người, Hag điên cuồng hét lớn.

“Hừ… Thật ồn ào, tui có nhiều chuyện muốn nói với cậu đây, Ambrose, chúng ta xử lý mụ kia trước.” Deus khó chịu nói, nó vừa nhìn đã không ưa Hag rồi, huống chi từ lời nói của mụ, nó cũng đoán được chính mụ là chủ mưu mưu sát Ambrose.

Ambrose nghe vậy gật đầu, cậu cầm kiếm vừa bước tới gần Hag vừa nghiêm trang nói:

“Hag, bà đã ám sát nhà vua, chịu chói đi, bà sẽ bị thẩm phán trước toàn thể đất nước.”

“Muốn bắt ta, còn lâu..” Hag nói gằn, mụ nhanh chân chạy ra xa Ambrose và Deus.

Thấy vậy Ambrose nhanh chóng cầm kiếm đuổi theo, cậu không ngờ Hag chân ngắn mà chạy nhanh thật, vừa rượt theo cậu vừa nghĩ.

Hag chạy thẳng ra cửa, nhưng khi đi được mười mét mụ ta bất ngờ nhảy sang bên trái.

Deus lơ lửng trên không nhìn thấy điều gì, hơi gấp nói:

“Này Ambrose, mụ ta chạy tới cái pháp trượng kìa..”

“Nhanh, ngăn bà ta lại…”

Ambrose cũng không ngại Hag cầm pháp trượng đối phó mình, khi thấy mặt mụ ta, cậu thấy da mặt mụ trắng bệch không một giọt máu, hiển nhiên mụ đã dùng hết ma lực vào phép hiến tế.



Ambrose nhún người một cái, cậu bật nhảy tới bên cạnh Hag, bàn tay nắm chặt vai mụ nói:

“Từ bỏ chống cự đi, mụ đã bị bắt.”

Tưởng như Hag sẽ đầu hàng, ai ngờ mụ ta tự dưng cười lớn:

“Ha... Ha… Ambrose tên ranh con, dù chết ta cũng không để mi được yên… Nữ hoàng thần đi theo người...:”

“Không tốt, Ambrose bỏ tay ra khỏi người mụ…” Trên đầu, Deus la toáng lên.

Ambrose giật mình, cậu rút tay về nhưng lại bị Con phù thủy Hag bấu chặt. Ambrose hơi hoảng la lên:

“Bà định làm gì…”

Ambrose chưa dứt lời thì cậu bị khung cảnh cho cứng họng lại.

Tay còn lại của Hag lúc nào đã cầm lấy câu pháp trượng của Phù thuỷ trắng, nhưng bây giờ nó không mang màu trắng xanh băng giá vốn có, lại phủ một màu đen tuyền tỏa ra ánh sáng đen tím đáng sợ.

Một lực hút kinh khủng từ nó xuất hiện, không gian xung quanh cây pháp trượng như bị vặn vẹo. Cánh tay Con phù thủy Hag cấp tốc teo lại chỉ còn trơ xương với da.

Một vòng tròn ma pháp trận đậm dần, bao bọc lấy ba người, Deus vội nói:

“Ambrose, nhanh cầm cây pháp trượng, mọi việc còn lại giao cho mình…”

Ambrose tuy hoảng nhưng cậu vẫn theo bản năng tin tưởng Deus, tay phải nắm lấy câu pháp trượng, nó thật lạnh, một cơn rùng mình lan khắp người Ambrose, bàn tay cậu tê cứng lại.

Cơn lạnh giá cấp tốc di chuyển từ bàn tay lên cánh tay, rồi tới bả vai. Cho tới khi một nửa người Ambrose mất cảm giác, cậu thật sự sợ hãi, nếu nó lan tới trái tim chắc mình sẽ chết.

Đáng giận, lại chủ quan rồi, hai lần trong một thời gian ngắn cậu bị Hag đặt bẫy, cậu thấy mình như một thằng ngu. Cũng may có Deus không thì cậu đã bị giết chết, bây giờ cậu cũng chỉ mong vào Deus cứu mình.

Thật vô dụng, Ambrose cảm thấy mình quá nhỏ bé, yếu ớt, đã vậy lại quá tự tin….

Đột nhiên cơn lạnh giá biến mất, Ambrose thấy mình quanh cuồng xung quanh là một mảnh không gian đen kịt, không biết lúc nào cậu đã biến mất khỏi nhà kho.

Ambrose cảm thấy dạ dày như bị bọn tùng phèo lên, đồ ăn trong bụng muốn tràn ra, cảm giác nôn ọe hành hạ cậu.

Cậu khua khua tay ra xung quanh, cậu cảm thấy tay mình bị thứ gì đó bám vào, Ambrose dùng hết sức đá nó ra xa.

Rồi Ambrose cảm thấy mình bị va đập thật mạnh, cậu ngã xuống mặt đất.

“Phù.... Cuối cùng đã qua rồi..” Ambrose nghe thấy tiếng thở phào của Deus.

Ambrose mở mắt ra, cậu đang trong một căn phòng quen thuộc đó là căn phòng đặt cái tủ quần áo. Ambrose đã trở lại thế giới hiện thực.

======

“Còn sống thật là tốt…” Deus than thở.

“Chuyện gì đã xảy ra?” Ambrose vội hỏi.

“Không có gì. chỉ là một ma pháp trận kết nối không gian giữa Narnia với thế giới thực thôi!” Deus nhẹ nhõm nói.

Kết nối không gian, không ngờ mụ phù thủy có thể làm được điều này. Mụ định dùng nó làm gì, không lẽ, Ambrose giật mình không muốn nghĩ tiếp.

Hiển nhiên, phù thủy trắng sau khi nghe thấy Ambrose kể về thế giới hiện thực thì mụ đã nổi lên tham vọng xâm lấn rồi thống trị thế giới này. Cánh của tủ quá bé cho một đội quân đi qua, nhưng một ma pháp trận khổng lồ là công cụ cần thiết cho việc xâm lược.

Nghĩ tới chỗ này Ambrose không thể không bội phục tài năng và khả năng tính toán của Phù thủy trắng, chỉ đấng tiếc lời tiên không cho phép mụ chiến thắng.

“Hag đâu?” Ambrose chợt nhớ ra điều gì nói.

Cậu nhìn xung quanh phòng không thấy bất kì ai cả, Hag biến đi đâu mất rồi.

“Mụ ta đã chết rồi, mụ dùng tính mệnh mình để khởi động ma pháp trận. Cậu không nhớ là cậu đá một thứ ra ngoài à, đó là cái xác của mụ ta. Chỉ là không biết xác mụ ta biến đi đâu thôi? Ma pháp trận này truyền tống mụ đi bất kì chỗ nào trên thế giới.”

Ambrose đồng ý, cậu không thương cảm Hag, dù sao bà ta đã muốn giết cậu, đột nhiên, Ambrose nghĩ ra một thứ, hoảng sợ thốt lên:

“Không xong, Fayola vẫn còn ở Narnia, chúng ta phải trở về đón cậu ấy.”

Trí nhớ của Fayola về thế giới thực cũng bị xóa đi, nếu Ambrose không quay lại Narnia thì cô bé chắc chắn cả đời ở lại đấy.

Ambrose đứng dậy đi tới cái tủ quần áo, cậu vội bước vào nhưng không có bất kì đường nối nào thông tới Narnia, cái tủ này biến thành là một cái tủ bình thường. Cậu thử lại mấy lần cũng không được.

“Deus, làm sao bây giờ?” Ambrose hy vọng nhìn Deus nói.

“Bây giờ chỉ còn cách tìm ra cây pháp trượng, nó có thể ở bên xác của Hag. Bạn biết đấy, chính cây pháp trượng phù thủy là mắt trận, chỉ cần có nó chúng ta có thể một lần nữa chế tạo ma pháp trận thông tới Narnia.” Deus suy nghĩ một lúc nói.

“Nhưng trái đất rộng lớn thế này tìm sao được…” Ambrose bất an nói.

Deus bay thấp xuống vỗ vỗ vay Ambrose khuyên:

“Không phải không có hy vọng, tui cũng biết một số truyền tống trận có thể xuyên không gian nhưng với trình độ của cậu mình e rằng phải đợi ít mười năm nhiều là năm mươi năm nữa…”

Ambrose đen mặt lại thầm nghĩ: đang chửi người ta vô dụng hay là khuyên vậy.

=================
 
Chương 53: Nói chuyện


Nghĩ đi nghĩ lại, Ambrose không tìm ra được cách giải quyết nào khác, cậu nói sang chuyện khác:

“Deus, sao bây giờ bạn lại có thể nói chuyện được?”

“Không phải bây giờ tui mới có thể nói chuyện được, mình vốn có thể nói được chẳng qua một thời gian trước bị thiếu năng lượng thôi. Khi chúng ta tại Narnia, mình hấp thu rất nhiều ma pháp nguyên tố nên khôi phục khả năng trao đổi bằng lời…” Deus nhỏ giọng nói.

Nghe giọng Deus có vẻ không vui, Ambrose nghĩ chắc chắn đã có chuyện xảy ra nhưng Deus không muốn nói cậu cũng không hỏi.

Đúng lúc này, cánh của phòng bật mở, Baemyn vội vàng đi vào, vẻ mặt ông rất vui vẻ, ông nói:

“Tin vui, cậu chủ, chúng ta tìm thấy Tinh hoa biển sâu rồi….”

Cuối cùng cũng có một tin tốt, Ambrose nghĩ. Tinh hoa biển sâu là vị thuốc cuối cùng cậu chưa tìm thấy trong phương thuốc cung cấp ma lực tạm thời. Vậy từ nay mình có thể sử dụng ma thuật được rồi.

“Nó được phát hiện ở khu vực vực Marnia ở Phi - líp - pin. May mắn là tôi thuê được một chiếc tàu ngầm… à mà cậu chủ có thấy Fayola đâu không, tôi đã tìm con bé khắp trang trại nhưng không thấy?”

Nhắc tới Fayola khuôn mặt Ambrose biến đổi, cậu không biết nên nói thế nào với Baemyn. Sau nghĩ kỹ, cậu quyết định nói sự thật với ổng, Baemyn là cha của Fayola nên ông có quyền biết tất cả.

“Bác Baemyn, cháu có điều này muốn nói với bác, bác phải tin cháu, nó đều là sự thực…”

Trong ánh mắt hoài nghi của Baemyn, Ambrose kể lại tất cả mọi việc từ lúc hai người tới Narnia, Ambrose trở lại ra sao, Fayola bị kẹt lại tại đấy như thế nào…

Baemyn cố giữ bình tĩnh nghe hết câu chuyện, một câu chuyện kinh người phá vỡ thế giới quan của ông, lại tổng tại một nơi như những cuốn chuyện cổ tích hồi bé ông từng đọc. Ông không nghi ngờ việc Ambrose bịa đặt, hai đức bé chưa bao giờ ra khỏi nông trại, ít nhất điều này ông có thể đảm bảo - như một biện pháp bảo vệ.

Baemyn cũng nhìn thấy Ambrose đang mặc một bộ quần áo khác hẳn, ông chưa bao giờ mua cho cậu bộ quần áo nào như vậy (Baemyn lo chăm sóc Ambrose từ a ---> Z).

Baemyn thận trọng nói:

“Bây giờ chúng ta phải tìm cái xác của mụ phù thủy Hag và cây pháp trượng bên cạnh…Tôi sẽ liên hệ ngươi tìm hiểu. Mặt khác, ngày mai người của ta sẽ mang Tinh hoa biển sâu tới nông trại.”

“Đúng vậy, những việc này xin nhờ bác.” Ambrose gật đầu nói.

“Cháu còn có một chuyện muốn nói mà cháu nhớ lại tất cả mọi thứ rồi!” Ambrose đổi giọng nói.

Nghe được điều này Baemyn không thể giữ bình tĩnh được, ông chăm chú quan sát nét mặt của Ambrose, khi thấy nét mặt cậu chỉ hơi trầm xuống ông mới thở phào nhẹ nhõm.

Xét về tình cảm ông luôn qua tâm tới Ambrose nhiều hơn bất kì ai, kể cả đứa con gái nuôi Fayola (ông nhận nuôi Fayola để kiếm bạn chơi cùng Ambrose). Xem ra mất năm ở thế giới kia khiến Ambrose trưởng thành nên nhiều.

Cũng chính vì vậy ông cũng không lo lắng mấy về Fayola, cô bé bây giờ rất giỏi phép thuật, còn làm nữ hoàng một vương quốc nữa. Việc tìm ra một cái xác vô danh trên thế giới như mò kim đáy bể, nhưng không phải là còn cách khác sao, nếu không Ambrose không bình tĩnh như vậy.

Lúc này, Baemyn nghe Ambrose hỏi:

“Bọn người áo đen, chúng là ai?”

“Chuyện này bộ pháp thuật đã điều tra, họ cho rằng là lũ tử thần thực tử gây ra, các dấu vết để lại giống hệt cách bọn chúng thường làm. Ngoài ra, tìm hiểu trí nhớ của một số người dân xung quanh, họ phát hiện nhiều người lạ mặt mặc áo choàng đen, trên đầu đội cái mũ chóp nhọn hoắt kì lạ. Tới 90% bọn áo đen tập kích trang viên Karling là Tử thần thực tử.” Baemyn bình tĩnh nói.

“Tử thần thực tử là cái gì?” Ambrose nghi hoặc nói, mấy năm lại đây, cậu không tiếp xúc nhiều với giới phù thủy, cậu chỉ đọc qua một số cuốn sách từ thuở nào một số sách tri thức, cũng không có thông tin nào về tình hình giới phù thủy hiện đại.

“Vâng, Tử thần thực tử là một tổ chức tập hợp những phù thủy hắc ám, cầm đầu bọn chúng là Kẻ-là-ai-cũng-biết-là-ai, Chúa tể hắc ám.”

Chúa tể, đây chính là tên bọn người áo đen đã đề cập khi đó, bọn chúng muốn cha mẹ thuần phục tên chúa tể này. Ambrose nhớ lại.



“Tên chúa tể đó bây giờ thế nào?” Ambrose nghiến răng, cao giọng hỏi.

“Người ta bảo ngau là hắn đã chết, thưa cậu chủ.” Baemyn chăm chú nhìn Ambrose, đáp lại.

“Chết rồi, vậy những tên còn lại?” Ambrose bất ngờ hỏi.

“Phần lớn Tử thần thực tử bị bắt giam tại Azkaban, một số tên thì thoát tội, một số khác thì chạy trốn…”

“Nếu bọn chúng đều bị bắt thì đẽ dàng hỏi ra hung thủ sát hại ba mẹ cháu, như vậy… bọn áo đen này lọt lưới…” Ambrose tức giận nói.

“Đúng vậy, tôi cũng cho rằng như vậy, nhưng chúng ta có đầu mối. Nhà Karling có kẻ phản bội.”

“Qua điều tra, trước một ngày tên này tìm cớ đi tới trang viên, sau đó hắn cũng biến mất ngay trong đêm đó. Mấy năm nay không có bất kì tin tức nào của hắn cả, bất quá cách đây một tuần, có người nhìn thấy hắn đang ở Mĩ. Trong vòng một tháng chúng ta sẽ tóm được hắn”

Ambrose trầm ngâm không nói, cậu còn thiếu quá nhiều thông tin, suy nghĩ một lúc Ambrose đáp lại:

“Cháu biết rồi, ngày mai bác mang tất cả sách viết về phù thủy hiện tại, tất cả báo viết nữa.”

“Vâng, cậu chủ.” Dừng một giây ông nói tiếp:

“Cậu chủ nên nghỉ ngơi, trông cậu không ổn chút nào…” Baemyn nhắc nhở, ông không muốn tiếp tục chủ đề này, nhất là lúc này.

Ambrose giật mình, cậu bây giờ mới cảm thấy cơ thể rã rời, hơn hai mươi tiếng đồng hồ cậu chưa ngủ. Cậu đồng ý với ông, hai người nói thêm một ít truyện về phương thuốc rồi Ambrose trở về phòng.

====

Vừa vào tới phòng ngủ, Ambrose lên tiếng:

“Deus, nhanh, tớ có chuyện muốn hỏi?”

Theo một vầng sáng, Deus xuất hiện phàn nàn nói:

”Chuyện gì, tui vừa định làm một giấc…”

“Deus cho mình xem thông tin về Kẻ mà ai cũng biết là ai đi?”

“Tên gì lạ nhỉ, để mình xem…. Ah đây rồi…”

=======

Họ tên: Tom Marvolo Riddle

Tuổi: 60

Chủng tộc: Nhân loại

Huyết thống: Phù Thủy (Lai)

Ma lực: Cấp 4 (sơ kì)

Lý luận ma pháp: Cấp 4

Kỹ thuật chiến đấu: Cấp 4

Tu vi: Cấp 4 (Nhất đoạn trung kì) Ma pháp sư

=======

Hắn lại là cấp 4 ma pháp sư, hắn lại mạnh như vậy, xem ra tại thế giới thực không ít người mạnh, tên Tom Riddle này lại ngang ngửa với Dumbledore, Ambrose suy nghĩ, khoan đã, hắn ta vẫn còn sống… bảng thông tin không hiện thứ gì cho thấy hắn đã chết.

“Tên Tom này còn sống?” Ambrose cẩn thận hỏi lại Deus.

“Hết câu hỏi miễn phí rồi…” Deus vô cảm nói.

“Hừ… Bao nhiêu?” Ambrose khó chịu hỏi.

“Một điểm thông tin.” “Trả, nhanh nói đi…”

“Tom Marvolo Riddle còn sống.” Deus trả lời bằng cái giọng phèo phèo như tên đọc bản tin trưa dài Xexon (Một đài phát thanh trong vùng).

Hắn thật còn sống, xem ra mọi chuyện phúc tạp hơn mình tưởng, main thầm nghĩ.

“Sau này mình có thể đánh bại hắn không?” Ambrose suy nghĩ một lúc thận trọng hỏi Deus, cậu nghĩ: việc về ba mẹ sau này cũng phải tính, mà tên kia chưa chắc để yên cho mình sống.

“Chuyện này cậu yên tâm, nhanh thì mười năm lâu thì năm mươi năm là cậu có thể ngang bắng hắn.” Deus hác hác cười nói.

“Mình không đùa... mình hỏi thật.” Ambrose nặng giọng nói.

“Okay okay không cần phải tức giận, Tom hắn tình trạng cũng không tốt, chỉ có thể nói là hắn tồn tại mà không phải sống, hơn nữa không phải ai cũng biết cách đột phá cấp 4 ma pháp sư đâu?”

Deus bay một vòng rồi, giọng có vẻ ấp ức nói tiếp:

“Mà bạn có mình giúp đỡ, thì lo gì không đánh bại hắn…”

Deus hậm hực nghĩ, tên này lại không tin tưởng vĩ đại Deus ta.

“Xin lỗi đã gắt với bạn được chưa…” Ambrose cũng nhận ra nói.

“Mình còn muốn hỏi cậu đây, những kẻ nào đã giết ba mẹ mình?” Ambrose nói thêm: ”Dùng một lần câu hỏi miễn phí của năm..”

Một lúc lâu, Deus mới ngập ngừng: “không được, mình không tính ra, xem ra bất kì thông tin về ba mẹ cậu mình đều không tính được…”

“Tại sao lại vậy?” Ambrose khó hiểu nói.

“Mình cũng không biết…” Deus là là bay biểu thị đã dùng hết sức lực.

Ambrose đã hỏi Deus mấy lần rồi, rất nhiều thông tin về cha mẹ cậu Deus không thể trả lời, có chuyện gì cậu không biết ở đây, xem ra cậu phải tự tìm đáp án, Ambrose quyết định
 
Chương 54: Nấu thuốc


====

Sau một đêm, cơn mệt mỏi hoàn toàn biến mất, tinh thần Ambrose vô cùng sản khoái, đây là thành quả của việc cậu thường xuyên luyện tập khi còn ở Narnia.

Bữa sáng kết thúc, Ambrose đi xuống phòng thí nghiệm, Baemyn đã ngồi chờ sẵn trong phòng. bên cạnh ông dặt một cái chai thủy tinh, bên trong đụng mọt thứ chất lỏng màu xanh ngọc, nó tỏa một thứ ánh sáng xanh biếc, thăm thẳm. Đây chính là Tinh hoa biển sâu.

Ambrose tới gần chào hỏi ông, cậu hơi suốt ruột nói:

“Chúng ta có thể bắt đầu luôn?”

“Vâng cậu chủ.?” Baemyn cung kính đáp. ông lấy ra một đống hộp, bên trong chứa toàn thảo dược.

Phương thuốc bổ sung ma lực gồm hơn hai mươi loại dược liệu, là một phương thuốc phức tạp nhất hiện nay, nó cần có: Tinh hoa biển sâu, máu kì lân, vỏ Glacian - một loại côn trùng Amazon, cỏ Macma, cỏ Ululuhanunu, nhựa cây gai, mật ong Lửa và một số loại thuốc điều hòa khác.

Bước một: Sơ chế dược liệu.

Phần đầu tiên:

Ta bóc lớp vỏ ngoài của vỏ Glacian, lấy phần mền hơn mền trong để sang một bên, ta lấy chày dã nhỏ lớp vỏ ngoài thành bột mịn.

Tiếp theo ta cho một thìa tiêu chuẩn nhựa cây giai, rồi quấy hỗn hợp trên liên tục trong một giờ, đến khi chúng biến thành một dung dịch đặc quánh, sền sệt màu tím than.

Ta sẽ để dung dịch này trong hầm kín khí một tuần.

Phần thứ hai:

Cỏ Macma, cỏ Ululuhanunu phải được rủa sạch và phơi khô, rồi chúng bị cắt thành từng miếng nhỏ dài hai ince để vào trong một cái hộp có nắp kín.

Tiếp, ta dùng bột Baumma để lên men cỏ Macma và cỏ Ululuhanunu, ta lấy 2 thìa tiêu chuẩn rắc lên đống cỏ, rồi xóc đều.

Ta chôn cái hộp này xuống đất trong vòng nửa tháng.

Phần thứ ba:

Ta lấy 3 thìa tiêu chuẩn mật ong Lửa trộn với 1 thìa nhựa cây Saccharum. Chú ý đo tỉ lể chính xác nếu không hỗn hợp sẽ bị bốc cháy ngay lập tức.

Ta đun nhỏ lửa trong hai tiếng đồng hồ cho hai lại thuốc hòa tan, vừa đun ta phải vừa khuấy liên tục ngược chiều kim đông hồ ba vòng rồi lại thuận chiều kim đồng hồ ba vòng.

Kết quả sẽ được một chất nước đỏ như lửa, bê mặt nổi một vòng ánh sáng vàng.

Chất bước này phải được đặt dưới ánh sáng mặt trời liên tục một tuần rồi ủ trong dung nham núi lửa một tháng.

Tóm lại riêng bước chuẩn bị dược liệu đã mất hơn một tháng. Các phần dược liệu này phải làm xong cùng thời gian, nếu không Thuốc bổ sung ma lực tạm thời mất hiệu quả.



Như vậy hôm nay Ambrose và Baemyn sẽ sơ chế Phần thứ ba mật ong lửa. Riêng cái phần đong đếm dược liệu Ambrose quyết định dùng một cái cân tiến tiến nhất trên thị trường Muggle rồi cho chuyển đổi Đơn vị đo, Một thìa tiêu chuẩn bằng 67,0987 g.

Mất cả một buổi sáng để hoàn thành chất bước mật ong Lửa, Ambrose thở phào ngồi xuống ghế tựa của mình, trên đầu cậu mướt mải mồ hôi. Cuối cùng đã xong, cậu mất tới ba lần trộn mật ong Lửa mới thành công.

“Cậu chủ mời uống nước.” Baemyn đúng bên cạnh lấy cho Ambrose chém nước nói.

“Cảm ơn bác.” Ambrose không khách sáo nhận cốc nước uống ục ục, xong xuôi cậu nói:

“Có tin gì về tên phản bội không?”

“Vẫn không có thưa cậu chủ…”

Ambrose chớp nghĩ: mình trước hết điều chế xong thuốc bổ sung ma lực tạm thời đã, chuyện này để sau đi, dù gì tên đầu sọ Tôm vẫn còn sống.

Ba tuần sau Ambrose bắt đầu sơ chế cỏ Macma và cỏ Ululuhanunu, Bốn tuần sau cậu xử lý nốt dung dịch chế từ vỏ Glacian.

Sau một tháng bảy ngày, trước mặt Ambrose đặt ba cái lọ, phần thứ nhất không còn là thứ sền sệt nữa đã biến thành một dung dịch trong suốt, phần thứ hai thì cỏ không thấy đâu mà là một đống nhỏ bột màu xanh lơ, còn lại phần thứ ba thì biến thành một chất sáp màu đỏ vàng.

Bước thứ hai.

“Đầu tiên, đun cả 3 phần đã sơ chế với tỉ lệ 1: 1: 1 cùng với 3 Gallon nước trong vạc. Lửa để mức 1500 - 2000 độ C. quấy theo chiều kim đồng hồ hai còng cùng với 135 độ, rồi quấy theo chiều ngược lại một vòng với 45 độ. Liên tục như vậy trong ba mươi phút.” Ambrose đọc to phương thuốc.

Ok, Ambrose lấy một gói bột than đá cùng với một ít dịch Axuts, hỗn hợp nhiên liệu này đảm bỏa nhiệt độ ổn định ở 1800 độ C.

Sau đó Ambrose đổ 3 gallon nước vào trước, rồi lần lượt nhẹ nhàng thả ba phần thuốc vào trong vạc. Cậu chuẩn bị một cái muỗng bằng vàng - trong phần lưu ý có ghi - bắt đầu quấy đều thuốc.

Sau ba mươi phút, thành phẩm là một dung dịch màu cam, mùi của nó như mùi quế pha lẫn một chút chanh.

Đặt cái muỗng một bên, Ambrose đưa tay phải ra, tai còn lại cầm một lưỡi dao, thành phần tiếp theo là ba giọt màu của người uống thuốc.

Ngay lúc giọt máu thứ ba rơi xuống, cả cái vạc run lên bần bật, dung dịch thuốc bên trong sôi sục, một làn khói đỏ sậm bay lên.

Ném con dao đi, Ambrose tạm thời băng bó vết thương, cậu nhìn về phía Baemyn. Lúc này ông ta dang nhìn chăm chú vào chiếc đồng hồ quả quýt.

Sau đúng 60 giây 3 khắc, ông ra hiệu cho Ambrose tiếp tục. Lần này cậu lấy chiếc lọ dựng máu Kì lân, chúng tỏa một sắc trắng óng ánh xinh đẹp.

Một giọt.

Dung dịch ngày càng sôi sục, từng bọt không khí to như quả bóng tenis chồi len rồi vơ tan khi gặp không khí.

Giọt thứ hai.

Mùi thơm nhẹ nhàng của quế biến mất thay vào đó một mùi lưu huỳnh nồng nặc, khai chát…

Giọt thứ ba.

Lần này một bọt khí to bằng cả cái vạc xuất hiện, nó phồng lên miệng vạc khoảng năm phân mà không vỡ, bên trong nó lại ánh lên một màu vàng chói mắt.

“Không xong nó sắp nổ, nhanh…” Ambrose thấy vậy vội vàng cầm lọ chứa Tinh hoa biển sâu nghiêng bình khiến cho chất lỏng bên trong rơi xuống.

Một giọt nước xanh biếc rơi xuống đúng đỉnh bọt khí, bấy giờ bọt khí không tiếp tục phổng lên nữa, mà nó lõm xuống tạo thành hình cái bánh Pudding.

Màu sắc cấp tốc biến thành xanh lá cây, một mùi thơm tươi mói của cỏ non thoang thoảng trong không khí.

“Thành công sao.” Ambrose lẩm bẩm, cậu từ từ lại gần quan sát, bọt khí xẹp xuống hoàn toàn, ba Gallon nước đã không thấy đâu, một lớn chất lỏng xanh lục bám xung quanh thành vạc, đó là phần còn lại của bọt khí.

“Baemyn, làm phiến chú lấy chúng ra khỏi vạc..”

Thuốc bên trong vạc vô cùng quý giá, nó bao gồm nhiều loại dược liệu quý hiếm, chỉ riêng chỗ đó ngốn khoảng 2 nghìn Galleon, Ambrose không thể dùng thìa xúc chúng ra như xúc súp, thật quá lãng phí.

Baemyn tiến đên, ông giơ cây đũa phép của mình thành một hình vòng cung, miệng lẩm bẩm:

“CUSHIONING” (ND - Bùa cách li 2 vật khác nhau)

Một ánh sáng trắng xuất hiện bao bọc cái vạc vào cách li nó với dung dịch thuốc.

“ERECTO.” (ND – Bùa nhấc bổng)

Dung dịch thuốc như biến thành một con sứa bơi trong không khí, Baemyn điều khiến cây đũa khiến con sứa lọt vào một lọ thủy tinh nhỏ. Làm xong ông thu hồi đũa phép, tay còn lại ra hiệu cho Ambrose.

Đã xong, bây giờ chỉ cần đặt lọ thuốc dưới ánh trăng ba ngày là okay, như vậy tối nay, tối mai, tối ngày kia là trăng tròn. Ba ngày nữa chúng ta sẽ có thuốc hoàn chỉnh.

Ambrose và Baemyn ra khỏi phòng thí nghiệm, hai người rảo bước đi lên tàng thượng, có một cái kệ vừa vạn với lọ thuốc đặt sẵn, Ambrose cẩn thận đặt lọ thuốc vào đó, rồi cậu nhấc tất cả ra ngoài ánh trăng.

Ambrose nhìn bầu trời, nhẩm nói:

“Mong rằng trời không mưa…”

Hôm nay trăng rất sãng và tròn, trên trời không một gợn mây, xem ra ông trời cũng ủng hộ cậu.

Đột nhiên Ambrose nói:

“Ngày mai, cháu muốn trở lại Rhossili.”

“Vâng, mai tôi sẽ sắp xếp…” Baemyn chỉnh chu đáp.
 
Chương 55: Max Oliver


Sáng hôm sau, Baemyn đã đỗ sẵn một chiếc Gal Volga 1985 trước cổng, ông nói rằng không còn gì hơn là vừa đi vừa ngắm cảnh trên đường cả, nếu dùng bột Floo hoặc độn thổ rất nhanh tới nơi, nhưng Baemyn không muốn vậy, ông nghĩ cần một thời gian để cậu bé thích ứng.

Chiếc xe rong ruổi trên đường gần hai tiếng, cuối cùng họ thấy một ngôi làng nhỏ ven biển xuất hiện, đó là Rhossili.

Hôm nay, Rhossili đông đúc hơn hẳn mọi khi, có rất nhiều ô tô to nhỏ khác nhau. Dường như trong làng đang tiếp đón một đoàn khách đông người nào đó.

Ambrose hiếu kì nói:

“Baemyn, chúng ta đi xem chuyện gì đang xảy ra? Ngôi làng quá náo nhiệt không giống bác miêu tả chút nào…” Tại đầu làng, cậu có thể nghe thấy tiếng người huyên náo từ xa vọng lại, lòng hiếu kì của cậu nổi lên.

Baemyn gật đầu, ông đỗ xe lại ở một bãi đậu xe gần đó. Ra khỏi xe, Baemyn dẫn Ambrose đi tới quán ăn Rhossili ’s Meal. Nơi hai người có thể dò hỏi được mọi chuyện trong làng.

Hai người ngồi vào bar, Baemyn gọi cho Ambrose một chiếc bánh ngọt, còn ông lấy cho mình một tách cà phê.

Một phút qua đi, Baemyn mới hỏi người phục vụ:

“Hôm nay, anh bạn, có chuyện gì xảy ra tại Rhossili vậy? Tôi thấy có nhiều ô tô xuất hiện…”

“Ngài mới tới Rhossili ạ? Đây là tin vô cùng nóng, mọi người trong làng đều đang bàn luận về nó…”

“Không, tôi vừa trở về, mấy năm trước tôi từng sống ở đây.”

“Ồ vậy ngài không biết chuyện là phải. Câu truyện này phải kể từ cách đây 4 năm. Ngày đó, Oliver, ngài có biết anh ta không? Anh ta là một ngư dân, trong một ngày may mắn, anh ta tìm được một con cá bằng vàng…” Anh bồi bàn dừng lại tiếp thêm cà phê cho một vị khác, rồi anh nói:

“Nếu chuyện dùng ở đó thì không đáng kể, điều thú vị là con cá đó sau khi bị bán đi, qua bốn năm họ mới phát hiện con cá vàng đấy là một món đồ cổ của người Briton. Họ là một nhóm người Celt cổ đã từng sống tại Đảo Anh từ thời đại đồ sắt qua thời Đế chế La Mã. Mấy tay khảo cổ nói như vậy, ở đó có thể là một cung điện, lăng mộ, hay cái gì gì đó…”

Anh bồi bàn bắt đầu nói về những nhà khảo cổ tới đây, họ nói gì trong khi thưởng thức bữa sáng, vân vân…

Sau mười phút, Ambrose xử lý xong cái bánh bông mai, sau khi nghe nhũng gì anh bồi bàn kể, cậu quyết định tới xem khu khai quật trước khi trở lại trang viên.

Baemyn thanh toán, ông không quên tip cho anh chàng bồi bàn, xong xuôi hai người đi bộ hướng bờ biển, vị trí khai quật nằm dưới mặt biển gần bãi biển phía đông của ngôi làng.

Ngôi làng địa thế cao hơn nhiều mặt biển, Ambrose cảm giác như đi xuống một con dốc thoai thoải. Đã vậy, những cơn gió thổi theo hướng ngược lại, từ biển vào đất liền, chúng như đỡ cậu không ngã trên con dốc...

Vừa đi vừa ngắm cảnh, lại ngửi cái mùi thanh mát và ngọt dịu của biển cả, bỗng nhiên một tiếng la khiến cậu chú ý:

“Tên ngu ngốc này, mày lại làm hỏng ô tô của tao rồi…”

Một thằng bé cùng một đám nhỏ đang vây quanh một cậu bé tóc nâu, một đứa cao lớn nhất trong nhóm nói, tay nó cầm một chiếc máy cày đồ chơi, một bánh xe đã rơi ra nằm ở dưới chân bọn chúng.

“Không phải mình, mình không làm hỏng đâu, bạn làm xe rơi xuống chỗ mình, bánh xe nó tự long ra.” Cậu bé tóc nâu giải thích.

“Mày còn không nhận hả, tại sao nó đang yên lành tới chỗ của mày thì hỏng.” Thằng nhóc to lớn cao giọng nói lớn.

“Đúng vậy…”

“Max, mày làm hỏng thì nhận đi..”

“...”



Bọn trẻ xung quanh châm chọc nói.

“Không, không, mình thật không làm hỏng mà…” Cậu bé Max hơi cuống lên nói.

“Hừ, chúng mày, đánh nó, thằng này không có gì tốt.”

Có người ra hiệu thế là cả bọn xông vào định đánh lộn với Max, ngược lại cậu bé ôm đầu nói:

“Mình không muốn đánh nhau, cha mình dặn không được đánh nhau… dừng lại... đừng đánh…”

Mấy đứa trẻ không để ý Max nói gì, chúng xông vào giơ nắm đấm, một đứa vò đầu cậu bé, đứa khác kéo áo… một đứa lại đá vào mông cậu bé….

Đúng lúc này, một giọng trung niên khỏe khoắn vang lên:

“Mấy đứa kia, định bắt lạt bạn hả…”

Thằng nhóc cầm đầu hoảng hốt nói:

“Không xong chúng mày, người lớn tới, chạy thôi…”

Cả bọn gật mình lao lao tỏa ra mọi hướng chạy trốn, có đứa không quên đe dọa Max:

“Hôm nay, chúng tao tha cho mày, mày mà khai ra thì biết tay, nhớ đấy…”

====

Chờ khi lũ trẻ chạy hết, hai bòng người một lớn một bé mới đi tới, đó là Ambrose và Baemyn. Ambrose đi tới đỡ cậu bé Max dậy, nói:

“Bạn không sao chứ? Có bị thương ở đâu không..”

Max đứng dậy, nó không vội trả lời Ambrose mà quay sang cúi đầu với Baemyn nói:

“Cháu cảm ơn bác đã giúp đỡ.”

“Chuyện nhỏ, không đáng kể, cậu bé rất lễ phép.” Baemyn hòa ái nói.

Max nghe vậy ngượng ngùng cười, lần đầu tiên có người khen cậu như vậy, bình thường mọi người chỉ nói cậu ngu ngốc thôi.

Bỗng nhiên, hình tượng Baemyn trong lòng cậu trở lên to lớn hơn bao giờ, chắc chỉ xếp sau cha cậu thôi. Cậu nhìn lại thấy Baemyn mặc một bộ quần áo thật đẹp, bộ đồ đẹp nhất mà cậu từng thấy (Đó là bộ đồ quản gia tiêu chuẩn của Baemyn)

Ánh mắt Max lóe lên sùng bái nói:

“Cảm ơn bác đã khen…”

Một bên Ambrose thấy vậy trợn tròn mắt, rõ ràng chính mình bảo Baemyn giúp tên này, sao giờ tên này lại lơ mình đi, Ambrose hắng giọng như để chứng minh mình tồn tại.

Max giờ mới nhớ còn một người bên cạnh, cậu bé nhanh chóng quay đầu sang xấu hổi xoa đầu nói:

“Xin lỗi, mình quên mất… Cảm ơn bạn.”

“Không có gì.” Ambrose không sao đáp “Nhà bạn ở đâu, bạn có cần bác Baemyn đưa về?”

“Nhà mình ở cuối làng, bên kia!” Max chỉ về một hướng.

“Thật hay, chúng ta đi cùng đường, mình định đi xem mấy nhà khảo cổ.”

“Tốt, họ đang làm khách ở nhà mình đấy, vì vậy mình mới ra đây chơi…”

“Mà tại sao cậu lại không đánh trả bọn chúng?”

“Ha ha, ba mình bảo là không được đánh nhau, thế là không ngoan…”

“....”

Sau đó ba người cùng nhau đi về nhà Max, vừa đi vừa trò chuyện, Ambrose nhận ra Max không ngu ngốc lắm, mà là quá thật thà, vô cùng thật thà. Max tuy khá cao lớn cùng tuổi nhưng cũng vì điểm cậu ta vô cùng thật thà mà cậu hay bị bắt nạt.

Qua một ngã rẽ, một ngôi nhà nhỏ nhắn làm bằng gỗ xuất hiện, nó không sang trọng nhưng rất xinh đẹp, bên ngoài có một dàn hoa hông leo hồng thắm, bên trong lại đặt một cây cọ lùn thân bự.

Bên cạnh có một bộ bàn ghế nhỏ dùng để uống trà.

“Bác với Ambrose ngồi chờ ở đây, để cháu đi gọi ba mẹ…” Max dẫn hai người tói bên cạnh bộ bàn ghế, cậu thành thật nói.

=====

Trong nhà, Oliver đang tiếp hai nhà khảo cổ, chính họ là người sở hữu hiên nay con cá vàng. Nói thật, khi lần đầu tiên gặp họ hôm qua, anh rất bất ngờ con cá vàng mình câu được 4 năm trước lại là một cổ vật quý giá.

Hôm nay, mọi vật dụng đã chuẩn bị xong, hai hà khảo cổ tới mời anh chỉ cho họ vị trí anh câu được con cá.

Đang trao đổi, bỗng nhiên anh nghe thấy giọng con trai Max của mình:

“Ba mẹ có khách tới.”

Giờ này sao lại có khách tới, Oliver thắc mắc, anh mỉm cười nhìn hai nhà khảo cổ nói:

“Xin lỗi hai vị, tôi cũng không biết là hôm nay nhà có khách…”

Người đàn ông cười nói:

“Không sao, chúng tôi chờ được, đầu chiều chúng ta mới bắt đầu.”

Người phụ nữ cũng gật đầu.

“Vậy, xin lỗi hai vị.” Nói xong. Oliver ra khỏi phòng đi ra
 
Chương 56: Nhà khảo cổ Newman


Không lâu sau, một người đàn ông khoảng hơn 30 tuổi xuất hiện, đó là ba của Max, Oliver. Anh ta vừa nhìn thấy hai người ngạc nhiên nói:

“Ngài là ngài Smith… rất lâu không thấy ngài...”

Oliver nhanh chân bước tới giơ hai tay bắt tay với Baemyn, Baemyn cũng cười đứng dậy tay phải bắt lấy hai tay Oliver, tay trái vỗ vai anh.

“Oliver, cũng phải 4 năm tôi không gặp, dạo này anh khỏe chứ?”

“Vâng, tôi rất tốt, cảm ơn ngài quan tâm.” Oliver niềm nở đáp lại.

Oliver rất kính trọng vị quản gia nhà Karling này, trước đậy ông thường xuyên giúp đỡ mọi người trong vùng, đáng tiếc sau trận cháy tại trang viên, ông cũng rời đi luôn, mọi người bảo nhau là chỉ có cậu chủ Karling sống sót. Anh đã rất sốc khi biết tin này, mọi người trong làng cũng vậy.

Oliver chú ý tới một cậu bé ngồi bên cạnh Baemyn, đây có lẽ là cậu chủ nhà Karling. Oliver giơ tay chào cậu bé:

“Xin chào, tôi là Oliver Swans, chào cậu Karling.”

Ambrose đứng dậy chào lại:

“Chào chú, cháu là Ambrose Karling, rất hân hạnh được biết chú.”

Oliver nhìn tư thái Ambrose, tròng lòng thầm khen, anh nói với Baemyn:

“Cậu Karling trông lanh lợi hơn thằng Max nhà tôi nhiều!”

Một bên, Max nghe vậy chỉ đỏ mặt cười, không nói.

“Max là một đứa bé nghe lời và thật thà, cậu nên tự hào vì cậu bé…” Baemyn cũng khen lại một câu.

“Cảm ơn lời tốt đẹp của ngài.” Oliver vui vẻ ra mặt, anh cảm thấy hãnh diện vì con trai mình được một người đáng kính như Baemyn khen ngợi.

“Ngọn gió nào đưa ngài tới thăm nhà tôi hôm nay vậy?”

“À chuyện này phải kể từ…”

Baemyn kể cho Oliver về tình huống ông gặp Max.

“Thật may mắn vì này có mặt lúc đó. Tôi lại mang ơn ngài và cậu Karling.”

“Không sao, tôi rất thích thằng bé…”

Hai người tiếp tục nói chuyện vui vẻ, bỗng nhiên một âm thanh vang tới:

“Đây không phải ngài Smith sao?”

Một người đàn ông và một người phụ nữ xuất hiện, xem ra họ cũng quen biết Baemyn.

Nhưng Baemyn dường như không nhớ họ, ông chào lại:

“Xin chào, thứ lỗi cho tôi. Hai vị là?”



“À, chúng ta mới chỉ gặp thoáng qua, ngài không nhớ là phải.” Người đàn ông tỏ vẻ bình thường nói.

“Đúng vậy, chúng tôi gặp ngài một lần ở nhà đấu giá Christie’s tại Pháp bốn ba năm rưỡi trước.” Người phụ nữ nhắc lại.

“A, tôi nhớ rồi hai vị là vợ chồng Newmen, ông bạn Francois đã giới thiệu hai vị.”

“Tôi xin giới thiệu lại một lần nữa, tôi là Richard Newman, đây là vợ tôi Sara Newman.” Người đàn ông nói.

“Lần này tôi sẽ nhớ, chắc chắn luôn.” Baemyn khẳng định.

“Mà hôm nay tai sao ông tới đây vậy, hay ông muốn tìm cho mình một cổ vật nào hả, ông thật nhanh chân, chúng tôi vừa đến Rhossili ngày hôm qua.” Ông Newman nháy mắt đoán.

“Đúng vậy, cái bình thời Louis VI giúp chúng tôi nghiên cứu rất nhiều thứ.” Bà Newman nói tiếp.

“Chuyện này…” Baemyn dường như bị khó khăn trước dự nhiệt tình của vợ chồng Newman, ông không rõ ràng lắm ý họ muốn nói.

“Hai vị không biết gia đình ngài Smith?” Oliver thấy vậy giúp đỡ nói.

Hai vợ chồng nhìn nhau, trong ấn tượng của mình, họ chỉ biết ông Smith là một nhà sưu tập đồ cổ thôi.

Oliver đoán được, anh giới thiệu:

“Ngài Smith vốn sống ở đây, ông là quản gia cho nhà Karling. Nhà Karling hầu như sở hữu cả ngôi làng, bờ biển mà hai vị tới khai quật cũng là của họ.”

Vợ chồng Newman giật mình, trước họ chỉ nghĩ ông Smith có sở thích ăn mặc giống quản gia, không ngờ ông là quản gia thật. Và lại họ cẫn đang chờ sự đồng ý của chủ nhân khu đất để bắt đầu khai quật, người ta bảo là giữa trưa sẽ có tin tức, không ngờ ông Smith lại đích thân tới đây.

Hai người ngày càng cười toe toét, nói:

“Thật hân hạnh, vậy mà khiến ngài Smith xuống tận đây, chúng tôi được phép bắt đầu phải không?”

“Cái này… Xin lỗi hai vị, hôm này tôi chỉ phụ trách dẫn cậu chủ tới thăm trang viên, thực sự tôi không biết chuyện này, chắc cấp dưới chưa liên lạc với tôi. Để tôi gọi điện kiểm tra lại.” Baemyn khó khăn nói, mọi chuyện thế nào lại tiến triển như vậy, ông nói nhỏ với Ambrose rồi dưới sự đồng ý của cậu ông đi ra xa gọi điện thoại kiểm tra thông tin.

Trong lúc đó, hai vợ chồng mắt sáng lên nhìn Ambrose, trong đầu họ lóe lên: đây là thiếu gia nhà Karling, xem cử chỉ của ông Smith với cậu bé thì chỉ cần thằng nhóc này đồng ý là mọi chuyện sẽ suôn sẻ.

Hai người nhìn nhau hiểu ý rồi bắt đầu bắt chuyện với Ambrose.

Ambrose phải lịch sự đáp lại, càng nói truyện, cậu càng cảm thấy hai vợ chồng này trơn như cá trạch. Hai người còn gạ cậu chơi mấy món đồ cổ, có lúc lại cả giới thiệu đứa con gái xinh xắn của họ cho cậu. Cô bé tên là Sophia hay gì gì đó, tên như con mèo vậy.

Thấy Ambrose nhẹ nhàng chống đỡ mọi đòn tấn công của mình, hai người không khỏi bội phục cách quý tộc Anh giáo dục, không như thằng nhóc Josh nhà mình không ra sao.

Tuy vậy, hai người còn rất nhiều đòn chuẩn bị. Bọn họ bình thường phải sẵn sàng trong mọi tình huống, cổ vật có giá trị thường bị vùi lấp dưới đất, nếu khu đất đó là thuộc về chính phủ thì không khó lắm nhưng nếu nó thuốc về tư nhân thì họ phải thuyết phục chủ đất đồng ý cho họ đào bới, lại còn phải cam kết lợi ích cho địa chủ.

Tất cả vì nghiên cứu, vợ chồng Newman là những nhà khoa học thực sự vô cùng đam mê, không như phần lớn nhà khảo cổ khác, họ chỉ là một tên tìm kho báu thiển cận thôi.

Bà Newman chuẩn bị từ trong túi lấy ra một tấm ảnh, Ambrose đoán chắc là ảnh của con gái bà, may mà đúng lúc này Baemyn, Ambrose như với được nhánh cỏ cứu mạng nói:

“A, bác Baemyn trở lại rồi, cô chú xem bác nói thế nào…”

Bà Newman nghe vậy mới đút tấm ảnh trở lại, bà nháy mắt với chồng mình, ông Newman hiểu ý nói:

“Ngài Smith, mọi chuyện thế nào?”

“Tôi đã nghe cấp dưới nói, chuyện này tôi cần bàn với cậu chủ nữa…”

“Vậy chúng tôi sẽ để hai người không gian riêng…” Bà Newman cười nói.

Oliver hào phóng nói:

“Hay là Ngài và cậu chủ vào trong phòng khách của tôi, tôi rất vinh hạnh, trong khi đó tôi sẽ tiếp ông bà Newman.”

Ambrose nghe vậy gật đầu, Baemyn nói:

“Vậy nhờ anh Oliver.”

“Không có gì, Max, con dẫn khách nhân vào phòng khách.” Oliver không sao nói.

“Vâng ạ.” Max nói.

=====

Trong phòng khách, Baemyn hỏi ngay Ambrose:

“Thưa cậu chủ tôi đã xác định khu vực khai quật đúng là thuộc về cậu, chúng ta làm thế nào?”

“Bác nghĩ như thế nào về chuyện này?” Ambrose hỏi lại Baemyn.

“Tôi đã gọi cho một số người quen biết, vợ chồng Newman là người đáng tin cậy, họ là nhà khoa học chân chính.”

“Muggle họ xử lý việc này thế nào?” Ambrose thắc mắc hỏi.

“Bình thường thì bất kì thứ gì tìm thấy trên đất của mình là của mình, ta chỉ phải trả một khoản thuế cho chính phủ muggle và một khoản tiền thuê cho vợ chồng Newman hoặc hai bên tự thỏa thuận.”

“Như vậy ta cứ cho vợ chồng họ nghiên cứu trước đi, nếu cháu muốn thứ gì có thể được chọn trước, ngoài ra, chiều này cháu cũng muốn xem họ làm việc.” Ambrose ra điều kiện

“Vâng, tôi sẽ sắp xếp.”

Ambrose trong lòng cũng chờ mong lần đào bới này, nếu may mắn họ sẽ tìm thấy thứ gì quý giá, nếu cậu đem nó đổi cho Dues sẽ kiếm được kha khá điểm.

Ambrose nghĩ vậy, từ trong túi lấy ra một cuốn sách - Đó là Deus dạng bình thường - cậu mở một trang rồi viết:

“Deus, hai tiếng nữa mình sẽ khai quật một di chỉ khảo cổ, cậu chú ý trong nó có cái gì hữu ích không nhá?”

“OK” Deus trả lời.
 
Chương 57: Khai quật


Bữa trưa hôm đấy, Oliver mời Ambrose và Baemyn ở lại. Baemyn từ chối khéo nhưng thấy anh quá nhiệt tình, hai người đành đáp ứng.

Marthar vợ của Oliver nấu món bánh nướng rất ngon, Ambrose không thể không làm tới hai cái, mặt khác các món ăn rất vừa vặn, Oliver thật có phúc khi lấy được người vợ nấu ăn giỏi như vậy.

Công việc thỏa thuận với vợ chồng Newman đã hoàn thành từ trước bữa trưa, Ambrose thấy họ vui suýt khóc tới nơi, họ liên tục cảm ơn Ambrose, họ chưa bao giờ gặp một vị địa chủ nào tốt như cậu. Oliver cũng mời họ dùng bữa những vì còn nhiều việc phải sắp xếp lên đành phải hẹn dịp khác.

Đúng 2 giờ chiều, Ambrose cùng Baemyn và Oliver đi ra bờ biển, bà Newman chờ sẵn đón họ ở cửa trại.

Bãi biển bây giờ bị bao phủ bởi rất nhiều lều trại, trong nó như một bãi cắm trại nho nhỏ vậy, phía xa, Ambrose có thể nhìn thấy một con thuyền rất lớn, nó dài hơn 30 feet, xung quanh nó là ba chiếc cano nhỏ hơn.

Bà Newman dẫn ba người tới bên cạnh một chiếc cano, bà vừa đi vừa nói:

“Bây giờ chúng ta sẽ lên con thuyền lớn đằng kia, nó tên là Diopolo, một người bạn thân thiết của vợ chồng tôi. Cậu chủ nhà Karling, cậu không bị say sóng chứ?”

“Cháu không ạ.” Ambrose cười nhã nhặn trả lời.

“Tốt, chúng ta xuất phát.”

Nói xong, tất cả mọi người lên cano, máy khởi động, bọn họ lấy tốc độ 20 dặm một giờ đi tới chiếc Diopolo.

Vừa lên thuyền, Ambrose thấy ông Newman cùng một vài đồng sự đang bàn bạc điều gì đó. Trước mặt họ là một cái bàn bằng sắt khá rộng, bên trên phủ đầy bằng những tấm bản đồ, những bức ảnh, những tờ giấy nhít nhít là chữ.

Khi thấy Ambrose bốn người tới, họ dừng lại, ông Newman quay lại mỉm cười chào:

“Chào mừng mọi người lên Diopolo, chúng tôi đang chờ mọi các bạn đây, uống gì chứ?”

“Cảm ơn ông Newman, tôi và cậu chủ chỉ tò mò tới xem thôi, ông sắp xếp cho chúng tôi một chỗ yên vị được rồi!” Baemyn lịch sự trả lời.

“Vâng, tôi hiểu.” Ông Newman gật gật đầu, ông xoay người nói với một anh phụ tá, người này khá trẻ, chỉ khoảng hơn hai mươi.

“Jod, cậu lấy mấy thứ tôi bảo cậu chuẩn bị sẵn từ trưa tới!”

“Okay, chờ tôi một chút.” Jod trả lời, cậu cười thân thiện với Ambrose và Baemyn rồi đi vào trong khoang thuyền.

Chỉ hai phút sau, anh ta trở lại với một cái bàn nhỏ nhắn hình tròn cùng với hai cái ghế gập mini, Anh lấy trong túi bên hông ra ba chai nước khoáng, hai cái cốc, một ly kem cho trẻ em.

“Cảm ơn.” Ambrose nhận ly kem nói.



Thấy mọi chuyện đã sắp xếp xong, ông Newman nói với Oliver:

“Bây giờ ta bắt đầu, mời anh chỉ chỗ anh câu được con cá vàng…”

“Vâng, mọi người theo tôi…”

Mọi người bắt đầu làm việc, sau khi Oliver chỉ chỗ anh thường bắt cá, ba người thợ lặn bắt đầu lặn xuống đáy biển tìm kiếm.

Mọi chuyện bắt đầu không suôn sẻ lắm, sau nửa tiếng họ không tìm thấy gì, ông Newman và đồng sự quyết định mở rộng phạm vi tìm kiếm lên ba trăm mét.

Vẫn không có thứ gì đáng giá, chỉ có một ít rác thải tìm thấy, mọi người ai cũng không tỏ vẻ chán nản, dường như việc này xảy ra suốt đối với họ.

Thêm một lần nữa, lần này, họ sử dụng một thiết bị dò kim loại đặc chế, họ muốn tìm ra loại vàng đã dùng chế tạo ra con cá đó.

“Nhìn này, tôi tìm thấy thứ gì?” Kèm theo tiếng điện tử ro réo, một người thợ lặn tóc đỏ ngoi lên hét.

Thấy vậy, hai người thợ lặn khác bỏ lại vị trí tím kiếm của mình bơi nhanh về phía anh tóc đỏ. Rất nhanh, bọn họ bơi lên thuyền cùng với một cái hòm cũ kĩ bám đầy rêu và tảo biển.

Vừa nhìn thấy cái hòm, ông Newman lộ ra vẻ hơi thất vọng rõ ràng.

Nắp hòm bị vỡ một miếng to như bàn tay, rất nhanh, họ mở khóa cái hòm, bên trong có một túi nhỏ, một bọc hơi lớn bằng vải.

Ông Newman xem xét cái hòm nói:

“Cái hòm này kiểu dáng từ Thời thánh chiến, chất liệu là gỗ cây Voiioc khá phổ biến thời bấy giờ…” Rồi ông chỉ vào một đường vân nói:

“Đây, mọi người thấy những đường hình chữ S này, lớp sơn đã phai hết, ta thấy rõ đường vân gỗ đặc biệt này. Hồi đó,, những gia đình quý tộc quan niệm loại gỗ này đem lại may mắn và sự bảo vệ của cải…”

Đấy cũng chính là lý do ông Newman thất vọng, ông cho rằng mình tìm được một di chỉ cách đây một ngàn năm, không ngờ nó là một cái hòn niên đại khoảng ba, bốn trăm năm.

Họ bắt đầu gỡ mọi thứ bên trong hòm ra ngoài, cái túi đầu tiên có một vết rách khá lớn, bên trong nó đựng một lượng lớn đồ trang sức bằng vàng, giống loại của con cá vàng Oliver tìm được.

Cái bọc vải bên trong chứa đầy vũ khí, những lưỡi giáo, hai phần kiếm gãy đôi, một thứ gì đó nhọn nhọn dài dài.

Ôi trời ơi! Đây không phải là cây pháp trượng của phù thủy trắng ư… Ambrose ngạc nhiên thầm nghĩ, mấy hôm nay cậu đang lo lắng không biết bao giờ mới tìm được nó, không ngờ nó lại xuất hiện ở đây.

Ambrose cố giữ bình tĩnh và không thay đổi vẻ mặt, trong lòng cậu chỉ muốn vồ lấy cây pháp trượng ngay lập tức, cậu nói nhỏ với Baemyn:

“Bác nhìn thấy cái cây dài dài thon nhỏ kia không? Đó là cây pháp trượng của phù thủy trắng đấy ạ.”

Baemyn cũng giật mình, nhưng với thâm niên nhiều năm trong nghề, ông rất nhanh lấy lại tinh thần, ông tia mắt nhìn về cây pháp trượng. Nó có vẻ được phù phép để luôn giữ sạch sẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi thời gian giống một số tác phẩm do thợ rèn kiệt xuất yêu tinh tạo ra.

Mọi người xung quanh cũng chú ý tới cây pháp trượng, một người nói:

“Thật kì lạ, đây là thứ gì sao nó lại không bị tảo hay rêu kí sinh, nó trông quá mới so với những thứ khác.”

Ông Newman nghe vậy cũng tiến tới, ông cẩn thận cần cây pháp trượng lên, trầm ngâm nói:

“Ngày trước, có một số nhà khoa học tự xưng là nhà luyện kim, tay nghề của họ vô cùng khéo léo, họ làm ra những đồ trang sức có thể chống được bụi, đây có lẽ là một trong những tuyệt tác đó...”

“Ba năm trước, chúng ta có khai quật được một chiếc nhẫn Saphia vô cùng tinh xảo, nó đặt trong túi của một tên cướp biển gần đảo Hololu. Nó cũng không nhiễm một hạt bụi nào.” Bà Newman bổ sung.

“Đúng nha.” Ông Newman vỗ đầu nhớ ra. “Cảm ơn em, Sarah, anh suýt quên mất.”

“Mặt khác, đây giống như một cây quyền trượng của những vị vua chúa trung cổ, nhưng những họa tiết này không giống lắm, em chưa từng thấy chúng bao giờ…”

“Anh cũng thế, hay chúng ta tìm thấy di vật của một triều đại mất tích… Alantic, Harappa, Anasazi, …” Ông Newman lạc quan nghĩ.

Đột nhiên, một người nói:

“Xem này, tôi dường như tìm thấy một quả trứng hóa thạch…”

Mọi người đề nghiêng đầu nhìn sang, một người phụ tá đang chỉ một cục tròn tròn, sần sùi.

Chính lúc đó, giọng Dues lóe lên trong đầu Ambrose:

“Ambrose, lấy thứ đó, nó là một quả trứng Phượng hoàng…”

“Cái gì…” Ambrose bất ngờ thốt lên một tiếng, cậu nhận ra rồi nhanh chóng che miệng lại, cậu nhìn xung quanh, may là mọi người đều đang chú ý quả trứng phượng hoàng, không ai để ý cậu.

Ambrose nhìn lại thứ sần sùi xấu xí một lần nữa, thật không ngờ đó lại là một quả trứng phượng hoàng, trong sách viết là phượng hoàng bất tử, chúng chết đi rồi lại hồi sinh trong đống tro tàn, không có một cuốn sách nào đề cập tới việc chúng có khả năng đẻ trứng hay sinh sản đời sau cả.

Những chủ nhân của phượng hoàng - đều là những phù thủy vĩ đại - cũng không biết nhiều về giống loài này, chúng chỉ đến làm bạn rồi lại rời đi khi họ chết, người ta không biết được có tất cả bao nhiêu phượng hoàng trên thế giới, hoặc rất có thể chỉ có một con duy nhất (không có bất kì ghi chép nào cho thấy 2 chủ nhân phượng hoàng xuất hiện cùng một thời đại)
 
Chương 58: Trang viên Karling


“Trông nó giống hóa thạch, có thể là trứng khủng long…” Một người suy đoán.

“Không, nó quá tròn để là một quả trứng.” Một người khác phản bác, mọi người đều biết tất cả các loại trứng đều có dạng hình cầu thon nhọn một đầu và phình tròn đầu còn lại.

“Mọi người trật tự, chúng ta là nhà khảo cổ, không phải nhà sinh vật học… quả trứng này (hoặc có thể là bất kì thứ gì) sẽ gửi cho người chuyên môn để xem xét.” Ông Newman kết luận.

“Đúng vậy, mọi người xem còn tìm thấy thứ gì không?” Bà Newman chuyển chủ đề.

Sau nửa tiếng lục lọi, bọn họ không tìm thấy vật gì đáng kể cả, lúc này ông Newman lạc quan đưa ra một giả thuyết táo bạo:

“Giả thuyết rằng cái hòm là từ một con thuyền thương nhân bị đắm, nếu vậy ta có thể tìm được con thuyền, từ con thuyền ta sẽ lấy được manh mối những đồ vật Briton.”

“Như vậy, xác tàu phải tìm thấy từ lâu rồi, khu vực này có rất nhiều ngư dân, họ không phát hiện xác tàu nào…” Một người đồng sự chần chừ nói.

“Xác tàu bị chôn vùi hàng trăm năm, có thể một biến cố nào đó khiến cái hòm xuất hiện, chúng ta xem lại dữ liệu địa chất trong khu vực.” Bà Newman đề nghị.

Mọi người đồng ý, họ trở lại cái bàn nơi chất thành đống giấy là giấy, rất nhanh một tài liệu được tìm thấy, bà Newman nói:

“Trên này ghi vào ngày 10 tháng 10 năm 1980, lúc 2 giờ 36 phút sáng, một cơn địa chấn nhỏ 3,2 độ rít-te độ sâu 20 km. Sau đó liên tiếp ba ngày, lớn nhỏ xảy ra hai mươi vụ động đất các loại.”

“Rất có khả năng chính cơn địa chấn đó khiến con truyền ngoi lên trên đáy biển…” Ông Newman vuốt cằm nói.

“Mặt khác, cũng trong thời gian đấy, tại đậy hình thành một cơn bão nhỏ, biển động rất mạnh…”

“Có thể con tàu luôn nằm ở đó, qua rất nhiều năm, nó bị san hô bám trên bề mặt nên chúng ta thể không thấy nó, mặt khác, thời Thánh chiến, tàu bè chỉ đóng bằng gỗ, không biết đến giờ nó bị mục nát hết không?”

“Không bi quan tới vậy, nhìn chất liệu làm ra cái hòm, con tàu có thể được đóng bằng một số loại gỗ tốt, may mắn ta có thể tìm thấy thân tàu hoặc ít nhất một vài mảnh vỡ?”

Mọi người bàn bạc, rồi bọn họ quyết định dành nốt buổi chiều tìm kiếm những vật khác, có thể chúng bị nước biển cuốn từ trong cái hòm ra ngoài, nếu may mắn họ có thể tìm thấy xác tàu hay ít nhất một vài mảnh vỡ.

Đúng lúc này, Baemyn tiến tới nói với ông Newman:

“Cậu Newman, chúng tôi e rằng không thể tiếp tục tham gia chuyến khai quật cùng mọi người được?”

“Sao vậy, ngài có chuyện gấp à?” Ông Newman ân cần hỏi.



“Đúng vậy, từ sáng tới giờ chúng tôi chưa về nhà?” Baemyn híp mắt nói.

“Ngoài ra, cậu có thể đưa cây quyền trượng với quả trứng cho tôi được không?”

“Cây quyền trượng, quả trứng, nhưng chúng tôi vẫn chưa biết gì về chúng cả?” Ông Newman nhíu mày, khó khăn nói.

“Không sao, cậu chủ của tôi muốn hai vật đó, đơn thuần vì thích thôi, mấy hôm nữa cậu bé chán, tôi lại gửi cho cậu.” Baemyn tiếp tục nói.

“Việc này… Thôi được, tôi sẽ đưa chúng cho ngài, mong ngài giữ chúng cẩn thận.”

Ông Newman quyết định nói, tuy ông không lỡ nhưng dù sao trên danh nghĩa tất cả chúng thuộc về nhà Karling, ông cũng không muốn làm mất lòng vị chủ đất này, cuộc khai quật mới bắt đầu, có rất nhiều manh mối tìm thấy. Ông không thể dừng lại giữa chừng được.

“Cảm ơn cậu Newman, chúng tôi xin về trước, chúc cậu tìm được thứ cậu muốn.” Baemyn gật đầu chân thành nói.

“Cảm ơn lời chúc tốt lành của ông, tôi sẽ để Jod mang hai người về đất liền.” Ông Newman cũng cười đáp lại.

Sau khi chào tạm biệt, Ambrose và Baemyn xuống cano rồi đi lên bờ, thật là một ngày đáng giá, thật may là cậu đi theo ông bà Newman, nếu không cậu đã bỏ qua hai thứ giá trị.

Trên đường đi tới trang viên Karling, Ambrose nhớ ra một chuyện hỏi Baemyn:

“Chúng ta hiện tại đang thiếu tiền phải không?”

Baemyn giật mình, chân ông bước chậm lại, tại sao cậu chủ lại hỏi vậy, ông nói:

“Không, cậu chủ yên tâm, chúng ta không thiếu tiền.”

“Không thiếu, vậy tại sao bác lại phải bán cái bình Louis VI đó?” Ambrose hỏi tiếp.

“Cái này…” Baemyn không biết nói sao. Ông không ngờ Ambrose lại chú ý tới chi tiết nhỏ như vậy, đấy là cái bình mà vợ chồng Newman đã nhắc tới lúc nãy.

“Có chuyện xảy ra bác không phải một mình nghĩ cách giải quyết, cháu tuy chưa trưởng thành nhưng chuyện về nhà Karling cháu nghĩ mình có tư cách biết…” Ambrose kiên quyết nói.

“Nếu cậu chủ muốn biết thì tôi xin nói…” Baemyn thở dài nói.

Nói thẳng ra là tình trạng kinh tế hiện nay của nhà Karling không tốt lắm, tiền thu vào miễn cưỡng để chi tiêu.

Nhà Karling vốn không phải gia tộc giàu có cho lắm (so với những quý tộc phù thủy đỉnh cấp), nguồn thu nhập chính là từ việc vận chuyển, trung gian giữa Anh quốc với Pháp hoặc các quốc gia khác ở châu Âu.

Lúc vợ chồng Karling còn sống, cộng với nhiều quan hệ của ngài Patrick Karling để lại, hoàn cảnh gia đình khá hơn rất nhiều. Mà giờ, vợ chồng Karling mất sớm, nhiều người cùng lứa tuổi với ngài Patrick cũng qua đời hoặc không tham gia vào sự việc của gia tộc nữa. Một thế hệ khác lên thay, họ không biết nhà Karling là ai, hay quan tâm nhà Karling như thế nào.

Điều này dẫn tới thực trạng “hụt” mất rất nhiều mối quan hệ, cho dù Baemyn có giỏi tới mất thì trong mắt đa số phù thủy (nhất là mấy quý tộc thuần huyết phù thủy) ông chỉ là một tên làm thuê máu bùn bẩn thỉu thôi. Có lúc, họ còn không thèm đàm phán với Baemyn.

Cứ như vậy, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, rất nhiều sinh ý của nhà Karling biến mất. Nếu có đối tác nào giữ lại được thì sẽ bị ép giá, lợi nhuận rất thấp. Ngoài ra, Baemyn phải chi rất nhiều tiền mua dược liệu điều chế thuốc chữa trị thân thể cho Ambrose. Con số này vô cùng khổng lồ.

Ba năm trước, nhà Karling không còn đủ tiền để tìm kiếm vị thuốc Tinh hoa biển sâu, Baemyn buộc phải bán đấu giá ba món đồ cổ trong hầm tại Gringotts. Số tiền thu được đủ duy trì tới hiện nay. Nếu không có cách cải thiện, thì có khi ông phải bán tiếp mấy món khác.

Nghe Baemyn kể, Ambrose giật mình, không ngờ tình trạng lại bết bát tới vậy, cứ nghĩ tới việc phải bán kỉ vật của cha, ông, của tổ tiên Karling để lại làm lòng cậu chua sót. Cậu định nghĩ cách thoát khỏi tình trạng trên, nhưng thứ xuất hiện trước mặt khiến cậu buộc phải dừng suy nghĩ.

Lúc này, hai người đã đi tới trang viên, nó giờ là một đống đồ nát, những bức tường ám khói đen thui, mấy thanh xà vung vãi khắp nơi,...

Ngôi nhà ba tầng với những hàng cây leo cổ kính trong trí nhớ cậu chỉ còn một đống đổ nát, quỷ lửa đã thiêu rụi mọi thứ, không phép thuật nào có thể phục hồi căn nhà như trước.

Càng nhớ lại, Ambrose càng thấy tức giận, cậu thầm rủa bọn áo đen đáng chết, còn có tên Chúa tể của chúng.

Ambrose trút sự tức giận của mình bằng một cú đấm thật mạnh vào cây liễu bên cạnh, nước mắt chảy ra, hai môi cậu bé mím chặt như kìm nén tiếng khóc, rồi cậu đứng đó im lặng không nói một lúc lâu.

Baemyn muốn tới khuyên cậu bé, nhưng ông biết rằng, chỉ khi Ambrose vượt qua kí ức đau khổ đó, thì nó mới ảnh hưởng tới sự phát triển của cậu sau này. lúc này ông cũng trộn lấn rất nhiều cảm xúc, tình cảm đối với nhà Karling, với bố mẹ Ambrose, sự bất lực, hổ thẹn,...

Ông nhớ lại rất nhiều chuyện, nhiều kỉ niệm của mình ở đâu, rồi ông giờ chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ an toàn cho Ambrose, ít nhất tới khi cậu bé trưởng thành và tự lo cho mình.

Cuối cùng Ambrose lên tiếng:

“Chúng trở về…”

“Vâng.” Cậu bé có lẽ đã vượt qua...

Hai bóng người một lớn một nhỏ từ từ đi xa.
 
Chương 59: Lần đầu tiên uống thuốc


Hôm sau, Ambrose ngồi trong thư phòng từ rất sớm, trên bàn cậu là một chồng báo cáo ghi chép lại tất cả hoạt động buôn bán của nhà Karling. Sau khi xem hết, Ambrose nói:

“Cái cũ không đi cái mới sẽ không tới. Chúng ta nên từ bỏ tất cả sinh ý ở giới phù thủy.”

Sau khi xem xong, Ambrose thấy rằng kinh doanh trong giới phù thủy không mang lại hiệu quả, còn bị ép giá, buôn bán hòa vốn, cứ tiếp tục như vậy chắc chắn bị người khác nuốt sạch. Không bằng dứt khoát chịu đau từ bỏ.

Baemyn nghe vậy chần chừ nói:

“Nhưng cậu chủ, trong đó có rất nhiều người làm ăn lâu năm với chúng ta, cứ như vậy bỏ đi thì... “

Ngừng một giây, ông nói tiếp: “Bỏ đi là chuyện nhỏ, nhưng như vậy cậu chủ mất quan hệ với nhiều người, sau này cậu trở thành người một mình.”

“Không, bác nhầm rồi, bọn họ không có quan hệ gì với cháu, họ chỉ có quan hệ với ông nội hay cha cháu thôi, nếu vậy thì không có cũng được.” Ambrose tự tin nói.

Ambrose tự tin rằng có Deus, cậu sớm muộn sẽ trở thành phù thủy mạnh nhất thế giới, qua hai thế giới cậu cũng nhận ra được sự thật đơn giản cũng là thiết luật của mọi nơi: [ Chính là có sức mạnh là có tất cả. ]

Phù thủy trắng rất mạnh, bà chinh phục cả Narnia.

Nhưng, Aslan mạnh hơn, ông ta giành lại cả Narnia cho anh em nhà Penvenia.

Cha mẹ cậu không đủ mạnh để chống lại bọn áo đen, nên họ bị giết. (Rất đau xót nhưng cậu cũng phải chấp nhận điều này)

Mà muốn có sức mạnh ta cần có một thứ, Ambrose lật cuốn sách Deus bên cạnh ra, ngay trang đầu tiên ghi: “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất của con người.”

Trí tuệ là sức mạnh, hay ít nhất trong tay cậu có Deus là một nguồn sức mạnh kinh khủng, cậu chỉ cần làm là từ từ khai thác, biến trí tuệ thành sức mạnh của bản thân.

Nói đi cũng phải nói lại, bây giờ Ambrose còn chưa thể tự mình thi triển phép thuật (dựa vào thuốc), con đường cậu phải đi còn rất xa.

Baemyn nhìn Ambrose biểu hiện, ông nghĩ rằng cậu có đối sách của mình, dù sao cậu bé cũng từng có bốn năm quản lý cả một đất nước.

“Vâng, tôi biết thưa cậu chủ. Vậy tiền còn lại chúng ta làm gì?”

“Chúng ta sẽ đầu tư tất cả sang giới muggle, bác cũng lớn lên trong gia đình muggle, bác chắc phải biết tốc độ phát triển của họ như thế nào?”

“Tôi cũng biết nhưng chuyện này không ổn lắm, những phù thủy khác sẽ nghĩ cậu chủ là một tên phản bội huyết thống phù thủy, những phù thủy đang làm thuê cho chúng ta sẽ không đồng ý đi tới thế giới muggle…” Baemyn lo lắng nói.

‘Không sao, đây là cách duy nhất chúng ta phát triển, nếu không sẽ thành thịt cá cho người khác.” Ambrose kiên quyết nói.



Baemyn định nói thêm nhưng nhìn Ambrose kiên quyết như vậy ông cũng chỉ ủng hộ cậu tới cùng, dù chống lại cả thế giới ông cũng đứng về phía cậu.

Sau đó, Ambrose và Baemyn dành thời gian còn lại của buổi sang để thảo luận đầu tư vào cái gì và như thế nào trong thế giới muggle.

Trong ba ngày tới cũng như vậy, sau khi nghe tin này, phần nhiều phù thủy đã từ chức, chỉ còn lại khoảng hai mươi phù thủy tiếp tục làm việc cho Ambrose, họ đều là những phù thủy bình dân, một phần ba trong số họ xuất thân từ muggle. May mắn có người còn có cả bằng đại học, Ambrose quyết định cử họ đào tạo thêm về kinh doanh, đây là nguồn nhân lực nòng cốt của cậu trong thời gian tới.

==========

Tối hôm trước là đêm cuối cùng, sau năm tiếng nữa là Ambrose có thể sử dụng thuốc bổ sung ma lực tạm thời, cậu hồi hộp không ngủ được, tới gần sáng cậu mới lim dim ngủ đi.

Mấy hôm nay bận rộn, Ambrose không có thời gian xem cây pháp trượng và quả trứng phượng hoàng, cậu dứt khoát để nhờ chúng vào trong không gian cá nhân của Deus, nhân tiện để cậu ta nghiên cứu hộ.

Buổi sáng, Ambrose bật dậy khỏi giường, cậu định chạy ngay lên sân thượng nhưng bị Baemyn bắt ở lại dùng xong bữa sáng.

Rất nhanh, một lọ thủy tinh quen thuộc xuất hiện trên bàn, bên trong đựng dung dịch trắng ngà, nó không còn cái màu xanh lam như ba ngày trước.

Ambrose hai tay run run cầm chiếc lọ lên, thứ mà cậu đợi gần mười năm nay (chính xác là 9 năm), cậu luôn hâm mộ Fayola vì cô bé có thể sử dụng phép thuật. Điều đó bây giờ ngay trước mắt cậu, vô cùng gần.

Ambrose mở nắp lọ ra, cậu lấy một cái thìa bằng bạc chế tạo đặc thù, nó đong đủ lượng thuốc Ambrose có thể dùng trong một ngày.

Một giọt, không phải tới hai giọt thuốc rơi vào miệng, một cảm giác mát lạnh thư thái lan tỏa trong cơ thể khiến cậu tỉnh táo.

Rồi một cỗ năng lượng kì lạ xuất hiện, Ambrose có thể cảm nhận được, đó là ma lực. Cậu nhanh chóng ngồi xếp bằng tu luyện phép minh tưởng.

Deus đã nói muốn giữ được ma lực càng lâu trong cơ thể thì cậu phải dùng phép minh tưởng, nó vừa giúp Ambrose điều khiển thành thạo ma lực hơn, vừa giúp cải thiện cơ thể, thời gian hồi phục giảm đi.

Nhắc tới mới nhớ sáng hôm sau khi Ambrose trở lại thế giới thực, Ambrose mới giật mình hoảng sợ, nói chung là ở Narnia bốn năm, cậu quên phải uống thuốc chữa trị cơ thể, có thể do không khí ở Narnia quá tốt, cậu không thấy mình ốm yếu chút nào.

May rằng Dues nói thời gian cậu tới Narnia không trôi qua trên cơ thể cậu chút nào, nghĩa là cơ thể Ambrose lúc tới Narnia như thế nào thì trở lại hiện thực ý như thế đấy. Chỉ có tinh thần ý chí cậu thay đổi, đó là thành quả cậu nhận được khi rèn luyện ở Narnia.

Rất tốt, sau khi luyện mười vòng, Ambrose dừng lại, cậu cảm thấy cơ thể khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Cậu cầm lấy cây đũa phép đồ chơi, rồi cổ tay vung một cái, thình lình rổ hoa khô trước mặt bàn bay ra xa.

Thật kì diệu, Ambrose vui thích vung thêm mấy cái cho tới khi tất cả mọi thứ trên bàn rơi khắp nền nhà mới thôi.

Ambrose nhắm mắt cảm nhận lượng ma lực trong cơ thế, nó thiếu mất khoảng một phần hai mươi. Như vậy, cậu có thể dùng ma lực chơi cả ngày không hết.

Cả buổi sáng hôm đấy Ambrose chỉ nghịch ma lực, cậu thí nghiệm đủ kiểu, cậu còn thử một số phép thuật trong sách phép của phù thủy trắng, mặc dù có vẻ nó không thành công cho lắm.

Hậu quả là buổi chiều Ambrose thoát lực nằm trên giường do ma lực hao sạch sẽ.

Nằm trên giường, Ambrose gọi Dues:

“Deus cậu nghiên cứu cây pháp trượng tới đâu rồi?”

Không có việc gì làm, Ambrose đành gọi Deus ra nói chuyện phiếm, nhân tiện hỏi thăm luôn.

“Xong rồi, kết quả rất bất ngờ?” Deus trả lời bằng một giọng thâm thúy.

Ambrose nghe thế càng tò mò nói:

“Là sao, có thể trở lại Narnia không?”

“Tất nhiên là có, ma pháp trận dịch chuyển trên cây pháp trượng không bị hư hại, mặc dù mình không biết tại sao nó lại xuất hiện cách đây mấy trăm năm trước, nhưng cũng vì thế mà lượng ma pháp nguyên tố tích góp trong ma trượng gần đủ để khởi động ma trận.”

Dues chép chép miệng nói tiếp:

“Nếu không cậu chỉ có cách chờ mấy trăm năm mới trở lại Narnia được?”

Nghe vậy, Ambrose thầm thấy may mắn, nếu lúc đó cậu không đạp xác mụ phù thủy ra thì câu pháp trượng không rơi xuống thời điểm mấy trăm năm trước, còn về xác mụ phù thủy ra sao thì cậu không quan tâm.

“Chính xác là bao lâu chúng ta có thể trở lại đón Fayola?”

“Một tháng nữa là được…” Deus suy nghĩ một lúc rồi nói.

“Mà không chỉ thế, tui còn phát hiện một thứ khác, cậu xem” Nói xong, Deus lóe sáng rồi một cái lọ nho nhỏ xuất hiện trong tay Ambrose.

Ambrose trợn mắt nói:

“Đây là máu của Alan.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top