Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch Full Nạp Thiếp Ký I

Dịch Full Nạp Thiếp Ký I
Chương 140: Người nuôi ong


Dương Thu Trì nói với hai người: "Phu quân Lỗ Học Nho của hai ngươi hôm nay đã chết trong khi tham gia khảo thí ở cống viện Ứng Thiên phủ rồi."

A! Hai người đều kêu lên thảng thốt, lão phu nhân nguyên phố Phạm thị run giọng hỏi: "Lão gia chúng tôi vì sao mà chết vậy?"

"Bị người ta hạ độc chết!"

Tiểu thiếp Trầm thị vừa nghe thế, liền che mặt khóc rống lên: "Chồng của tôi a...! Chàng sao lại đành lòng bỏ chúng thiếp lại như vậy chứ, chàng bảo chúng thiếp làm sao mà sống đây a...!" Tiếng khóc có âm có luật, âm thanh uyển chuyển du dương, cổ họng có vẻ không tệ!

"Đừng khóc nữa!" Hồ Giang rống lên.

Tiếng khóc của Tiểu thiếp Trầm thị đột nhiên nín bặt, giống như con vịt kêu quang quát đột nhiên bị chặt ngang cuốn họng vậy. Cánh tay che mặt từ từ hạ xuống, trên mặt chặt có chút nước mắt nào.

Mặt Hồ Giang dài ra: "Chúng ta còn có lời muốn hỏi các ngươi, chờ chúng ta đi rồi thì ngươi muốn khóc muốn gào gì mặc kệ!"

Lão thái thái đó lúc này cũng bắt đầu lệ nhệ sụt sùi, Hồ Giang còn muốn quát bảo dừng, nhưng bị Dương Thu Trì ngăn lại. Gã rút ra một bình sứ nhỏ, hỏi: "Cái bình đựng mật ong này là ai đưa cho lão gia Lỗ Học Nho của các người?"

Tiểu thiếp Trầm thị chớp mắt nhìn cái bình, xong rồi chu mỏ nhìn về phía vợ chính Phạm thị.

Phạm thị ngẩng đầu, mắt mũi kèm nhèm nhìn không rõ, Dương Thu Trì phải đưa cái bình đến gần, Phạm thị tiếp lấy nhìn kỹ đáp: "Là do lão thân đưa cho lão gia, trong đó đựng toàn mật ong."

Hồ Giang nghe thế, thì ra là lão thái thái này hạ độ giết chết Lỗ Học Nho, không khỏi đột nhiên phừng giận, máng: "Giỏi cho lão bà khốn nạn này, vừa rồi ta có nghe lý chánh nói, năm xưa ngươi bệnh súyt chết, là do Lỗ Học Nho khuynh gia bại sản trị bệnh cho ngươi, ngươi sao lại lấy oán báo ân, hạ độ hại chết lão chứ? Thật đúng là không bằng giống trâu giống chó! Người đâu, mau trói lão bà khốn này lại cho ta!"

Các nha dịch ở cửa đồng thanh đáp ứng, xích sắt trong tay khua lên rổn rảng, bước đến định bắt người.

Vị nguyên phối Phạm thị sợ điếng người, khóc lóc hoảng hốt thưa: "Đại lão gia, cái đó từ đâu mà nói vậy. Tôi không có a, không có hạ độc hại lão gia chúng tôi, lão thân oan uổng quá mà!"

"Ngươi còn dám kêu oan?" Hồ Giang lạnh giọng nói, "Lão gia Lỗ Học Nho các ngươi bị trúng độc chết. Chúng ta đã tra ra trong mật ong có độc, và bình mật ong này là do ngươi đưa cho Lỗ Học Nho. Chứng cứ rõ ràng, còn tưởng chối cải hay sao?"

Vị tiểu thiếp Trầm thị vừa nghe thế, kêu lên chói lói nhào tới Phạm thị, vừa cào cấu vừa mắng chửi: "Thì ra là cái lão chết bầm ngươi hại chết lão gia. Ta phải giết ngươi!"

Vị nguyên phối Phạm thị già cả yếu ớt, làm sao là đối thủ của ả, chỉ biết ôm đầu khóc lóc kêu oan, mặt đã bị quào hết mấy dấu máu.

Dương Thu Trì đưa mắt ra hiệu cho Tống Vân Nhi, nàng lập tức giữ chặt tay của tiểu thiếp Trầm thị, quặc ra phía sau quát: "Đại lão gia có ở đây, không được vô lý!"

Trầm thị bị Tống Vân Nhi vặn tay kéo khiến loạng choạng lùi lại mấy bước, suýt chút nữa ngã ngữa ra sau, không dám lo lối om sòm nữa.

Bộ khoái định bước lên bắt Phạm thị, Dương Thu Trì giơ tay lên, ra hiệu khoan động thủ. Hồ Giang hơi nghi họac, cũng ra dấu bảo bọn nha dịch ngưng lại, ngồi xuống hỏi: "Dương công tử, chân hung chẳng phải đã tìm được rồi sao? Sao lại...."

Dương Thu Trì không trả lời câu hỏi của y, hỏi Phạm thị: "Ngươi vì sao đưa mật ong cho lão gia các ngươi?"

Phạm thị đã sợ chết khiếp, thấy Dương Thu Trì mặt mày hòa hoãn, bọn nha dịch có vẻ rất nghe lời hắn, xem ra nếu như có thể nói chuyện rõ ràng rành mạch với vị công tử này, có thể có hy vọng tẩy được oan khuất, bèn van cầu: "Công tử, lão thân oan uổng, lão thân thiệt không có hạ độ a."

"Lão phu nhân, bà không cần gấp, cứ từ từ nói, chưa làm rõ trắng đen, chúng ta sẽ không bắt người loạn lên đâu."

Nghe lời này, Phạm thị lúc này mới hơi an tâm, đáp: "Lão gia chúng tôi càng thi càng rớt, tâm tình phiền muộn, nội hỏa rất nặng, thường sinh nóng gắt lỡ miệng, có lúc đau đến ăn uống không được, ngay cả uống nước cũng đau đến không chịu được. Chúng tôi tìm thầy lang cũng không thể trị triệt để, sau đó tôi tìm được một phương thuốc dân gian, án theo đó đem mật ong thoa lên chỗ vết thương trong miệng của lão gia, kết quả rất hữu hiệu, do đó lão gia cứ nhất mực mang theo bình mật ong này theo người."

Thì ra Lỗ Học Nho bị bệnh loét khoang miệng, hèn gì trong lúc ở khách sạn hàng ngày chỉ có thể ăn cháo với cải muối, nửa cái bánh bao ăn mãi cũng không xong, nhất định là lúc bị lỡ loét miệng, cố ăn bánh bao mà nhai nuốt mãi không trôi, ăn được nửa cái rồi thì không thể nào ăn tiếp được, chỉ có thể húp cháo mà thôi. Còn bình mật ong này thì ra là vợ cả đưa cho mang theo người để lão dùng trị bệnh!

Nhìn thần tình của Phạm thị, nhất định không biết trong mật ong đã bị hạ độc. Chẳng lẽ trước lúc bà ta mua nó, mật ong đã bị người ta hạ độc rồi? Dương Thu Trì hỏi Phạm thị: "Hủ mật ong này tự tay bà điều chế hả?"

"Không phải, là lão thân mua từ chỗ nuôi ong của Vương lão thái."

"Nuôi ong? Trong thôn có người nuôi ong sao?"

Mễ lý chánh ở cạnh đó chen lời: "Đúng, trong thôn có mấy nhà nuôi ong, xung quanh thôn chúng tôi đều là núi cao, ruộng thì ít, nếu dựa vào nó không mà nói thì thật khó sống. Do đó có một số nhà nuôi ong, bán mật ong kiếm tiền nuôi các miệng ăn trong nhà."

Dương Thu Trì hỏi Phạm thị: "Vậy lúc bà mua mật ong thì tự chọn hay là do Vương lão thái mang cho bà? Bà hãy nhớ lại cho chính xác, kể tường tận một chút."

Phạm thị gật gật đầu, nghĩ một chút rồi nói: "Thường thì đều do con của Vương lão thái dùng gùi hạ sơn đến thành Trừ châu bán, trên đường ngang qua thôn chúng tôi sẽ rao lên, tôi thường tùy lúc cần mà mua.

Trong gùi có một bình sứ lớn, trong chứa đầy mật ong, muốn mua thì phải tự mang đồ đựng theo. Lúc tôi mua còn nhớ vào khoảng giữa tháng chín."

Dương Thu Trì thầm nghĩ, phải chăng con của Vương lão thái hay thậm chí Vương lão thái hạ độc đây? Tuy không có chứng cứ gì, nhưng cũng cần phải đi tra xét một chút, xem có đầu mối gì hay không.

Cần phải biết, phần lớn đầu mối phá án đều thu được thông qua quá trình điều tra từ đáy lên, không phải tự ngồi ở nhà mà suy tưởng ra được. Dương Thu Trì hỏi: "Vương lão thái ngụ ở nơi nào?"

Mễ lý chánh lại chen lời: "Ở giữa sườn núi phía đông."

"Đưa chúng ta đến đó tìm lão!" Dương Thu Trì bảo.

Mễ lý chánh hơi chần chờ, nói: "Hiện giờ đã canh ba rồi, đến chỗ của họ còn những mười dặm đường núi nữa, trong trời đêm âm u này, đường núi rất khó đi..."

Hồ Giang nhìn Dương Thu Trì, rồi quay lại nói: "Chuyện không thể chần chờ, nhân phạm nếu trốn thì ngươi có phụ trách được không?"

Mễ lý chánh giật mình kinh sợ, luôn miệng nói không dám, chạy vội ra ngoài chuẩn bị đèn đuốc, gọi mấy dân tráng trong thôn chuẩn bị ổn thỏa đâu vào đó. Hồ Giang hạ lệnh lưu hại bộ khoái lại canh chừng Phạm thị và Trầm thị, sau đó dưới sự dẫn đường của lý chánh, đoàn người lên núi đến nhà nuôi ong của Vương lão thái.
 
Chương 141: Hung thủ chân chính (1)


Tống Vân Nhi đỏ mặt, không hiểu hỏi: "Lá cây này bị sao vậy? Vì sao lại không được đụng vào? Chẳng lẽ lá cây mà cũng ăn thịt được muội sao?"

"Không sai, lá cây này có thể xơi tái muội luôn đấy!" Dương Thu Trì chẳng có chút cười cợt gì, đưa chiếc lá lên ngắm nghìa, "Đây là lá trúc đào, có độc!"(*)

A? Tống Vân Nhi giật phắt người, vội vã quẳng cành cây trong tay, lòng vẫn còn sợ hỏi, hỏi: "Ca, huynh không phải đang muốn dọa khiếp muội chớ hả?" Nàng chợt đanh mặt, mắt hạnh trừng ra: "Nếu mà huynh dám làm muội sợ đó hả, thì... hừ!"

Dương Thu Trì không nói gì, vẫn ngẩn ngơ nhìn lá trúc đào trong tay, lại ngẩng đầu nhìn xung quanh, thấy đâu đâu cũng có trúc đào. Có thể tưởng tượng, đến cuối mùa xuân đến hết mùa hè, toàn bộ trúc đào ở đây đều khai họa, nếu thế thì mỹ lệ đến cỡ nào.

Nhưng Dương Thu Trì hiện giờ không có thời gian nghĩ đến cái vẻ đẹp đó, nhân vì hắn phát hiện được một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, vội quay sang hỏi Mễ lý chánh: "Trên núi này vì sao có nhiều trúc đào như thế?"

Mễ lý chánh ngẩng đầu nhìn xung quanh, đáp: "Mọc hoang đấy, suốt từ cuối mùa xuân đến cuối hè, toàn núi đều là hoa trúc đào, có màu hồng, vàng, trắng, rất đẹp."

Dương Thu Trì quay đầu trở lại nhìn con đường vừa đi từ sườn núi chỗ nhà Vương lão thái xuống, mấy gian nhà gỗ đã biến thành vài điểm đen nhỏ xíu, hơi trầm ngâm một chút, rồi nói: "Chúng ta sai lầm rồi, cần phải nhanh chóng trở lại ngay!"

Hồ Giang ở phía sau ngớ cả người, hỏi: "Dương công tử, sai cái gì?"

"Đến nơi rồi nói, phải nhanh chóng trở lại nhà của Vương lão thái gia ngay." Nói rồi hắn chuyển thân quay ngược trở lên núi. Hồ Giang và mọi người thấy thần sắc của Dương Thu Trì vô cùng trịnh trọng, không giống giởn chơi, liền đều quay trở lại theo.

Vương lão thái gia thấy Dương Thu Trì đi rồi quay trở lại, hơi bất ngờ và khẩn trương, không biết đã phát sinh chuyện gì.

Dương Thu Trì trực tiếp đến căn phòng có chứa các bình mật ong, cho bộ khoái đi bắt thêm một con vịt nữa, rồi lấy cái bát đã múc mật kiểm nghiệm lúc nãy múc một bát đầy đem đổ cho con vịt đó.

Vịt uống mật ong vào tuy không hề bị gì, nhưng đã bắt đầu láp cáp lạp cạp đi đứng không ổn định, đụng đầu này té đầu kia. Dương Thu Trì lại múc thêm một chén mật nữa, bảo mọi người đem đổ cho con vịt đó. Liên tục uống liền thật nhiều mật như vậy, con vịt miễn cưỡng chống chịu một hồi rồi ngã phịch ra đất co giật chết.

Sau khi bắt gần hết vịt của Vương lão thái ra làm thí nghiệm, Dương Thu Trì xác định trong tám bình sứ lớn đựng mật, có tới sáu bình có chứa mật ong độc.

Hồ Giang quát hỏi Vương lão thái đây là thế nào? Vương lão thái và con trai, con dâu đều sợ điếng người, không biết làm sao lại bị như vậy, bọn họ nuôi ong mật rất nhiều năm rồi, chưa bao giờ xảy ra chuyện như vậy. Vừa rồi bọn họ cũng tận mắt chứng kiến vịt bị cho uống mật ong vào một lúc thì đi đời nhà ma, không biết lý giải làm sao cho rõ ràng được.

Hồ Giang phất tay, định cho nha dịch bước lên bắt người, nhưng Dương Thu Trì lại hươ tay ngăn lại, nói: "Không cần bắt bọn họ, và không cần truy cứu trách nhiệm của họ, vì bọn họ cũng không biết trong mật ong này có độc."

Hồ Giang nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì, Dương Thu Trì chỉ vào hai bình mật không có độc hỏi Vương lão thái: "Hai bình mật này lấy vào từ giữa tháng chín âm lịch năm nay trở về sau đúng không?"

Con dâu của Vương lão thái vô cùng kinh ngạc hỏi: "Đúng a, đại nhân ngài sao lại biết vậy?"

Dương Thu Trì không trả lời, thần sắc ngưng trọng nhìn sáu bình mật còn lại, hỏi: "Sáu bình mật ong này nhất định là lấy vào trước tháng 8 năm nay phải không?"

Vương lão thái lại càng kinh ngạc hơn, gật đầu đáp: "Đúng vậy, đại nhân nói thật không sai."

Tống Vân Nhi cũng rất kỳ quái, ngạc nhiên nhìn Dương Thu Trì hỏi: "Ca, trước đây huynh cũng nuôi ong mật sao?"

Dương Thu Trì lắc lắc đầu, thở dài nói: "Kẻ chân chính giết Lỗ Học Nho đã tìm thấy rồi."

Hồ Giang vui mừng hỏi Dương Thu Trì: "Chính là cả nhà Vương lão thái này, đúng không?"

Dương Thu Trì lắc đầu: "Không phải, hung thủ hạ độc giết chết Lỗ Học Nho không phải là người."

Cái câu "hung thủ không phải là người" này làm mọi người vô cùng sợ hãi, đặc biệt là càng làm Tống Vân Nhi nhớ lại lúc ở Vân Nhai Sơn, Dương Thu Trì đã từng nói Bạch Tiểu Muội chính là quỷ hồn giết người, tức thời cảm thấy ớn lạnh xương sống, nhìn tả nhìn hữu rùn mình một cái, hỏi: 'Chẳng lẽ lại là quỷ hồn hạ độc thủ nữa?"

"Coi muội nhát gan chưa kìa," Dương Thu Trì thương xót mắng nhẹ một câu rồi tiếp, "Hạ độc không phải là quỷ, mà là ong mật!"

"Cái gì?" Câu này khiến mọi người ở đó đều trở nên hồ đồ. Tống Vân Nhi cả kinh hỏi: "Ong mật? Ong mật sao có thể hạ độc giết người?"

Dương Thu Trì đáp: "Muội có chú ý không, núi đồi quanh đây đều có rất nhiều trúc đào. Thứ trúc đào này toàn thân đều có độc, lá, cành, rễ đều có độc, ngay cả cánh hoa và phấn hoa cũng có độc. Vương lão thái gia nuôi mật ong. Ong mật lấy mật từ trong rừng trúc đào này, do đó, mật ong lấy đem về có độc!"

Con dâu của Vương lão thái lập tức tranh cãi: "Vậy, vậy những bình mật khác vì sao không có độc?"

"Hoa Trúc đào thường nỡ vào tháng 5 đến tháng 8 âm lịch, sau tháng 8 thì hoa đã tàn. Ong mật đi thu mật trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 8, do chúng đậu hút mật trên hoa có độc, do đó tích tụ độc theo mật. Còn mật ong thu được vào thời điểm sau tháng 8, nhất định không có độc, các bình sứ mật ong lớn ở phía sau không có độc là vì cớ này."

Chuyện đến giờ thì Hồ Giang và mọi người đều rõ. Cực khổ cả nửa ngày, cuối cùng thì tìm được kẻ giết Lỗ Học Nho không phải là người, mà là ong mật, quả thật khiến người ta nghĩ vỡ cã óc cũng không đoán ra được.

Chú thích:

Trúc đào: Một loại hoa có màu đỏ rất đẹp thường được trồng làm kiểng nhưng toàn thân đều chứa chất độc. Cây trúc đào, hay đào lê, có tên khoa học Nerium Oleander L, thuộc họ trúc đào (Apocynaceae). Trong các bộ phận của cây đều chứa chất nhựa màu kem, vàng ngà rồi hóa lục. Trong nhựa này có các glucosid độc, chủ yếu là oleandrin (còn gọi là neriolin) với tỷ lệ 0,7- 1 phần nghìn. Đây là chất có tác dụng mạnh đối với tim, nếu dùng đúng liều quy định thì có tác dụng trợ tim, nếu dùng quá liều thì sẽ ngộ độc. Trẻ em chỉ cần ăn 1 chiếc lá trúc đào cũng gây tử vong, không cần phải dính mủ trúc đào mà chỉ cần vô tình hít phải khói từ cây trúc đào bị đốt cũng gây ra vấn đề. Rắc rối cũng xảy ra khi sử dụng cành cây để xỉa răng hoặc uống nguồn nước mà các bông hoa đã rụng xuống... Ngộ độc và các phản ứng đối với trúc đào rất là nhanh, đòi hỏi phải có sự chăm sóc y tế ngay lập tức khi nghi ngờ (hoặc đã biết) là ngộ độc trúc đào ở cả người lẫn động vật.

Sau khi chất độc vào cơ thể sẽ gây ra các triệu chứng: Nôn mửa dữ dội, sau đó người mệt lả không muốn nói năng cử động gì, có khi nhức đầu, chóng mặt đau bụng. Ngộ độc nặng hơn thì có thể trụy tim, tụt huyết áp, hôn mê rối loạn nhịp tim. Ngộ độc quá nặng sẽ dần dần thiếu ôxy lên não. Nếu không xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Do đó cần cẩn thận khi tiếp xúc với Trúc Đào!

Hung thủ chân chính (2)

Dương Thu Trì bảo con trai của Vương lão thái nhớ kỹ lại coi vợ cả Phạm thị của Lỗ Lão phu tử mua mật ong của cậu ta từ khi nào.

Lỗ lão phu tử xem ra rất có danh ở Nam Tiếu thôn, lão tú tài năm chục tuổi thi mãi không đậu, còn cưới được một vợ một thiếp, để rồi gia đạo bần hàn, không muốn nổi danh cũng không được a. Con của Vương lão thái bình quân mỗi tháng xuống núi bán mật ong một lần, do đó lập tức nhớ ngay lần Phạm thị mua mật ong là vào tết trùng cửu ngày 9 tháng 9 âm lịch. Lời đáp này nhất trí với lời khai của Phạm thị, như vậy là Phạm thị đã mua phải mật ong có độc.

Hồ Giang nghĩ, nếu như ong tạo ra mật độc như vậy thì không còn cách nào, chẳng thể nào bắt mấy con ong về trị tội a. Cả nhà Vương lão thái cũng không biết hoa mà ong lấy về làm mật có độc, coi như điều ngoài ý muốn, bắt họ cũng không thỏa đáng. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng y quyết định kiếm một bình sứ nhỏ lấy mật có độc mang về báo cáo kết án.

Hồ Giang tìm bình lấy mật, Dương Thu Trì ngân ngơ nhìn đến phát ngốc.

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì đứng đó ngẩn ngơ nhìn mấy hủ mật, vỗ vỗ vai hắn bảo: "Ca, còn đứng đờ ở đó làm gì? Án coi như phá rồi, chúng ta mau hạ sơn về ngủ đi thôi, suốt đêm không ngủ, mọi người đều mệt mỏi lắm rồi."

Dương Thu Trì nhíu mày phất phất tay: "Không đúng!"

"Cái gì không đúng?" Tống Vân Nhi hỏi.

"Án này không ổn! Ong mật không phải là hung thủ, Lỗ học nho chẳng phải chỉ ăn mật ong có độc không mà chết."

Hồ Giang nghe thế cả kinh hỏi: "Dương công tử, công tử nói gì? Công tử vừa rồi không phải nói...."

Dương Thu Trì ngắt lời y: "Lúc nãy ta đoán nhầm," rồi vừa chỉ vào mật trong hủ tiếp: "Mọi người nhìn coi, những mật ong có độc này đã được bán gần hết rồi. Nếu mật có thể làm chết Lỗ Học Nho, thì phải làm chết người khác, vì sao không nghe nói có ai ăn mật ong trúng độc chết vậy?" Hắn chuyển thân hỏi Mễ lý chánh: "Hai năm qua trong thôn có người chết không?"

Lý chánh lắc đầu. "Không có." Y ngẫm nghĩ một chút rồi tiếp, "Mật ong của Vương lão thái này kể ra cũng rất tốt, trong thôn có nhiều người mua mật của lão, tôi cũng có mua qua, nhưng ăn vào chẳng có chuyện gì cả. Bọn họ còn đến càng thôn kế cận bán, cũng không nghe nói ai ăn mật ong xong rồi chết a."

Thông phán Hồ Giang hỏi: "Vậy con vịt ăn vào rồi giãy chết đó giải thích làm sao?"

Mễ lý chánh gãy đầu: "Cái đó, cái đó..."

Dương Thu Trì tiếp lời: "Cái đó cũng dễ giải thích, chẳng phải ăn cái gì có độc cũng trúng độc chết ngay, cần phải ăn đủ lượng mới được, hơn nữa, những người khác nhau hoặc trong những tình huống khác nhau đều có thể ảnh hưởng đến khả năng trúng độc hay không. Cùng một lượng độc chất, người lớn ăn vào không nhất định trúng độc, nhưng em bé dùng rồi có thể sẽ tím tái mà chết. Thậm chí có thứ em bé ăn vào chả sao, nhưng vịt ăn vào sẽ trúng độc."

Tống Vân Nhi có vẻ hơi hiểu, hỏi: "Ca, ý của huynh nói có phải là lượng độc trong mật ong này vẫn chưa đủ làm chết người, nhưng vẫn có thể làm chết con vịt?"

"Thông minh!" Dương Thu Trì khen.

Tống Vân Nhi cười hì hì.

Mễ lý chánh cũng phát hiện một chuyện khác, hỏi: "Vậy em bé và vịt chẳng chênh lệch nhau bao nhiêu, sao không nghe nói có em bé nào ăn mật ong chết vậy?"

Dương Thu Trì ngớ người, vấn đề này hắn chưa nghĩ tới, đáp: "Cũng có thể, có thể liên quan đến lượng sử dụng trong thôn này. Em bé thường ăn rất ít, dùng một cái đầu đủa chấm một chút khuấy vào nước là xong, trong khi đó lúc nãy chúng ta đổ cho con vịt những hai chén mật, đủ cho một em bé ăn nhiều ngày, như vậy nếu chia ra mỗi ngày thì liều lượng ra thì rất ít." Hắn chỉ con vịt đó, nói: "Hơn nữa em bé dù có nhỏ, cũng lớn hơn vịt nhiều!"

Vương lão thái cũng chen lời: "Trẻ sơ sinh không thể cho dùng mật ong được đâu."

"Vì sao?" Dương Thu Trì và Mễ lý chánh đều kỳ quái hỏi.

"Em bé chưa cử bú mà uống mật ong sẽ kêu khóc không ngừng, hơn nữa tiếng khóc rất yếu ớt, không có sức bú sữa. Nếu em bé uống mật ong nhiều quá sẽ chết đấy. Do đó khi chúng tôi bán mật ong đều nhắc nhở mọi người về vấn đề này."

Vị Vương lão thái nói không sai, căn cứ vào kiểm nghiệm của y học hiện đại, người ta phát hiện trong bụi đất có một loại tế khuẩn gọi là "Nhục độc can khuẩn"(Clostridium botulinum). Khi ong mật đi thu hái phấn hoa và hút mật, rất có khả năng sẽ đem phấn hoa và mật ô nhiễm về tổ. Từ đó trong mật ong thường có chứa một lượng độc tố nhỏ, người lớn ăn vào không sao, nhưng em bé uống vào sẽ bị trúng độc, thậm chí tử vong. Do đó, em bé dưới một tuổi thường không được phép uống mật ong (*).

Chuyện em bé sơ sinh không dùng được mật ong, Dương Thu Trì thật ra không hề biết. Trong xã hội hiện đại, hắn ngay cả một mối tình vác vai cũng không có, thì làm gì có cơ hội có em bé, nên lại càng không cần phải quan tâm đến vấn đề này. Hiện giờ nghe Vương lão thái nói vậy, hắn coi như mở mắt thêm ra.

Dương Thu Trì thấy Tống Vân Nhi và Hồ Giang cùng mọi người vẫn còn chưa tin luận điểm về chuyện chất độc có thể làm chết vịt nhưng không thể làm chết người, lại mệt và lười giải thích, bèn bảo Nam Cung Hùng: "Ngươi mang theo hai người đi ra chuồng heo của Vương lão thái bắt một con vào đây, nếu lớn hơn trăm cân càng tốt."

Nam Cung Hùng dạ một tiếng, không thèm kêu ai khác, một mình xâm xâm vào chuồng heo, tức thời gây ra hàng loạt tiếng en ét ụt ịt. Chẳng mấy chốc sau, Nam Cung Hùng ẵm một con lợn béo núc nít ra, to gần bằng người của y. Nam Cung Hùng quả thật là mạnh, con heo bị y ôm chặt, cái mũi ngoại trừ hì hì khịt khịt, còn thì chẳng động đậy giãy giụa được gì.

Dương Thu Trì gọi một bộ hoái mang hai tô mật có độc đến cho con heo đó ăn, sau đó thả nó về chuồng. Mọi người vây quanh chuồng heo chờ cả nửa ngày, chỉ thấy con heo đó ụt ịt lắc đuôi liếc mắt sống nhăn răng, chẳng có triệu chứng trúng độc gì cả.

Đến lúc này thì Hồ Giang và mọi người đều tin cả rồi. Cùng là hai chén mật, nhưng làm chết vịt mà chẳng làm chết heo. Xem ra, Dương Thu Trì nói đến việc để hạ độc chết người cần phải có một liều lượng nhất định quả thật là chính xác.

Và nếu như chỗ mật ong độc này không làm chết một con heo lớn, thì đương nhiên sẽ không độc chết Lỗ Học Nho. Hơn nữa, con vịt bị độc chết là vì bị người ta đổ liên tục cho hai bát mật to, còn Lỗ Học Nho chỉ dùng mật để thoa xức vết loét trong miệng, một con dùng thẳng vào trong bụng còn một kẻ dùng ngoài, do đó thân thể Lỗ Học Nho hấp thụ lượng độc chất từ mật càng ít hơn, không thể nào bị chất độc trong mật ong làm chết được.

Dương Thu Trì vừa rồi đứng ngẩn ra là vì phát hiện vấn đề này.

Như vậy có thể nói, hạ độc giết chết Lỗ Học Nho không phải là ong mật đi lấy hoa độc về tạo mật độc. Nếu thì, hung thủ thực sự là ai đây?
 
Chương 142: Bán tiên hạ phàm


Đang lúc Dương Thu Trì suy nghĩ xem bước tiếp theo đó phải làm gì, thì Tống Vân Nhi vô cùng hưng phấn, nhân vì nàng học được không ít tri thức về độc vật. Nàng học võ công chính là để một ngày nào đó có thể hành tẩu giang hồ, hành hiệp trượng nghĩa, nhưng giang hồ hiểm ác, nếu biết được chút tri thức hạ độc và phòng độc, sau này đi lại trên giang hồ biết đâu có thể có dịp cần dùng.

Tống Vân Nhi cao hứng hỏi: "Ca, ngoại trừ những thứ huynh nói vừa rồi, còn có thứ gì có thể khiến một người nào đó ăn uống phải độc dược mà không trúng độc?"

Dương Thu Trì đối với sự ham học hỏi của nàng rất vừa ý, gật đầu khen ngợi, đáp: "Trừ liều lượng ít nhiều và sự khác biệt về cá thể có thể quyết định có trúng độc hay không, phương pháp sử dụng cũng ảnh hưởng không ít, ví dụ như nọc độc của rắn nếu uống vào thì không sao, nhưng ngấm vào huyết dịch của con người có thể làm chết người ta."

"Lỗ Học Nho dùng mật ong trộn thuốc này xức lộn vết thương trong miệng, chứ không phải trực tiếp uống vào..."

Nói đế đấy, Dương Thu Trì đột nhiên dừng lại, tự lẫm nhẫm: "Mật ong trộn thuốc...."

Một tia linh quang chợt lóe lên trong đầu hắn, khiến hắn chợt vỗ đùi đánh đét, luôn miệng nói đáng chết, vì sao lại bỏ quên manh mối này chứ? Vợ cả của Lỗ Học Nho là Phạm thi đã từng khai là bà ta có được một phương thuốc, dùng ong mật phối trộn với thuốc cho Lỗ Học Nho xức trị miệng lưỡi bị nóng lở, nhưng bản thân chí chú ý đến mật ong để phối dược, còn thuốc để phối như thế nào lại vô tình bỏ qua! Rất có khả năng thuốc dùng để trộn với mật ong có vấn đề, hoặc phương thuốc có vấn đề, hay nói khác đi là người đưa cho Phạm thi phương thuốc đó có vấn đề!

Dương Thu Trì nhớ lại lúc làm thí nghiệm trên sinh vật ở khách sạn nhỏ, con vịt sau khi ăn số mật từ trong bình thuốc của Lỗ Học Nho là ngã ra đất giãy đành đạch chết ngay, trong khi vừa lúc nãy vịt phải ăn tới hay chén mật, chịu được thời gian tàn hai nén nhang mới chết. Như vậy có thể thấy, chất độc trong bình thuốc của Vương lão thái độc hơn nhiều so với độc trong mật ong.

Vừa rồi đã chứng thực mật ong của Lỗ Học Nho là mua từ mật ong độc của Vương lão thái, vậy cùng một loại mật mà có độc tinh không giống nhau, chứng tỏ trong mật ong đó có khả năng là có thêm độc do người khác hạ vào! Hơn nữa, vấn đề rất có khả năng xuất phát từ phương thuốc hoặc là bản thân thuốc dùng để phối dược.

Hiện giờ nhất định phải tìm ngay Phạm thị, tra cho rõ phối dược là gì, phương thuốc này do ai cho...

Những chuyện như trên nói ra thì nhiều, nhưng chỉ diễn ra trong đầu Dương Thu Trì có một tích tắc. Hắn bảo: "Phải trở về Bắc Tiếu thôn tìm Phạm thị ngay."

Hồ Giang hỏi: "Sao? Chẳng lẽ vẫn là Phạm thị hạ độc à?"

"Không, rất có thể là thuốc dùng để trộn chung với mật ong có vấn đề!" Dương Thu Trì chỉ hé lột một chút, Hồ Giang và mọi người liền minh bạch, họ cùng vội vã xuống núi.

Trước khi ra đi, Dương Thu Trì báo cho cả nhà Vương lão thái là tuy độc trong mật ong không hại chết người, nhưng dù gì cũng là có độc, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người, bảo bọn họ hủy số mật đó đi, hơn nữa phải đi chặt bỏ toàn bộ trúc đào trong vùng phụ cận để tránh cho mật sáp tạo ra lại có độc nữa. Ngoài ra, hắn còn dặn sau này nếu lấy được mật mới rồi, tốt nhất nên dùng gà vịt thực nghiệm qua thử coi có độc hay không.

Cả nhà Vương lão thái suýt chút nữa bị ghép vào tội hạ độc rồi bị bắt trị tội, quả thật khiếp sợ vô cùng, nhưng khi được Dương Thu Trì điều tra ra chân tướng, trả lại sự thanh bạch cho họ, nên vô cùng cảm kích đối với hắn, đương nhiên vâng dạ chấp hành ngay lời hắn dặn. Hơn nữa, dù Dương Thu Trì không yêu cầu như thế, bọn họ cũng phải hủy đi số mật và trúc đào xung quanh, bỡi vì dù sao họ cũng là những người có trách nhiệm, bán rẻ lương tâm để kiếm tiền là điều mà họ tuyệt đối không làm.

Dương Thu Trì cùng mọi người gấp rút hạ sơn trở lại Nam Tiếu thôn, đến thẳng nhà Lỗ Học nho. Phạm thị và Trầm thị hiện đang bị giữ ở nơi đó.

Dương Thu Trì không thèm nghỉ ngơi, lập tức thẩm vấn Phạm thị: "Phương thuốc mà bà dùng để phối trị bệnh lỡ miệng của lão gia nhà bà là gì?" Dừng lại một chút, hắn hỏi tiếp: "Có phải là dùng cánh hoa trúc đào nghiền nát hòa trộn vào mật ong không?"

Sở dĩ Dương Thu Trì đoán như thế, nhân vì trúc đào là loại trung dược khá thông dụng, có tác dụng giải độc giảm đau nhức, rất nhiều thuốc trung y trị ung nhọt đều có trúc đào ở trong đó (đều là thuốc thoa ngoài da). Tuy nhiên, trúc đào là một loại độc dược, nên có thể nói, trung y là một thứ học vấn khá huyền diệu, nhiều một chút là độc, ít một chút là thuốc, đánh đúng chỗ thì trị được bách bệnh.

Gần Nam Tiếu thôn đều có trúc đào, và chút tri thức về trúc đào có độc được được người dân trong vùng biết. Trong các làng xóm thôn quê thường phát sinh những trường hợp trâu dê ăn phải trúc đào ngộ độc tử vong. Nhưng do lão bá tính thiếu các khiến thức về trung y, hay các bài thuốc dân gian đều là truyền miệng, nên việc dùng trúc đào để làm thuốc kỳ thật rất nguy hiểm.

Phạm thị ngạc nhiên hỏi lại: "Đại nhân, ngài cũng biết phối phương này sao? Bài thuốc này rất hữu dụng đấy."

"Hữu dụng? Dùng để đi chầu diêm vương thì có!" Dương Thu Trì tức giận bảo. "Ngươi không biết thì đừng có tin thầy tin bà loạn lên hết chứ. Thứ trúc đào này tuy có tác dụng giải độc giảm đau giảm sưng tấy, nhưng nó là chất kịch độc, sử dụng không đúng cách sẽ làm chết người đấy! Lão gia của ngươi rất có thể là dùng bài thuốc của ngươi chết rồi!"

Phạm thị lập tức sợ hãi khóc rống lên: "Đại nhân, tôi thiệt không biết a, trước đây có người dùng trúc đào làm thuốc đều không sao cả, tôi cho rằng... tôi thật không biết a."

Mật ong vốn đã có độc, Phạm thị lại nghe theo phương thuốc dân gian, bỏ thêm cánh hoa trúc đào vào đó, coi như đã có độc mà còn cho thêm độc, thì làm sao lão tú tài Lỗ Học Nho chịu nổi chứ, không chết mới là lạ!

Tin bừa theo thuốc lạ, sự ngu muội đã hại chết người! Dương Thu Trì thầm thở dài.

Hồ Giang cũng than thở: "Thì ra ong mật và nguyên phối phu nhân hợp mưu giết lão tú tài Lỗ Học Nho này, ta nghĩ nát óc cũng không ra kết quả như vậy!"

Các bộ khoái bước lên dùng xích trói Phạm thị lại.

Tiểu thiếp Trầm thị lại bắt đầu gào khóc cào cấu Phạm thị, đòi giết bà ta báo thù cho lão gia, nhưng bị Tống Vân Nhi kéo ra.

Xong rồi, án coi như đã phá, trở về nhà thôi!

Tâm tình của Dương Thu Trì thật trầm trọng. Hắn bước ra khỏi phòng mà cảm thấy án này có gì đó không thõa. Bước đi mấy bước, hắn đột nhiên dừng lại, nhìn vào sườn núi đối diện không chớp mắt.

Tống Vân Nhi hỏi: "Ca, huynh nghĩ gì nữa vậy?"

Dương Thu Trì không trả lời, quay đầu lại nhìn bụi trúc đào ở cạnh nhà Lỗ học nho, nhìn lên nhìn xuống một hồi, bước lại hái một chiếc lá đặt lên bàn tay xem, chân mày nhíu tít lại.

Tống Vân Nhi biết những khi ca ca của nàng đứng thẩn thờ ra như thế, thì có nghĩa là ca ca đang suy nghĩ điều gì đó thật kỳ quái. Vì vậy, nàng thấy lạ riết thành quen, không dám làm phiền, chỉ đứng bên cạnh đó chờ hắn ngẫm nghĩ xong.

Dương Thu Trì đột nhiên vò nát chiếc lá trúc đào trong tay, sau đó đưa các phần lá nát lên xem kỹ, đôi mày càng nhíu chặt hơn nữa.

Sau khi trầm tư một lúc lâu, Dương Thu Trì bước đến trước mặt Phạm thị, hỏi: "Ngoại trừ ngươi cho thêm cánh hoa trúc đào vào mật ong, còn cho cái gì khác nữa không?"

Phạm thị lắc đầu khóc lóc, mái tóc bạc xõa tung ra, khiến cho mọi người đều cảm thấy đáng thương.

Dương Thu Trì lại hỏi: "Phương thuốc này ai chỉ cho ngươi?"

"Là lão thầy bói Triệu Bán Tiên ở cửa thôn chỉ."

"Thầy bói à?" Dương Thu Trì hơi ngạc nhiên, "Thầy bói mà sao biết xem bệnh?"

Phạm thị gật gật đầu, khóc thút thít.

Mễ lý chánh ở cạnh đó chen lời: "Dương công tử, thầy bói Triệu Bán Tiên trong thôn của chúng tôi thật là có bản lĩnh, xem bệnh chỉ là thứ yếu, khiến người ta bội phục chính là ông ta xem bói rất chính xác."

Tống Vân Nhi nghe thế lập tức cảm thấy vô cùng hứng thú, hỏi: "Ai! Ngươi nói cái tên Triệu Bán Tiên đó coi bói chuẩn lắm hả?"

Phụ nữ đối với bói toán, đoán mệnh, tướng tinh, số phận đều rất mê muội, từ cổ chí kim đều không có ngoại lệ!

Mễ lý chánh đáp: "Đương nhiên chuẩn, ba làng tám xóm quanh đây đâu đâu cũng tìm y coi bói, người ta còn tặng cho y ngoại hiệu là Triệu Bán Tiên." Ngừng một chút, y tiếp, "Vị Triệu Bán Tiên này không những coi bói giỏi, mà còn có thể bắt quỷ trừ tà, đạo pháp lợi hại vô cùng."

"Đúng rồi, mấy ngày trước nghe nói tiểu thiếp Trầm thị của Lỗ lão phu tử đã đưa lão đi tìm Triệu Bán Tiên xem bói, Triệu Bán Tiên nói Lỗ lão phu tử năm nay có kiếp nạn, chỉ sợ khó thoát. Lúc đó tuy y đã giải xong, nhưng Triệu Bán Tiên có nói, kiếp số này rất khó có thể giải trừ hết, quả nhiên hiện giờ đúng như thế, Triệu Bán Tiên đoán thật là linh!"

Dương Thu Trì nhớ lại đêm hôm qua khi bọn họ vừa đến Bắc Tiếu thôn tìm Mễ lý chánh báo cho y biết Lỗ học nho đã chết, lúc đó lý chánh đã từng lẩm bẩm "Thiệt là linh", Dương Thu Trì nghe mà cảm thấy kỳ lạ cho câu nói này, không hiểu tại sao, sau đó do bận đi tìm người nhà của Lỗ Học Nho để tra hỏi nên cũng không để ý. Hiện giờ, hắn mới hiểu Mễ lý chánh lúc đó có ý bảo Triệu Bán Tiên đoán mệnh linh nghiệm.

Dương Thu Trì hỏi: "Ngươi làm sao biết Trầm thị dẫn Lỗ Học Nho đi tìm Triệu Bán Tiên đoán mệnh?"

"Triệu Bán Tiên nói a, y cảm thán và nói với mọi người rằng Lỗ lão phu tử năm nay có kiếp nạn, rất hung hiểm, chỉ sợ ngay cả ông ta cũng giải không nổi, bảo mọi người cẩn phải để ý Lỗ lão phu tử, có chuyện gì xảy ra cần phải báo ngay cho ông ta để kịp thời xử lý."

Dương Thu Trì ừ à, cúi đầu trầm ngâm một chút rồi đột nhiên chuyển thân trở vào trong nhà của Lỗ Học Nho.

Tống Vân Nhi, Hồ Giang, Mễ Lý Chánh không biết Dương Thu Trì định làm gì, chỉ đành đi vào theo.

Tiểu thiếp Trầm thị cứ nghĩ bọn họ đã đi rồi, nên trở vào ngồi trong khuê phòng hát hò nho nhỏ xâm soi trang điểm. Ả thấy Dương Thu Trì tiến vào liền hơi bối rối, kéo tay áo lên lau nước mắt.

Dương Thu Trì cảm thấy rất tức cười, hỏi Trầm thị: "Ngươi dẫn lão gia của các ngươi đi tìm Triệu Bán Tiên trong thôn coi bói, đúng không?"

Tiểu thiếp Trầm thị lén nhìn Dương Thu Trì một cái, từ từ thả tay áo xuống, mắt đã bị dụi đỏ hồng nhưng không hề có một giọt lệ nào, rầu rầu đáp: "Đúng a, vốn là muốn đến đó để thầy bói đoán coi trong kỳ thi ân khoa năm nay lão gia có thể trúng tuyển hay không, thật không ngờ vừa gặp mặt nhà Triệu Bán Tiên ấy đã nhìn được là lão gia của chúng tôi năm nay bị kiếp nạn. Hu hu hu, không ngờ Triệu Bán Tiên coi trúng rồi, hu hu, sau này tôi làm sao mà sống đây a, hu hu hu hu hu." Nói rồi lớn tiếng khóc rống lên.

Dương Thu Trì chờ cho cái còi hơi của ả xả bớt một chút mới hỏi tiếp: "Nhưng ta nghe Mễ lý chánh nói Triệu Bán Tiên đã giải kiếp nạn này cho lão gia các ngươi rồi, sao lại không hữu hiệu vậy?"

"Giải thì giải rồi, nhưng Triệu Bán Tiên nói lão gia chúng tôi gặp kiếp nạn rất lớn, nếu như không thể qua khỏi thì đó là ý trời mà thôi. Hu hu hu" Tiểu thiếp Trầm thị lại bắt đầu sụt sịt dùng tới còi hơi.

"Vị Triệu Bán Tiên đó giải kiếp nạn cho lão gia các ngươi như thế nào?"

"Lập pháp đàn bắt quỷ trừ tà."

Hai mắt Tống Vân Nhi sáng bừng, hiếu kỳ chen lời: "Vị Triệu Bán Tiên đó còn biết bắt quỷ trừ tà? Đạo thuật của y lợi hại như vậy sao?"

Mễ lý chánh ở bên cạnh nghe thế liền chen ngay vào: "Cái đó thì đương nhiên rồi, Triệu Bán Tiên ở Bắc Tiếu thôn chúng tôi chẳng những coi bói chuẩn, mà còn thỉnh thần bắt quỷ rất tuyệt, ba làng bảy xóm xung quanh ai mà không biết? Chỉ nói riêng về bắt quỷ trừ tà trị bệnh, tôi đã từng tận mắt chứng kiến, Triệu Bán Tiên niệm động chú ngữ trói quỷ trên người bệnh nhân vào một tờ giấy trên pháp đàn, sau đó ngậm nước phun một cái, con quỷ đó tức thời hiện nguyên hình, thường đó là một con quỷ đầu to mắt lồi, máu huyết lâm ly a."

Tống Vân Nhi nghe thế cô cùng thích thú, hỏi: "Có thật không?"

Mễ lý chánh càng lên tinh thần: "Cái đó thì đương nhiên, tôi còn tự thân chứng kiến Triệu Bán Tiên dùng dầu sôi diệt quỷ nữa đấy."

"Dầu sôi chiên quỷ?" Tống Vân Nhi kinh dị hỏi.

"Không sai, trước hết nấu một nồi dầu sôi, rồi Triệu Bán Tiên thò tay vào trong đó coi dầu đã thực sự sôi chưa, có thể chiên chết quỷ hay không - đó là một nồi dầu sôi sung sục đó a, y đưa tay vào trong ấy mà chẳng bị sao cả, cô nói y có lợi hại hay không chứ hả?"

Mễ lý chánh khoe khoan đến sùi bọt mép, trong thôn của y có một nhân vật như vậy sao y không cảm thấy nở mày nở mặt cho được? Y còn hưng phấn tiếp tục kể: "Thử coi dầu sôi chưa rồi, Triệu Bán Tiên thi pháp bắt tà quỷ trên người bệnh nhân, dùng pháp thuật cấm cố quỷ đó vào một khúc xương, sau đó bỏ khúc xương vào trong dầu sôi mà nấu. Tiểu quỷ bên trong khúc xương đó không ngừng phát ra tiếng kêu thảm, giãy dụa lên xuống, cuối cùng bị chiên chín luôn! Bệnh nhân lập tức khỏe ngay. Cô nói coi thần kỳ hay không?"

Dương Thu Trì cũng xen vào: "Quả là thần kỳ a." Rồi hắn cười cười hỏi, "Vị Triệu Bán Tiên này có thể trị bệnh?"

"Đương nhiên rồi, bắt quỷ trị bệnh cái gì Triệu Bán Tiên cũng biết, nếu là bệnh nhẹ thì dùng phương thuốc của y là khỏi, còn bệnh nặng thì phải bắt quỷ trừ tà mới được."

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ một chút, nói: "Ta thường hay đau răng, đau lên rồi ăn cái gì cũng không ngon. Hơn nữa ta còn ngủ không được, cứ ngủ là gặp ác mộng, ngươi dẫn ta đi tìm Triệu Bán Tiên coi thử coi sao, được không?"

"Sao lại không á" Mễ lý chánh sốt sắng đáp ngay: "Tôi dẫn mọi người đi."

Dương Thu Trì nói với tiểu thiếp Trầm thị: "Ngươi cũng đi theo chúng ta đi, đi xem náo nhiệt."

Trầm thị vốn muốn cự tuyệt, nhưng thấy thần sắc Dương Thu Trì vô cùng lạnh lùng, hoảng kinh không dám nói gì, gật gật đầu đi theo họ ra khỏi cửa.

Mọi người được Mễ lý chánh dẫn đường ra đến nhà Triệu Bán Tiên ở gần cửa thôn.

Nhà Triệu Bán Tiên nhìn có vẻ giàu có so với những nhà khác trong thôn, bao gồm mấy gian phòng lớn lợp ngói, trước cửa lớn có treo một biển trên có đề bốn chữ đại tự vàng chóe: "Bán tiên hạ phàm".

Nhà y có một hầu gái già họ Tôn chuyên môn nghênh đón khách nhân. Khi nghe nói có các đại gia trong Ứng Thiên phủ nha môn đến tìm Triệu Bán Tiên trừ tà xem bệnh, Tôn lão mụ tử mừng đến nỗi cười không thể khép miệng, vội vã mời Dương Thu Trì cùng mọi người vào nhà, sau đó chạy ra ngoài nói oang oang, trong thôn tức thời chấn động, rất nhiều người kéo đến xem náo nhiệt.

Vị Triệu Bán Tiên này tuổi ngoài năm mươi, một con mắt nhỏ xíu, mắt còn lại bị mù, khi nghe nói có các lão gia từ Ứng Thiên phủ đến, y liền đứng dậy chấp tay khom người: "Tham kiến các vị lão gia, Triệu hạt tử (mù) tôi xin ra mắt các vị." Nói rồi dẫn họ đến mời ngồi trong phòng khách.

Dương Thu Trì chấp tay xá xá, nói: "Triệu Bán Tiên, tại hạ và thông phán Hồ Giang Hồ đại nhân của Ứng Thiên phủ nha môn đến quý thôn tra án Lỗ lão phu tử bị giết, nghe nói tiên sinh pháp thuật cao cường, cũng vừa lúc tại hạ đang có chút khó ở, nên muốn thỉnh tiên sinh coi bệnh xem sao."

Triệu Bán Tiên nghe nói Lỗ lão phu tử bị giết, thở dài: "Ai...! Thật là trời không ưa người tài, lão phu tử này vốn là người có học vấn nhất trong thôn chúng tôi a! Ai....! Thật đáng tiếc a...! Pháp lực của ta không đủ, không thể cứu được ông ta."

Những thôn dân đang đứng chật ngoài vườn đều gật đầu than thở.

Triệu Bán Tiên thở dài phẩy phẩy tay, nghe thôn dân ngoài cửa kính phục thở than, khóe miệng lộ ra nụ cười đắc ý. Qua một lúc sau, y mới chớp chớp con mắt mông lung lệ còn lại duy nhất ấy, cất tiếng hỏi Dương Thu Trì: "Xin hỏi vị đại gia này không thoải mái ở chỗ nào?"
 
Chương 143: Thi pháp


"Răng ta đau, đêm ngủ không được vì răng cứ đau buốt hoài, ai da...! Khi đau lên rồi thì muốn chết phứt cho xong, chẳng muốn trà rượu cơm nước gì cả, khó chịu lắm."

Triệu Bán Tiên bảo Dương Thu Trì há miệng ra, giả vờ nhìn trên nhìn dưới trong vòm răng một hồi, rồi bảo: "Không có vấn đề gì lớn, để tôi cấp cho ngài một phương thuốc, lúc đau răng thì dùng lập tức sẽ hiệu nghiệm."

"Vậy à? Đa tạ tiên sinh, phương thuốc gì vậy?"

Triệu Bán Tiên cười cười: "Phương thuốc này nếu nói ra thì chẳng có gì kỳ lạ cả," y chỉ ra bụi trúc đào ngoài cửa, "Chính là dùng lá trúc đào này, chỉ một lá là đủ, đem ngâm trong nước, khi đau răng thì ngậm nước đó vào miệng sẽ thấy hiệu nghiệm ngay, bảo đảm ngài không đau nữa."

"Thật không? Phương thuốc này hiệu nghiệm thật sao?"

Triệu Bán Tiến chỉ vào bảng hiệu trên cửa: "Ha ha ha, sao lại không hữu hiệu? Không hữu hiệu mọi người có thể để hủy chiêu bài của tôi!" Dừng lại một chút, y đắc ý huyên hoang nói: "Quý vị từ xa đến chắc là chưa rõ, nếu như quý vị còn chưa tin thì có thể hỏi hàng xóm chung quanh đây, không biết bao nhiêu người đã dùng thuốc của tôi trị khỏi bệnh rồi." Nói xong y cười hì hì nâng chung trà lên nhấp một ngụm thấm giọng.

"Vậy à?" Dương Thu Trì mỉm cười, "Vậy bệnh đau răng của Lỗ lão phu tử là do Bán tiên ngài trị lành đấy à?"

Nước trà trong miệng của Triệu Bán Tiên sắp nuốt trôi qua cổ họng, bị Dương Thu Trì đột nhiên hỏi câu này, lập tức trào ngược trở lên chặn cả khí quản, khiến y bị sặc ho sù sụ.

"Bán tiên, ông không sao chứ?" Dương Thu Trì quan tâm hỏi, "Ta chỉ thuận miệng hỏi thôi, không ngờ ông kinh hải như vậy." Nói xong quay sang tiểu thiếp Phạm thị hỏi: "Lão gia của ngươi có phải bị đau răng thường xuyên không?"

Phạm thị gật gật đầu: "Đúng vậy, đại gia ngài làm sao mà biết vậy?"

"Ta kiểm tra thi thế phát hiện răng của lão gia ngươi bị sâu thủng rất nhiều chỗ, cái chứng đau răng này không phải một ngày một bữa đâu." Dương Thu Trì quay sang nhìn Triệu Bán Tiên chằm chằm: "Triệu bán tiên y thuật như thần, lại có phương thuốc này, sao Lỗ lão phu tử không đi tìm ông xem bệnh được. Ta nói có đúng không, Triệu Bán Tiên?"

Triệu Bán Tiên gật đầu lia lịa: "Đúng, Lỗ lão phu tử có đến tìm tại hạ xem bệnh đau răng, tại hạ cũng cấp cho y bài thuốc này."

"Vậy bệnh răng của Lỗ lão phu tử hết rồi sao?" Dương Thu Trì lại nhìn châm châm vào Triệu Bán Tiên.

"Cái đó, cái đó tại hạ cũng không rõ." Triệu bán tiên ho khan vài tiếng, sau đó dừng lại ngay.

Dương Thu Trì quay sang hỏi Trầm thị: "Lão gia của ngươi tìm Triệu bán tiên để xem bệnh đau răng, ngươi có biết không?"

Trầm thị gật đầu: "La tôi đưa lão gia tới, chính là lần trước đi tìm Triệu bán tiên xem bói xong rồi coi bệnh luôn một thể." Trong lúc nói, Trầm thị liếc mắt nhìn về phía Triệu Bán tiên, vừa đúng lúc thấy Triệu Bán Tiên nheo mắt nhìn mình, Trầm thị liền trợn mắt nhìn lại, nghênh mặt quay sang chổ khác.

Dương Thu Trì dường như không chú ý đến biểu hiện đó, hỏi tiếp: "Trước đó các ngươi có đến đây không?"

Trầm thị ngẫm nghĩ, đỏ mặt gật đầu: "Có đến."

"Cũng là ngươi đưa lão gia của ngươi đến?"

"Vâng."

"Có thường không?"

Tiểu thiếp Phạm thị đỏ mặt, lại liếc mắt về phía Triệu Bán Tiên.

Triệu Bán tiên không vui cất giọng chen lời: "Vị đại gia này, ngài đến xem bệnh hay là đến chỗ tôi điều tra án vậy?"

Dương Thu Trì không hề bực mình, vẫn một mực mỉm cười: "Đúng đúng, Triệu Bán tiên nói rất đúng, coi ta kìa, cái bệnh nghề nghiệp cứ phạm vào mãi, hỏi cái gì cũng như tra án vậy, thỉnh Triệu Bán Tiên đừng lấy làm lạ." Dừng lại một chút, hắn lại thở dài, "Lỗ lão phu tử dù sao cũng chết rồi, bệnh đau răng có trị lành hay không không còn quan trọng nữa."

Triệu Bán tiên vừa nghe tin đó liền ho khúc khắc vài tiếng rồi dừng lại ngay, hỏi Dương Thu Trì: "Đại gia ngài vừa nói ngoại trừ đau răng còn bị chứng ngủ không được, đúng không?"

Dương Thu Trì gật đầu: "Đúng vậy, có lúc ngủ trên giường mà cảm thấy mông lung như có gì chèn lên cổ vậy, khi giãy giụa giật mình tĩnh dậy thì cái gì cũng không có, hơn nữa lại thường hay bị ác mộng. Bán tiên, ông nói coi có phải là ta bị trúng tà không?"

Triệu Bán tiên ngưng thần tử tế quan sát Dương Thu Trì, sau đó nói: "Đại gia, ngài xác thật là bị trúng tà rồi. Coi nè, ấn đường của ngài tối đen, hai mắt vô thần, nếu như không chịu sớm khu ma trục tà, chỉ sợ chẳng mấy chốc đại nạn của ngài sẽ tới nơi a."

Dương Thu Trì trợn trừng mắt, vô cùng kinh sợ hỏi: "Vậy, vậy phải làm sao bây giờ?"

Tống Vân Nhi cũng gấp lên, rối rít hỏi: "Tiên sinh, ca ca của tôi gặp phải tà gì mà lợi hại quá vậy?"

Bộ dạng của Triệu Bán tiên hiện giờ giống như đã chắc ăn như bắp rang, mỉm cười nói: "Đừng có gấp, có Triệu bán tiên ta ở đây đảm bảo ngài không có gì. Tôi sẽ lập tức lập đàn làm phép khu tù trị bệnh, lập tức sẽ không có vấn đề gì cả." Nói đến đây, Triệu Bán tiên nâng nửa chung trà còn lại lên uống một hơi cạn sạch, dài giọng nói: 'Nhưng mà lập đàn thi pháp rất tổn thương tinh thần..."

Dương Thu Trì lập tức hội ý, móc từ trong người ra một đĩnh bạc gần mười lượng: "Tiên sinh, điểm đó mà hề gì, chỉ cần ông lập đàn thi pháp giải tà cho ta, cái này quy về chỗ ông."

Triệu bán tiên vừa nhìn thấy đĩnh bạc ấy hai mắt liền phát quang, suýt chút nữa thì con mắt đã mù kia mở hẳn cả ra luôn.

Trong sơn thôn lão bá tánh có thể có đồ ăn thức uống, nhưng ngân lượng thì hiếm vô cùng. Mỗi khi dân trong thôn đi khám bệnh coi bói, thường họ xách theo một gỉo trứng hay giỏi lắm là một cái đùi heo là hậu hĩnh lắm rồi, còn nếu tiền công được một hai xâu tiền thì đã là trọng lễ, chứ chưa bao giờ có ai dâng lên một lúc cả mười lượng bạc như thế cả.

Triệu Bán tiên nở mày híp mắt đưa tay định chộp lấy đĩnh bạc đó, Dương Thu Trì vụt tay ra chặn lại, khe khẽ lắc đầu: "Tiên sinh, không cần gấp, đĩnh bạc này cứ để đây, chờ ông giúp ta lập đàn thi pháp trừ tà giải bệnh xong thì nói là của ông."

Triệu Bán tiên hơi ngượng, cười đáp: "Cái đó đương nhiên!" Rồi y đứng dậy nói với Tôn lão mụ tử: "Mau chuẩn bị vật dụng lập pháp đàn trong vườn." Y bước đến cửa, thấy trong vườn ồn ào náo nhiệt đầy cả người trong thôn, thấy đây là cơ hội khoe bản lĩnh nên tâm tình sướng khoái vô cùng.

Lão mụ tử đó bày ra trong vườn một cái pháp đàn, Triệu Bán Tiên bảo Dương Thu Trì ngồi lên một cái ghế gần đó, Tôn lão mụ tử bắt đầu bày biện mọi thứ.

Dương Thu Trì ngoắc tay gọi Tống Vân Nhi đến gần, kề tai nàng nói xì xào gì đó. Tống Vân Nhi nghi hoặc nhìn hắn, hắn lại thì thầm thêm vài câu nữa, Tống Vân Nhi cười hì hì gật gật đầu.

Tôn lão mụ tử đang bận bịu chuẩn bị pháp đàn, Tống Vân Nhi chạy lại nói: "Đại nương, bà cực khổ quá, để tôi giúp bà!"

Tôn lão mụ tử thấy Tống Vân Nhi cực kỳ xinh đẹp, miệng nói ngọt ngào, liền cười ha ha đáp: "Không cần đâu, ta bận một chút thôi mà, cảm ơn cô nghe!" Nói xong chuyển người đi vào nhà dưới lấy đồ.

"Không hề gì, tôi giúp bà được mà!" Tống Vân Nhi thoăn thoắt vào nhà trong theo lão mụ tử.

Chẳng mấy chốc sau, lão mụ tử và Tống Vân Nhi đã chuẩn bị mọi thức cho pháp đàn, ngoài ra còn đặt một lò lữa, trên đó có một nồi dầu lớn, bên dưới chất đầy củi khô.

Triệu bán tiên thay đạo bào, cầm mộc kiếm từ pháp đài lên, chân đạp thất tinh, bước theo hình bát quái, miệng lầm rầm niệm chú, mộc kiếm trong tay không ngừng múa may trên đầu Dương Thu Trì.

Múa một hồi, y lấy từ trong người ra một tờ giấy xếp, bày ra trên pháp đàn bên cạnh Dương Thu Trì, một mặt niêm chú ngữ, một mặt múa mộc kiếm, tay còn lại cào cào chụp chụp loạn phía trên đỉnh đầu của Dương Thu Trì, sau đó giống như cầmm một thứ gì đó quẳng vào tờ giấy trắng trên pháp đàn, tiếp tục niệm chú ngữ.

Niệm mãi một lúc nữa, y cầm một tô thánh thủy đặt trên pháp đàn lên, hớp một ngụm rồi phun lên trên đó. Sau đó, y đắc ý quay nhìn thôn dân đang đứng xung quanh, giơ cao thanh kiếm làm bằng gỗ đào, chờ mọi người đứng xem hoan hô.

Chở cả buổi mà chẳng có tiếng hô nào như mong đợi, ngược lại, y còn thấy mọi người dân quanh đó xôn xao nghị luận.

Triệu Bán tiên hơi ngẩn người, chẳng lẽ có chỗ nào sai hay sao? Y trừng con mắt híp duy nhất còn lại nhìn thôn dân chung quanh, thấy bọn họ đều nhìn về phía sau lưng y chỉ chỉ điểm điểm, dường như đang bàn tán điều gì đó. Y chuyển thân nhìn về phía Dương Thu Trì, thấy hắn chẳng có động tĩnh gì, chỉ ngồi im lìm khoan khoái nơi đó nở nụ cười mỉm nhìn y.

Có vấn đề gì vậy cà? Vì sao lại không chịu hoan hô mà còn kinh dị? Triệu bán tiên nghi hoặc chuyển mục quang nhìn về phía thôn dân ở ngoài vườn, đột nhiên y phát hiện có điều gì đó không ổn, nhắm mắt lại nghĩ một hồi, mới biết điều không ổn đó thì ra là ở pháp đàn.

Triệu Bán tiên mở con mắt duy nhất ra, nhìn kỹ về phía pháp đàn, lúc này mới phát hiện tờ giấy trải trên pháp đàn đó không hề xuất hiện quỷ mị toàn thân đầy máu huyết như những lần trước.

Triệu Bán tiên nghĩ mình bị hoa mắt, dụi dụi vài cái nhưng mọi chuyện vẫn y nguyên.

Y chẳng biết rốt cuộc là đã có chuyện gì, cầm chén nước còn phân nửa trong tay lên, hớp một ngụm lớn nữa rồi phun lên tờ giấy trải trên pháp đàn lần nữa. Kết quả vẫn không có điều kỳ lạ gì xảy ra.

Điều này khiến Triệu bán tiên phát hoảng, không rõ là đã sai ở chỗ nào. Tuy nhiên y nhanh chóng ổn định tinh thần, quyết định dùng "Dầu sôi diệt quỷ" để lấy lại thể diện.

Triệu bán tiên đặt chén thánh thủy trong tay xuống bàn, bắt đầu vừa đi theo hình bát quái vừa niệm chú tiếp.

Y lấy từ pháp đàn một khúc xương, niệm chú rì rầm vào khúc xương cả buổi, sau đó ra hiệu cho Tôn lão mụ tử. Tôn lão mụ tử gật gật đầu, cúi xuống chảo dầu bắt đầu điểm lửa.

Đến lúc này, Dương Thu Trì cất tiếng hỏi Triệu Bán Tiên: "Triệu bán tiên, cái chứng mất ngủ này của ta rốt cuộc có thể chữa khỏi hay không a?"

Triệu bán tiên tự phụ cười đáp: "Đại nhân, ngài không phải là người đầu tiên tìm tôi xem bệnh a. Ngài yên tâm, tôi cam đoan sẽ chửa khỏi bệnh cho ngài!" Y vừa chuyển thân định nhìn sang nồi dầu thì Dương Thu Trì chợt gọi giật trở lại: "Tiên sinh, nghe nói ngài pháp thuật cao cường, bỉ nhân vô cùng bội phục, ngài có thể nói cho ta biết pháp thuật của ngài là gì không? Ta đặc biệt sùng bái người có bản lĩnh giống như ngài."

Triệu Bán tiên nghe thế cười đến nổi chẳng thể khép miệng, bắt đầu thao thao bất tuyệt kể lễ khoe khoang với Dương Thu Trì.

Vị đại quan Ứng Thiên phủ này tìm y coi mệnh, nói thật là chuyện chưa bao giờ có trước đây, hơn nữa còn sùng bái y như vậy, trả tiền công nhiều như vậy, nên chẳng trách Triệu Bán tiên cao hứng như lượm được tiền vậy.

Triệu Bán tiên cao hứng nói chuyện văng bọt mép với Dương Thu Trì, đến nổi lão mụ tử phải khéo léo nhắc: "Lão thần tiên, dầu sôi rồi."

Triệu Bán tiên thuận dịp đó vội nói với Dương Thu Trì: "Đúng đúng! Ta hiện giờ phải đem con quỷ bắt được trên người lão nhân gia ngài cấm cố nó trong khúc xương này, sau đó cho nó vào trong nồi dầu, đốt chết nó! Bệnh của lão nhân gia ngài nhất định sẽ khỏi ngay."

Dương Thu Trì mỉm cười: "Làm phiền tiên sinh!"

Triệu Bán tiên chớp chớp con mắt duy nhất, bộ dạng vô cùng đắc ý, đạp theo bộ thất tinh, niệm niệm lầm rầm, đưa tay lên cao vẫy với người dân trong thôn ra hiệu, rồi sau đó vòng cánh tay lại chộp lên khoảng không trên đầu Dương Thu Trì giống như chụp được cái gì đó. Y đem vật chụp được hư ảo đó quẳng vào trong cục xương, sau đó nhìn về phía nồi dầu niệm chú tiếp.

Đến lúc này, các thôn dân vây quanh xem chuyện biết đoạn cao trào đã tới, tâm tình bị kích động nên hét to: "Đốt chết nó!"

"Nấu chín con ác quỷ nó chứ!"

"Không không! Chiên giòn nó mới đúng, Triệu bán tiên thật là lợi hại, ác quỷ như thế không được tha!"

"Ừ ừ, dầu sao thì cũng phải cho nó chết!"

.....

Triệu Bán tiên rất biết cách phiến động tình tự của người xem, thấy nồi dầu đã bóc khói nóng sôi ục ục, liền nói với Dương Thu Trì: "Đại gia, ta phải coi xem nồi dầu này đã sôi đủ nóng hay chưa, nếu chưa nóng đủ thì con quỷ cấm cố trong cục xương này sẽ không bị chín chết, chúng ta chỉ bỏ công không mà thôi!"

Nói xong, y nghênh ngang trong bộ dạng nắm chắc mọi chuyện, đưa tay thò mạnh vào trong nồi dầu đang sôi.

"A.....!" Một tiếng kêu thảm cất lên, Triệu bán tiên rút mạnh tay lại, lùi phình phịch vài bước, rên lên một tiếng ngồi phệch xuống đất. Cánh tay phải vừ rồi thò vào trong nồi dầu sôi giờ đã tuột da, bốc lên một mùi thịt chín.

Triệu bán tiên lăn lộn kêu gào, đau đến nổi sắp ngất đến nơi.

Đến lúc này thì mọi thôn dân bàng quan xem náo nhiệt đều trợn đứng tròng mắt. Pháp thuật bắt quỷ nấu dầu của Triệu bán tiên bọn họ chẳng biết đã xem bao nhiêu lần, sao lần này cánh tay của Triệu Bán tiên dường như cũng bị nấu theo luôn vậy?

Tiểu thiếp Trầm thị của Lỗ học nho kêu lên một tiếng cả kinh, mặt biến hẳn. Mễ lý chánh càng kinh ngạc đến nổi mắt muốn lòi rớt cả ra ngoài, y chứng kiến cảnh Triệu Bán tiên bắt quỷ nấu dầu này chẳng biết bao nhiêu lần, lần nào cũng thành công, dễ dàng như phất tay, chẳng hiểu sao lần này lại bị vậy. Bản thân lão cố sức khen ngợi thổi phồng Triệu bán tiên trước mặt Dương Thu Trì và mọi người cả buổi, giờ này các lớp sơn tô vẽ đó đã bị bóc tuột hẳn ra rồi.

Tôn lão mụ tử sợ chết điếng người, cho đến khi thấy Triệu bán tiên bị dầu sôi bỏng lột cả da đang nằm lăn lộn kêu gào dưới đất mới hoảng hồn chạy lại, tuy nhiên mụ lại đứng ngẩn ra ở đó tiếp, chẳng biết làm gì.

Dương Thu Trì kỳ quái nhìn Triệu bán tiên, hỏi: "Tiên sinh, ông làm sao vậy? Chẳng lẽ con quỷ trên người ta quá lợi hại, cắn ngược lại ông một phát hay sao?"

Vị Triệu bán tiên đó còn hơi sức đâu mà giải đáp câu hỏi của Dương Thu Trì, còn bao nhiêu sức lực trên người hiện giờ, y đều dùng vào việc kêu thảm khóc gào.

Tống Vân Nhi rất kinh ngạc, nàng nhìn nhìn Dương Thu Trì, rồi nhìn Triệu Bán tiên đang lăn lộn dưới đất, ngưng thần nghĩ ngợi rồi dường như hiểu ra, nhưng vẫn nhíu mày vì không thể nào giải thích rõ nguyên nhân.
 
Chương 144: Là sự tình nguyện


Dương Thu Trì thở dài nói: "Xem ra hôm nay Bán Tiên không may, gặp phải ác quỷ vô cùng hung mãnh trênngười của ta. Ai, chúng ta không làm khó tiên sinh nữa, đành phải quay về Ứng thiên phủ thôi." Nói xong hắn chuyển người định đi, đột nhiên nhớ tới điều gì đó, bước vào trong nhà lượm nén bạc lên bỏ vào túi, "Đúng rồi, ngươi không trừ được tà bệnh cho ta, đĩnh bạc này không thể trao cho ngươi được, sau này ta sẽ quay trở lại."

Dương Thu Trì nhờ Mễ lý chánh tiễn khách, còn mình thì dẫn Tống Vân Nhi và các hộ vệ đi về phía cửa thôn.

Hồ Giang cũng chẳng hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, tại sao vị tiên sinh kia dùng dầu nấu quỷ để rồi nấu chín cả tay mình. Thấy Dương Thu Trì rời khỏi đó, y cũng nhanh chóng dẫn theo bộ khoái áp giải Phạm thị bám theo Dương Thu Trì cùng rời khỏi cửa thôn.

Tiểu thiếp Trầm thị nhìn thấy Dương Thu Trì và những người khác đã khuất bóng, lại nhìn Triệu Bán Tiên đang lăn lộn kêu la trên mặt đất, khóe miệng lộ ra nụ cười mỉm, ư ử một vài lời hát nho nhỏ trở về nhà.

Tôn lão mụ tử lúc này mới lấy lại tinh thần, nhanh chóng đưa Triệu Bán Tiên vào phòng trong, tìm thuốc băng bó vết thương cho y.

Các thôn dân chờ suốt cả buổi chỉ nghe Triệu Bán Tiên không ngừng phát ra từng tiếng kêu gào chói lói, không khỏi kinh dị vô cùng.

Những thôn dân lần này coi như đã sáng mắt, không những tận mắt chứng kiến mộc kiếm của Triệu bán tiên không chém được quỷ, mà còn thấy y nấu dầu giết quỷ ngược lại bị luộc chín tay. Thì ra là sau khi thụ thương, y vẫn giống như lão bách tính bình thường kêu gào khóc thảm, không hề dùng pháp thuật chữa trị gì hết.

Tinh tức này nhanh chóng truyền khắp toàn thôn, rồi truyền đi các thôn xóm khác, và những người nghe tin đều kinh ngạc ngẩn người.

Thần tượng của bọn họ đã sụp đổ, triệt để bị đánh toàn. Hơn nữa bọn họ còn không biết y vì sao mà lại như thế.

Và các loại đoán già đoán non bắt đầu lưu hành khắp nơi. Có người đoán Triệu bán tiên trước đây bắt nhiều quỷ quá, đến giờ đây quỷ quay về báo phục. Có người nói pháp thuật của Triệu Bán tiên không còn linh nữa, không thể nào thu phục quỷ được. Thậm chí còn có người nói gã thiếu niên vừa rồi mới là cao nhân chân chính, là gã cố ý đạp đổ pháp đàn của Triệu Bán tiên, hai người đấu pháp lực, kết quả là triệu bán tiên thảm bại.

-----o0o------

Trời tối, Trầm thi ở nhà một mình. Lão Lỗ học nho đã chết, bà lớn Phạm thị bị bắt rồi. Nhưng tiểu thiếp Trầm thị không hề quan tâm đến điều này. Ăn cơm tối xong, ả đã sớm lên giường nằm sảy tay nghĩ ngợi.

Bên ngoài nhà không ngừng truyền lại tiếng chó sủa, tiếng gió lạnh thổi xào xạt qua ngọn cây, Trầm thị cảm thấy toàn thân phát lãnh, nằm co rúc trong mền, dường như như vậy an toàn hơn vậy.

Trong lúc này, Trầm thị chợt nghe một loạt tiếng bước chân nhè nhạ trên mặt tuyết đến dưới cửa sổ nhà mình.

Trầm thị càng khẩn trương hơn, ả hiện giờ coi như là một tiểu quả phụ, liệu có kẻ lưu manh nào đó trong thôn nhân cơ hội này đến hiếp đáp ả không? Trong thâm tâm ả thầm cầu mong những bước chân này chỉ là đi ngang nhà ả để đến nhà hàng xóm, nhưng suy nghĩ đó quá khiên cưỡng, bỡi vì nhà hàng xóm khá xa, và đường đi không hề ngang cửa nhà.

Đúng lúc này, tiếng bước chân đã dừng lại dưới cửa sổ, ngay sau đó là mấy tiếng gõ cốc cốc.

Trầm thị sợ đến biến cả sắc mặt, rúc sâu vào mền hơn, nhìn cái đèn cách ả mấy bước định thổi nó tắt đi giả vờ đã ngủ, nhưng điều này rõ ràng là bịt tay rung chuông.

Đúng lúc này, tiếng gõ cửa lại vang thêm mấy tiếng nữa.

Trầm thị biết không còn cách nào giả vờ, cuối cùng thu hết dũng khí run giọng hỏi: "Ai vậy?"

Ngoài cửa có tiếng người thì thào: "Là ta, mau mở cửa a."

Nghe thanh âm này, Trầm thị khẽ thở dài nhẹ nhõm, nhưng sau đó khẽ nhíu mày không thèm để ý.

Tiếng gõ cửa càng vang lên rõ hơn: "Tiểu mỹ nhân, nàng cần phải biết lão già dịch đó chết đi chính là công lao của ta đó nghe."

Trầm thị ngồi bật phắt dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ một lát, sau đó bước xuống giường khóac áo lên người, bước ra gian ngoài mở khoen cửa, rồi chuyển thân bước vào trong.

Cửa lớn cót két mở ra, một bóng người lẻn vào rồi xoay người đóng cửa lại, vòng hai tay ôm vòng eo thon của Trầm thị từ sau lưng, trong đó có một tay bị băng chặt bằng vải trắng.

Trầm thị vỗ mạnh lên cánh tay băng vải trắng của kẻ kia, khiến y đau đớn kêu thảm một tiếng, nhưng giữa chừng dừng lại nhịn đau ôm cánh tay đó oằn mình, qua một lúc sau mới khẽ kêu: "Tiểu mỹ nhân, nàng định lấy mạng ta sao?"

Người này chính là Triệu Bán tiên lúc ban ngày dùng dầu nấu quỷ bị bỏng tay. Cái tay bị phỏng lột da lòi thịt kia hiện giờ được băng bó bằng vải trắng, sưng phù như cây chùy.

Trầm thị không lý gì đến y, ngồi xuống cạnh giường từ từ nằm dựa xuống đầu giường, khinh thường nhìn Triệu Bán tiên: "Sao vậy, không bị đốt chết chạy đến chỗ ta làm gì?"

Triệu Bán tiên ôm cái tay sưng phù đó đến ngồi bên giường, trơ mặt dày nói: "Cục cưng à, ta thi pháp thuật giết lão già dịch đó xong, nàng hiện giờ có thể danh chánh ngôn thuận cải giá rồi, nàng còn không biết đa tạ ta sao?"

Tiểu thiếp Trầm thị hừ mũi, nhấc đùi ngọc lên đá cho Triệu bán tiên một cước: "Ngồi qua bên kia, đừng đến gần tôi." Ngay sau đó ả hỏi tiếp: "Lão già thiệt đúng là bị ngươi giết?"

Triệu Bán tiên bị đá súyt chút nữa rớt xuống giường, nhanh chóng đứng dậy nhưng không hề tức giận, vẫn mặt dày mày dạn nói: "Ngoại trừ ta còn ai vào đây nữa? Nếu không phải Triệu bán tiên ta ra tay, lão hồ ly đó có thể tin phương thuốc đó sao?" Nói xong, hắn bước đến cạnh giường giương đôi mắt háo hức nhìn Trầm thị: "Cục cưng nhỏ xíu ơi, hiện giờ nàng nên theo ta đi thôi?" Nói rồi liền chồm tới định hôn Trầm thị.

Trầm thị chợt lăn người tránh vào bên trong, hỏi: "Có thật là ngươi giết không?"

Triệu Bán tiên cười ha ha: "Đương nhiên, đấy không phải là điều nàng hy vọng hay sao?"

"Phì...!" Trầm thị phun một ngụm nước bọt, "Ta chẳng muốn ngươi hại lão chết. Ta chỉ nhờ ngươi coi một quẻ cho lão xem lão có mệnh làm cử nhân hay không thôi."

"Ta coi rồi, lão không có cái mạng đó đâu a."

"Vậy ta cũng chưa hề nhờ ngươi giết lão, ta không có lòng dạ độc ác như ngươi."

Triệu Bán tiên cười cười: "Cái này là vì ta muốn có nàng, ai bảo nàng cứ ưỡn ẹo trước mặt ta, khiến ta tâm tình bức rứt, cứ một mực muốn chạy theo nàng."

'Hi hi hi," Trầm thị phì cười, "Coi đức tính của ngươi kìa! Ta biết mà. Ngươi chẳng hề tốt lành gì! Cố ý không giúp lão gia nhà ta trị hết bệnh."

Triệu Bán tiên ghé mông ngồi cạnh giường: "Nếu ta giúp lão trị hết bệnh, nàng còn đến ổ chó nhà ta để làm gì?" Nói xong y thò tay trái không thụ thương ra sờ mặt của Trầm thị.

Trầm thị đập tay hất hắn ra, tức giận quát: "Vừa thôi chứ! Ngươi hại chết lão gia nhà ta, còn muốn ăn hiếp đàn bà góa này. Nếu sớm biết thế lúc ban ngày ta đã tố cáo ngươi để cho nha môn bắt ngươi đi!"

"Coi nàng nói giống như liệt nữ trinh khiết chưa kìa," Triệu Bán tiên quỳ nửa người lên giường, "Trong lòng nàng chẳng phải là cầu cho lão quỷ đó mau chết sớm hay sao. Nàng còn có người nào khác giúp hay sao? Ta thi pháp thuật giết lão, chẳng phải là thuận với tâm nguyện của nàng đấy sao?" Ngừng một chút, hắn lại đắc ý dươngdương nói, "Triệu Bán tiên ta một mình một bóng, nàng nếu theo ta thì chẳng phải ăn ngon mặc đẹp không thiếu thứ gì nữa sao?"

"Là ngươi cam tâm tình nguyện giết lão, chứ bộ ngươi không biết ta biết rõ lòng người ra sao hay sao? Ngươi chỉ mong cho lão chết đi để ta phải theo ngươi? Đúng không? Phì!" Trầm thị lại phun một bãi nước bọt, "Đừng có mơ! Ta tuy nhiên không muốn sống cùng lão quỷ nghèo đó nữa, nhưng sẽ không theo ngươI đâu!"

"Vì sao?" Triệu Bán tiên hỏi.

Trầm thị ngồi bật dậy, lạnh mặt đáp: "Lão quỷ nghèo tuy cùng thật, nhưng biết yêu thương người, ngươi làm được không? Bản thân lão có thể ăn cực ăn khổ, để đồ ngon thức bổ lại cho ta, ngươi làm được không? Lão khuynh gia bại sản để trị bịnh cho người đàn bà của mình, ngươi có làm được không?"

Triệu Bán tiên há hốc mồm nhìn Trầm thị, bị mấy lời nói của ả làm cho cứng họng.

Trầm thị khinh bỉ nhìn Triệu Bán tiên, "Ngươi cho dù có cơ hội coi bói sờ xương, để rồi lợi dụng con dâu nhà người ta, khinh bạc con gái nhà lành, nhưng... hừ! Ngươi lại đối với nữ nhân của chính ngươi chẳng ra gì cả, ngay cả một đồng một cắc cũng không cho. Hai nữ nhân trước đây của người chẳng phải vì thói bủn xỉn đó mà bỏ trốn hay sao? Ngươi còn hy vọng ta trở thành kẻ thứ 3 y như vậy? Đừng có mơ!"

Triệu Bán tiên bị lời nói đốp chát của ả làm cho mặt hết đỏ lại trắng, không khỏi thẹn quá hóa giận, cười lạnh nói: "Như vậy thì xem ra những cái gì ta làm cho nàng đều uổng công cả?"

"Vì ta?" Trầm thị cũng hừ lạnh đáp lại, "Ngươi tưởng ta không biết tâm tư của ngươi hay sao? Ngươi say mê ta, biết ta không hải lòng lão bất tử không có tiền cũng chẳng có tài, liền cố ý bói cho lão năm nay có kiếp nạn, sau đó dùng pháp thuật gêết lão, vừa chứng minh ngươi đoán hay, vừa làm hài lòng ta." Trầm thị lại phun ra một ngụm nước bọt: "Phì...! Ngươi tán tận lương tâm lại còn muốn ta lên giường với ngươi hay sao?"

Triệu Bán tiên quỳ bứơc vài nấc tới sát cạnh Trầm thị: "Tiểu mỹ nhân, nếu như nàng biết hết lòng ta rồi, sao lại còn không theo ta?" Hắn đưa tay ra định vuốt má Trầm thị.

Trầm thị ngồi dậy dựa sát tượng, kinh tởm kêu lên: "Ngươi mà còn làm vậy ta kêu lên bây giờ!"

Triệu Bán tiên hơi ngẩn người, cũng quỳ hẳn lêngiường, lạnh giọng nói: "Nàng đừng có quên ta nếu như có thể làm phép giết chết lão già đó, thì vẫn có thể giết nàng! Nàng biết nhiều chuyện như vậy, nếu như không chịu lấy ta, nàng tưởng ta sẽ tha cho nàng sống hay sao?"

Trầm thị chợt rùn mình, chộp gối che trước ngực: "Ngươi.... ngươi muốn làm cái gì?"

"Muốn nàng làm người đàn bà của ta! Hắc hắc, người không gả cho ta ta không ép, nhưng sau này mỗi khi ta đến, nàng phải ngoan ngoãn nghe lời ta, chiều chuộng ta!" Triệu Bán tiên nheo con mắt còn lại nhìn gương mặt và chiếc cổ trắng mịn của Trầm thị, giống như hoàn toàn biến ả thành một con dê non bị lột sạch da lông, không khỏi không nuốt nước bọt khan thèm muốn.

Trầm thị chợt uốn con người nhào về phía méo giường, muốn mở màn ra bỏ chạy.

Tay trái của Triệu Bán tiên chợt chụp lấy cánh tay của Trầm thị kéo mạnh, khiến ả ngã lăn quay ra giường, rồi há miệng ra định kêu. Không ngờ mấy cái bạt tay của Triệu Bán tiên phóng đến, khiến Trầm thị mặt mày nổ đom đóm, đầu óc quay cuồng.

Triệu Bán tiên chộp lấy vạt áo trước ngực của Trầm thị giật mạnh, một tiếng roẹt vang lên, lộ ra nửa bầu ngực trắng như tuyết của ả.

Trầm thị kêu thét một tiếng chói lói, nhúc nhích lếch về phía cuối giường, kinh khủng nhìn Triệu Bán Tiên.

Triệu bán tiên cũng không cần gấp, cười nham nhở từ từ đưa tay đến trước gò ngực của Trầm thị.

Đột nhiên, một đạo bạch quang lóe lên chặt đứt bàn tay vừa thò ra đó của Triệu Bán tiên. Triệu Bán tiên kêu thảm ngã vật ra giường, cánh tay phún ra một vòi máu. Triệu bán tiên kêu thảm lăn lộn trên giường, sự đau đớn tột cùng khiến hắn gần như ngất đi.

Bốn người chợt bước vào, đó chính là Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi, Hồ Gian và Mễ Lý chánh. Sau đó, một nhóm người khác từ bên ngoài tiến vào, chính là hộ vệ Nam Cung Hùng của Dương Thu Trì và các bộ khoái, họ còn áp giải theo phu nhân nguyên phối Phạm thị của Lỗ Học Nho.

Thanh đoản kíêm vừa rồi dĩ nhiên là do Tống Vân Nhi phóng ra.

Đột nhiên thấy có nhiều người tiến vào như thế, Trầm thị còn cho đó là thổ phỉ, sợ hãi kêu lên kinh hãi. Chờ đến khi nhìn rõ đó là Dương Thu Trì cùng mọi người mới ổn định tâm thần, thút thít bật khóc.

Triệu Bán tiên đã đau đến chết đi sống lại, không ngừng lăn lộn trên giường. Bọn bộ khoái cùng xông lên kéo cổ hắn xuống.

Triệu Bán tiến bị chém đứt tay, không thể dùng xích sắt trói lại được, hơn nữa nếu như để máu chảy hết không kịp cứu, nhất định sẽ bị chết.

Bọn bộ khoái cuối cùng vẫn phát dương tinh thần của chủ nghĩa nhân đào, móc thuốc kim sang ra băng bó cho Triệu bán tiên rồi mới trói hắn lại.

Những lời nói chuyện giữa Triệu Bán tiên và Trầm thị vừa rồi đều được Hồ Giang và những người khác nghe hết, do đó Hồ Giang khen: "Dương công tử, công tử đoán đúng rồi, chính là Triệu Bán tiên này giết Lỗ Học nho. Xem ra chúng ta thực hiện cú hồi mà thương này đúng rồi."

Tống Vân Nhi vừa thu hồi đoản kiếm vừa cười nói: "Đoán cái gì, ca ca của ta đã tra rõ đây là tên cái gì mà bán tiên này làm trò quỷ giết Lỗ Học nho, cái này gọi là dẫn xà xuất động, dục cầm cố túng ấy mà!"

Thì ra, Dương Thu Trì nhờ Mễ lý chánh đưa bọn họ ra khỏi thôn, sau khi đi một đoạn Lý chánh định quay về, thì bị Dương Thu Trì kéo lại, nói bọn họ cần phải chờ đến trời tối còn phải quay lại thôn. Mễ lý chánh và Hồ Giang hỏi bọn họ vì sau còn phải quay trở lại, nhưng Dương Thu Trì chỉ mỉm cười không trả lời.

Chọn một nơi kín đáo chờ đến trời tối, Dương Thu Trì mới cho họ biết, hung thủ chân chính chính là Triệu Bán tiên, đêm nay y sẽ đến nhà Lỗ học Nho tìm Trầm thị, bọn họ đến bắt ngay tại trận là được.

Mọi người bán tín bán nghi, lén lén lút lút trở về Bắc Tiếu thôn, vòng qua sau vườn của Lỗ Học nho phục sẳn. Chẳng mấy chốc sau, quả nhiên họ thấy Triệu Bán tiên lấp ló lẻn đến, gọi mở cửa tiến vào trong.

Tống Vân Nhi dùng đoản kiếm khoét một lỗ nhỏ rồi lách mở được cửa cho Dương Thu Trì, Hồ Giang, Mễ Lý chánh lén tiền vào phòng ngoài, những người còn lại chờ ở ngoài.

Hồ Giang cùng mọi người nghe hết lời đối thoại của hai người, sau đó phát hiện Triệu Bán tiên chuẩn bị cưỡng hiếp Trầm thị, Tống Vân Nhi mới nhịn không được xuất thủ chém đứt cánh tay của Triệu bán tiên.

Triệu Bán tiên đã thừa nhận là đã ra tay giết chết Lỗ Học Nho, tội phạm tự nhận có tội, án mạng này kể như hoàn tất. Nhưng Hồ Giang và mọi người vẫn còn chưa hiểu tại sao, hỏi Dương Thu Trì: "Dương công tử, công tử sao lại biết Triệu Bán tiên mới là chân hung, hắn dùng pháp thuật gì giết chết Lỗ Học nho?"

Tống Vân Nhi cũng rất hiếu kỳ, hy vọng Dương Thu Trì có thể vạch ra điều bí ẩn này.
 
Chương 145: Vạch màn bí mật


Dương Thu Trì nói: "Ta nghe nguyên phối Phạm thị của Lỗ Học nho nói phương thuốc dùng mật ong ngâm hoa trúc đào để trị bệnh lỡ miệng là do Triệu bán tiên cấp cho. Ta còn nghe Mễ lý chánh nói tiểu thiếp Trầm thị có dẫn Lỗ học nho đi tìm Triệu Bán tiên để xem mệnh, còn Triệu Bán tiên lại đoán rất đúng, đúng ở chỗ năm nay Lỗ học nho sẽ gặp kiếp nạn, ngay cả Tiệu Bán tiên hắn cũng không thể giải được. Ngoài ra Triệu Bán tiên còn đem chuyện này rêu rao khắp nơi, dường như sợ người ta không biết là không được vậy. Ta liền hoài nghi trong chuyện này nhất định có mắc mứu gì đây."

"Trầm thị chẳng có cảm tình gì với Lỗ học nho, lão chết rồi ả chỉ khóc dối. Ả mới ba chục tuổi đầu, Lỗ học nho lại không tiền không địa vị, đương nhiên ả chẳng cam tâm. Đến lúc đến chỗ Triệu Bán tiên coi bệnh ta mới biết ả Trầm thị này ba lần năm lượt đưa Lỗ Học Nho đi đến nhà hắn xem và trị bệnh mà vẫn không bớt, tuy vậy cứ đến xem hoài, trong chuyện này tất có trò gì đây."

"Lúc coi bói, ta nhận ra ánh mắt của Triệu Bán tiên nhìn Trầm thị rất ái muội, còn Trầm thị thì đẩy đẩy đưa đưa, không hề cự tuyệt cũng chẳng tiếp nhận, dường như là đang bỡn cợt với y, rõ ràng là trong lúc lòng trống vắng đi tìm thú vui trong chốc lát."

"Còn Triệu Bán tiên thì dường như cho rằng Trầm thị thật tâm để ý đến hắn. Hắn cũng biết Trầm thị không an tâm thủ tiết với Lỗ Học nho, nhưng không tự nguyện nhận tiếng cười chê là phụ rẫy Lỗ học nho lúc khốn cùng, đành sống dở chết dở như vậy. Và thế là, Triệu Bán tiên quyết định dùng việc giết chết Lỗ Học nho để làm vừa lòng Trầm thị. Có như vậy, một mặt vừa làm cho Trầm thị vui lòng vì thoát cục nợ, mặt khác lại chứng minh bản thân xem bói rất chuẩn xác. Đây là thế một viên đá ném hai chim."

"Thế là ta đoán Triệu Bán tiên sau khi biết Lỗ học nho chết rồi, nhất định ngay trong đêm sẽ đi tìm Trầm thị để lấy công cầu lợi, dù tay của y đã bị thương, nhưng y vẫn nhất định nhân cơ hội lửa còn nóng đem nung sắt để tiếp cận Trầm thị. Do đó, chúng ta ôm cây đợi thỏ, nhất định sẽ có thu hoạch. Không ngờ ta đoán đúng, nếu không thì chúng ta mất công phí sức suốt cả đêm rồi."

Hồ Giang và mọi người đến lúc này mới rõ tên Triệu Bán tiên này đã để lộ nhiều chỗ hở đến như vậy mà họ chẳng phát hiện được gì, trong lòng không khỏi kính nễ và bộ phục Dương Thu Trì hơn.

Tống Vân Nhi nghĩ đến một chuyện, hỏi: "Ca, tên Triệu Bán tiên này tự xưng là dùng pháp thuật giết chết Lỗ học nho, hắn làm sao mà giết được vậy?"

Dương Thu Trì nghe thế, sắc mặt hơi biến, bất an nói: "Cái đó ta cũng không biết - đúng a, tên Triệu Bán Tiên này có phép thuật, có thể dùng để giết Lỗ Học nho, y có khi nào dùng phép thuật chạy trốn không?"

Hồ Giang cả kinh, vội hỏi: "Vậy làm sao bây giờ?"

Tống Vân Nhi đáp: "Dùng máu chó mực thì y sẽ không còn ẩn hình được đâu."

Cô nhóc này quả là biết nhiều! Nàng còn nói tiếp: "Chúng ta hiện giờ đi tìm người trong thôn mua con chó về cắt cổ lấy máu tưới lên người y, chỉ có điều chó vừa thấy người đã sủa loạn, thật phiền!"

Mễ lý chánh khóac tay liên hồi: "Như vậy không được, người trong thôn coi chó là bạn coi nhà canh vườn, chưa bao giờ giết chó ăn thịt cả, sẽ không ai đồng ý bán chó cho chúng ta giết đâu."

Tống Vân Nhi gãy gãy đầu, không biết phải làm sao cả.

Dương Thu Trì trầm ngâm nói: "Ta nghe nói người bị xuyên xương tì bà (xương quai xanh) rồi, thì cho dù có pháp thuật lợi hại đến đâu cũng không sử dụng được. Hay là chúng ta lấy đao xuyên hai lổ trên xương tì bà của hắn, chia ra dùng xích sắt xỏ qua cột lại.

Hồ Giang gật đầu tán đồng, lớn tiếng ra lệnh: "Xỏ xương tỳ bà rồi trói hắn lại cho ta!"

Mấy bộ khoái dạ vang đáp ứng, rút đao ra định động thủ.

Triệu bán tiên vốn đang đau đến chết lên chết xuống, vừa nghe Hồ Giang nói thế liền sợ đến hồn bay ra khỏi chín tầng trời, vội vã kêu gào liên tục: "Đại gia tha mạng, tôi không biết pháp thuật, là tôi gạt người ta thôi, cầu xin ngài đừng xuyên xương tỳ bà của tôi."

Mặt Dương Thu Trì bạnh ra: "Ngươi nói dối! Rất nhiều người thấy ngươi biết pháp thuật, hơn nữa lại còn rất cao minh, cái gì là kiếm chém quỷe, cái gì là dầu nấu quỷ, lợi hại quá đi chứ," hắn quay sang hỏi Mễ lý chánh đang đứng sau lưng, Lý chánh đại nhân, ta nói có đúng không?"

Lý chánh theo bản năng gật đầu, nhưng rồi nhìn lại cánh tay của Triệu Bán tiên bị dầu sôi làm bỏng, lại bẻn lẻn lắc đầu. Lão không biết rốt cuộc pháp thuật của Triệu Bán Tiên có phải là cao minh hay không.

Hai cánh tay của Triệu bán tiên hiện giờ đau khiến mồ hôi lạnh, giờ không thể để xương tỳ bà bị xuyên thủng nữa, vôi vã kêu gào: "Đại nhân tha mạng a! Tôi chỉ làm trò gạt người thôi, không phải là pháp thuật gì cả!"

Nghe đến đây, Mễ lý chánh và những người khác đều cả kinh, duy chỉ có Dương Thu Trì không hề cảm thấy bất ngờ, cười cười hỏi: "Bán tiên bất tất khiêm nhường nữa, rất nhiều người tận mắt chứng kiến như vậy, sao có thể gạt người ta được? Cha ta cứ xuyên xương tỳ bà đi cho an tâm."

Triệu Bán tiên bị dây thừng trói không thể nào chống trả được, nhưng chẳng hiểu bằng cách nào mà vụt một cái ngồi ngay được dậy, kêu to: "Đại nhân, đại nhân, xin tha cho tôi. Tôi thiệt là gạt người đó mà."

Mễ lý chánh kỳ quái hỏi: "Ngươi khăng khăng nói là gạt người, vậy hãy nói rõ coi gạt làm sao?"

Triệu Bán tiên lúc này nào dám ẩn man, đáp: "Cái gọi là dầu nấu quỷ chỉ là trò lừa, là tôi để cho Tôn lão mụ tử bỏ vào trong nồi một lớp dấm, trên lớp dấm đó mới đổ một lớp dầu. Sau khi đốt lửa, dấm ở phía dưới sôi lên rất mau, nhìn vào rất giống như dầu đã sôi, kỳ thật chỉ mới hơi âm ấm, ai cũng có thể thò tay vào." Nói đến đây mặt mày y đỏ au, cũng không biết là vì đau hay là vì thẹn.

Mễ lý chánh đột nhiên hiểu ra, phẫn nộ nhìn Triệu Bán tiên, cảm thấy mình già như vậy mà vẫn bị lừa, thật là căm phẫn quá đi đó mà. Nhưng ngay lập tức, y hiếu kỳ hỏi: "Không đúng a, ta trước đây thấy người bỏ cục xương có quỷ hồn vào trong nồi dầu nấu, con tiểu quỷ đó còn kêu thảm lăn lộn lung tung, cái đó là vì sao?"

"Cái đó, cái đó là tôi đổ vào trong tủy của khúc xương một chút thủy ngân, chờ khi dầu sôi thật sự, bỏ cục xương này vào sẽ phát ra tiếng chít chít giống như quỷ đang kêu gào giãy giụa vậy."

"Giỏi cho thằng chột nhà ngươi, dám lừa ta đó hả!" Mễ lý chánh tức khí không chịu được, tát một cái thật mạnh, khóe miệng Triệu bán tiên lập tức lưu huyết nhưng không dám rên rĩ tiếng nào.

Hồ Giang nghe mà cảm thấy rất tức cười, nhưng cũng rất kỳ quái, hỏi: "Sao lần này ngươi lại bị dấm sôi làm nấu chính vậy?"

Triệu Bán tiên ráng nhịn cơn đau, đáp: "Tôi, tôi cũng không biết tại làm sao nữa. Khi các đại gia đi rồi tôi có hỏi Tôn lão mụ tử, bà ta cũng không biết."

Tống Vân Nhi cười hi hi nói: "Chuyện này ta biết rõ nhất!" Nói rồi quay sang liếc Dương Thu Trì cười, xong quay lại nhìn Triệu Bán tiên hỏi: "Ngươi không biết à? Đó là vì đấy là một nồi dầu chân chính, hi hi, đó chính là ca ca của ta bảo ta đi đánh tráo nồi dầu của ngươi."

Mễ lý chánh kỳ quái hỏi: "Đổi? Đổi làm sao?"

"Ta chạy vào trong giúp đỡ nhưng Tôn lão mụ tử không cho, nhưng ta vẫn thừa lúc bà ta ra ngoài sắp xếp, đem nồi dầu đó đổ đi, sau đó lấy dầu trong bếp đổ trả lại. hi hi..."

Triệu Bán tiên lúc này mới biết cả hai bàn tay của mình đều bị hủy về tay con tiểu nha đầu này! Mễ lý chánh lúc này mới biết nguyên nhân vì sao pháp thuật của Triệu bán tiên không linh, thì ra là dấm và dầu trong nồi bị cô nhóc này lén đổi thành dầu tinh (*)!

Hồ Giang càng kỳ quái, hỏi Dương Thu Trì: "Dương công tử, công tử sao lại biết hắn đang làm trò quỷ, và vì sao biết trong dầu có vấn đề?"

Dương Thu Trì đáp: "Ta trước giờ chẳng tin vào trò bói toán, đa phần là lừa người, đương nhiên rất có khả năng là có phép thuật, ví dụ như vị Triệu bán này đây!" Nói xong quay sang nhìn đầu vai của Triệu Bán tiên như đang nghiên cứu xương tỳ bà nên xuyên qua làm sao cho gọn, khiến cho Triệu Bán tiên sợ rúm ró người.

Dương Thu Trì nói tiếp: "Ta nghe Mễ lý chánh nói đã từng nhiều lần tận mắt chứng kiến Triệu Bán tiên thi pháp nấu dầu giết quỷ, ta liền phán đoán Triệu Bán tiên này đang làm trò. Nhưng mà phương pháp làm trò này có rất nhiều, ta cũng không biết Triệu bán tiên dùng loại nào. Nhưng vạn biến bất ly kỳ tông, du cho thay đổi đến muôn lần thì bản chất vẫn không thay đổi, đa phần là dùng dầu làm trò, do đó ta bảo Vân Nhi tìm cơ hội đánh tráo nồi dầu đó đi."

Dương Thu Trì nhìn Triệu Bán Tiên cười cười, tiếp, "Ta cố ý đánh lạc hướng sự chú ý của vị bán tiên này, dây dưa thời gian với y chính là chờ cho nồi dầu sôi lên chân chánh, dù sao thì vị Triệu Bán tiên này cũng có pháp thuật, nếu như có thể đưa tay vào trong đó, thì dù dầu có sôi hay không sôi cũng chẳng có gì khác biệt đâu đó hả?"

Mọi người đều bật cười lớn, Tống Vân Nhi hì hì nói: "Không ngờ vị Triệu bán tiên này hiệu xưng là bán tiên mà chẳng có chút tiên thuật nào, bản thân lại bị dầu biến thành chân heo luột!" Mọi người lại tiếp tục cười.

Mễ lý chánh lại hỏi Triệu bán tiên: "Vậy cái đào mộc kiếm chém tiểu quỷ, tiểu quỷ máu chảy đầy mình hiện lên trên giấy đó lừa gạt thế nào?"

Triệu bán tiên vừa thẹn vừa đau, cố gắng cất giọng trầm thấp: "Trước hết tôi dùng bút chấm nước muối vẻ hình quỷ lên trên giấy, sau đó phơi khô, hình quỷ này biến mất. Chén thánh thủy trên pháp đoàn chính là nước nghệ do tôi chuẩn bị từ trước. Nước nghệ phun lên tấm giấy đó, nước muối sẽ biến thành màu đỏ, do đó sẽ hiện lên hình quỷ máu me chảy khắp người." Dương Thu Trì nghe thế thở dài, về mặt nào đó tên Triệu Bán tiên này còn biết chút xíu về phản ứng hóa học nữa!

Chú thích:

(*) Thật ra có rất nhiều trò ảo thuật liên quan đến giấm, ví dụ như biến trứng gà thành hình vuông (ngâm trứng gà vào giấm 7 ngày, nhét nó vào 1 cái hộp hình vuông, bỏ vào nước lạnh trứng sẽ cứng lại). Trò thò tay vào dầu sôi có cách làm dễ hơn là bỏ vào đáy nồi một lớp hàn the, chỉ hơi nóng là hàn the sẽ cuồn cuộn lên y như dầu sôi vậy.
 
Chương 146: Cùng ngủ chung phòng


Nghi vấn này xem ra chỉ có Triệu Bán Tiên mới có thể nói cho rõ ràng. Vì thế, Dương Thu Trì bảo y: "Ngươi nếu như thành thật khai báo, ta còn có thể bẩm báo phủ doãn đại nhân cấp cho ngươi cái chết toàn thây. Còn không thì ngươi cứ chờ bị lăng trì rồi đốt xác ra tro đi."

Triệu Bán tiên kinh khủng vô cùng vội nói: "Tôi khai, cái gì tôi cũng khai hết. Vợ chính của Lỗ Lão phu tử là Phạm thị có lần đưa lão đến tìm tôi trị bệnh loét miệng, tôi có cấp cho lão một bài thuốc. Sau đó răng của Lỗ học nho bị đau, tiểu thiếp Trầm thị của lão đưa lão đến tìm tôi. Tôi, tôi..."

Triệu bán tiên quay đầu lại nhìn Trầm thị vẫn đang ngồi khóc ở trên giường, cúi đầu nói tiếp: "Thế là tôi si mệ vẻ đẹp của Trầm thị, muốn hại chết Lỗ học nho, liền bày cho lão một bài thuốc, bảo lão dùng nước uống cùng một lúc hơn mười lá trúc đào."

"Lão nói lá trúc đào có độc, lo là sẽ bị trúng độc. Tôi liền trước mặt lão dùng pháp thuật dầu nấu quỷ, đương nhiên là trò lừa gạt, nói độc quỷ trong những lá trúc đào này đã bị tôi dùng dầu nấu chín rồi, và thế là lão tin."

"Tôi lo là nếu như lão nuốt ngay số lá này chết đi thì tôi sẽ bị hoài nghi, bèn nói hoang rằng nhất định phải chờ đến khi thi xong kỳ ân khoa mới được uống vào. Trong lúc khảo thí, có thể mượn hồng phúc thọ thần của hoàng thượng vốn là thứ có thể trấn nhiếp ác ma trong lá trúc đào, mới có thể trị lành bệnh đau răng của lão và không bị trúng độc. Tôi căn dặn trong lúc thi phải nhai nuốt hơn mười lá trúc đào, như vậy bệnh đau răng mới khỏi."

Hiện giờ đã rõ, thì ra Triệu bán tiên lợi dụng việc giả thần giả quỷ gạt người, lường gạt Lỗ học nho, để lão nuốt vào hơn mười lá trúc đào mà chết.

Nhưng vị Lỗ học nho này vẫn còn lo ngại sẽ bị trúng độc, do đó lão đã chờ đến ngày thi cuối cùng mới dùng. Một mặt là bệnh đau răng ảnh hưởng đến kỳ thi rất lớn, mặt khác là cuối cùng lão cũng tin lời Triệu bán tiên, lo là để lỡ dịp may nương nhờ uy lực hồng phúc của hoàng thượng trong kỳ ân khoa này để chửa khỏi bệnh. Bệnh đau răng không thể trị tiệt ở thời bấy giờ, nên vào ngày cuối cùng trước khi ra khỏi cống viện, lão đã nhai nát hơn mười lá trúc đào dùng nước trắng uống vào. Dương Thu Trì đã tìm thấy trên bàn trong phòng thi của lão nửa chén nước trắng, có thể chứng minh được nhận định này.

Do độc của trúc đào tiềm phục trong cơ thể tới hai mươi bốn giờ, do đó Lỗ học nho dùng xong tiếp tục thi cho đến khi cơ tim bị sưng cấp tính, đột tử.

Nếu như hoán thành người khác cho lão phương thuốc này, Lỗ học nho sẽ không tin. Nhưng người trong thôn đều vô cùng tin tưởng đối với pháp thuật của Triệu Bán tiên, và đã từng chứng kiến y dùng thuốc trị hết bệnh cho nhiều người, nên Lỗ học nho cuối cùng mới tin. Còn Triệu bán tiên lợi dụng thứ tín nhiệm này, dùng lá trúc đào làm độc giết chết Lỗ học nho.

Sau khi tra rõ mọi nguyên ủy của án mạng, bắt được chân hung, Hồ Giang vô cùng cao hứng. Nhưng y không biết đối đãi làm sao với Trầm thị và Phạm thị, nên hỏi ý Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì nói: "Vợ chính Phạm thị tuy dùng mật ong có tẩm hoa trúc đào có độc để trị bệnh răng miệng cho Lỗ học nho, nhưng do liều lượng dùng rất ít, lại là dùng dưới dạng xức, nên suốt cả ba tháng mà không gây trúng độc cho Lỗ học nho. Do đó hành vi của Phạm thị không thể coi là nguyên nhân gây hiện tượng đột tử cho Lỗ học nho, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự... à không, trách nhiệm giết người của bà ta."

"Còn về tiểu thiếp Trầm thị, chúng ta vừa rồi đã nghe lén xong, thật ra ả không hề chỉ bảo cho Triệu Bán tiên giết người. Tên Triệu Bán tiên này trước hết dùng biện pháp hạ độc giết chết Lỗ học nho thuần túy để làm vui lòng Trầm thị, muốn mượn dịp để chứng minh bản thân coi tướng chính xác. Do đó, tuy Trầm thị trêu đùa Triệu Bán tiên, gây cho y ý nghĩ giết người, nhưng quy ra tận gốc thì Trầm thị không hề có quan hệ trực tiếp tới án mạnh, do đó không thể trúy cứu trách nhiệm của Trầm thị."

Hồ Giang nghe Dương Thu Trì phân tích, thập phần tán đồng, cho người đi thả Phạm thị.

Phạm thị vừa rồi chứng kiến hết mọi chuyện, biết mình lần này quả là tìm cái sống trong cái chết. Sau khi được mở xích, Phạm thị khóc lóc quỳ lạy ta Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi đứng kế đó giúp Dương Thu Trì đỡ bà ta lên.

Tiểu thiếp Trầm thị cũng biết, nếu như vừa rồi mọi người không đến kịp, nói không chừng ả còn bị người ta cưỡng gian rồi giết chết diệt khẩu. Không những như thế, Dương Thu Trì còn giúp ả tẩy sạch hiềm nghị giết người, có thể coi là ân nhân cứu mạng của ả, nên khóc lóc bước xuống giường quỳ dập đầu lạy tạ hắn.

Mệt mỏi cả hai ngày hai đêm, liên tục tác chiến, cuối cùng phá được án lão tú tài chết trong trường thi. Tuy liên tục tác chiến, mọi người đều rất cực khổ, nhưng cuối cùng cũng có thu hoạch, khiến họ cảm thấy cái khổ này rất đáng.

Vấn đề tiếp theo chính là ngủ ở đâu. Hiện giờ dù sao cũng là canh hai, Mễ lý chánh đề xuất mọi người ngụ ở dịch trạm tại Bắt Tiếu thôn một đêm.

Mễ lý chánh giới thiệu, Bắc Tiếu thôn này trong chiến dịch Tĩnh nạn mấy năm trước là một cứ điểm quân sự, chính là yếu đạo yết hầu nối với cửa bắc kinh thành, do đó có rất nhiều công trình phòng ngự, hơn nữa còn có dịch sở. Nhưng chiến tranh đã kết thúc mấy này, dịch sở hiện giờ đã lâu không có người ở và sửa sang gì.

Dương Thu Trì chẳng để tâm, nhưng Hồ Giang hiềm nơi này quá giản lậu, muốn áp giải hung thủ Triệu Bán tiên trở về Trừ châu ngay trong đêm. Nhưng hiện giờ cửa thành Trừ châu nhất định đã đóng kín không thể tiến thành, hơn nữa cực khổ hai ngày hai đêm, dù sao cũng không thể để Dương Thu Trì và mọi người chịu cái khổ đi suốt đêm nữa.

Và thế là, họ chỉ có thể miễn cưỡng ngủ tạm tại Bắc Tiếu thôn một đêm.

Đến dịch sở, Hồ Giang càng kêu khổ không ngớt. Do nhiều năm không chinh chiến, ý nghĩa quân sự của Bắc Tiếu thôn dường như đã bị quên sạch, cho nên dù dịch sở vẫn còn, nhưng đã lâu năm không quét dọn tu bổ, so với nha môn của Quảng Đức huyện còn thê thảm hơn.

Dịch sở này có tổng cộng năm gian phòng, nhưng trong đó có hai phòng đã sập, không thể nào ở được. Cửa một phòng hai gian lớn không biết đã bị ai lấy đi làm củi rồi, chỉ còn hai phòng nhỏ tạm coi là hoàn chỉnh.

Hiện giờ là mùa đông, trời về đêm thật lạnh, Mễ lý chánh vốn đề nghị để cho Dương Thu Trì cùng mọi người phân táng vào trong các nhà dân ngủ nhờ. Nhưng Hồ Giang và Dương Thu Trì thấy trời đã tối, phần lớn thôn dân đều đi ngủ cả rồi, làm phiền họ thật không hay, nên quyết định ở tạm trong dịch sở một đêm.

Mễ lý chánh phân phó bọn tráng đi đi lấy mền gối sạch đến, treo vài cái đèn trước dịch sở, dùng giấy dầu che kín các cửa lại để che gió lạnh, đồng thời đốt một lò sưởi để trong phòng, khiến chúng ấm áp hẳn lên.

Bộ khoái và hộ vệ của Dương Thu Trì phần nhiều là thường xuyên hành tẩu giang hồ, phong sơn lộ hiểm đều coi rất thường, do đó ở trong phòng lớn không có cửa, Triệu Bán tiên đương nhiên bị giam trong phòng này.

Hồ Giang chính là thông phán của Ứng thiên phủ, hàm lục phẩm, là đại lão gia chính tông. Chức vị của y tương đương với phó giám đốc cấp sở, do đó đáng phải ở một mình một phòng.

Nhưng Hồ Giang cảm kích Dương Thu Trì trợ giúp phá án, liền đề nghị để Dương Thu Trì ngụ ở gian phòng đó. Dương Thu Trì thầm nghĩ, người ta chính là quan gia, hơn nữa tuổi tác lớn hơn mình nhiều, để cho y nhường quả là không hay, nên kiên quyết từ chối.

Căn phòng ấy chỉ có cái giường nhỏ, Hồ Giang liền đề nghị kê thêm một giường nữa để Dương Thu Trì ngủ chung. Dương Thu Trì hiềm phiền phức, dù sao ngủ có một đêm thì tùy tiện nằm chỗ nào cũng chẳng sao.

Hồ Giang cũng không ép, gãy gãy đầu áy náy nói: "Kỳ thật ta ngủ ngày dữ lắm, tiếng ngáy như tiếng sấm vang, do đó ta thường ngủ một mình, ngay cả nương tử của ta cũng không có cách nào ngủ chung với ta được. Công tử không muốn ngủ chung phòng với ta cũng đúng, nếu không chỉ sợ cậu chẳng thể nào chợp mắt được đâu, ha ha ha."

Dương Thu Trì ngủ không sâu, hơi động một cái là thức, điều này có liên quan đến sinh hoạt bất thường và thức ngủ chẳng ra quy luật nào trong nghề pháp y thời hiện đại, nên nghe được lời này liền không thể nào ngủ chung với Hồ Giang được.

Còn lại một gian phòng, Dương Thu Trì để Tống Vân Nhi ngủ, còn bản thân thì ra ngủ cùng các hộ vệ.

Chỉ có điều, về mặt tâm lý, Dương Thu Trì không muốn ngủ chung với những người này, bỡi vì mười lăm hộ vệ, các bộ khoái cộng thêm Triệu bán tiên đã hơn hai mươi người. Mỗi phòng đều đã có hơn mười người ngủ, trong đó còn đặt lò sưởi, nhìn qua là đủ thấy người người xếp lớp như cá mòi, tiếng ngáy và nghiến răng cựa quậy đánh đập loạn cả lên, như vậy đừng nói chi ngủ, ngay cả chịu được mùi chân và mùi hôi miệng cũng giỏi lắm rồi.

Nghe Dương Thu Trì nói muốn đi ngủ chung với bọn hộ vệ, Tống Vân Nhi không vui, kéo Dương Thu Trì lại hỏi: "Ca, sao huynh không chịu ngủ chung với muội? Muội là muội muội của ca mà!"

Nghe Dương Thu Trì nói muốn đi ngủ chung với bọn hộ vệ, Tống Vân Nhi không vui, kéo Dương Thu Trì lại hỏi: "Ca, sao huynh không chịu ngủ chung với muội? Muội là muội muội của ca mà!"

Dương Thu Trì nghe thế giật phắt mình, thầm nghĩ cái chức muội muội này của cô đâu có thật đâu, nam nữ thụ thụ bất thân, nếu như ngủ chung một phòng rồi truyền tới tai người khác thì ai còn thèm cưới cô nữa? Nhưng mà cô nương người ta nói như vậy rồi, dù sao cũng không thể làm mất mặt người ta, người ta thương tâm mà hắn cũng ... tiếc lắm a.

Nếu như ở xã hội hiện đại, một "muội muội" đẹp như vậy yêu cầu Dương Thu Trì cùng ngủ một phòng, hắn nhất định sẽ mừng rỡ cười rớt quai hàm. Nhưng hiện giờ là đang ở Minh triều, lễ giáo phong kiến được xem là nghiêm khốc nhất, Tống Vân Nhi mới mười lăm tuổi chưa biết gì (hoặc giả vờ chưa biết gì), bản thân gã là một người con trai, à không, đàn ông đến từ thế kỷ hai mươi mốt, không thể làm hại phẩm giá con gái người ta a!

Nếu như hắn quyết tâm cưới Tống Vân Nhi, thì chuyện này không cần phải nói gì nữa, ngủ chung thì ngủ, trở về nhà cứ nạp nàng làm thiếp là xong!

Nhưng mà, cô nàng Tống Vân Nhi này đối với Dương Thu Trì rất khác so với những nữ nhân hiện có của hắn. Ấn tượng đầu tiên mà Tống Vân Nhi gây ra cho hắn rất không tốt, hơn nữa tính cách tiểu thư quá mạnh, lại còn học đòi theo nam nhân, không thùy mị dịu dàng như nước hồ thu lay láng, do đó hắn cảm thấy hai người không hợp lắm. Chỉ có điều, hắn lại thích ở bên cạnh Tống Vân Nhi, giống như một chiến hữu hay đồng chí cùng hợp tác và tin tưởng dành cho nhau những tình cảm trân trọng nhất vậy.

Dương Thu Trì chẳng nghĩ sẽ nạp Tống Vân Nhi làm thiếp, bỡi vì nàng và cha nàng nhất định sẽ không đồng ý (về điểm này thì phán đoán của hắn hoàn toàn sai lầm). Nếu như không muốn cưới người ta, thì làm hại người ta làm gì?

Dương Thu Trì tuy cũng háo sắc như tuyệt đại đa số nam nhân khác, nhưng dù sao cũng kể là kẻ có trách nhiệm và lương tâm. Nên khi nghe Tống Vân Nhi nói vậy, liền cười ha ha đáp: "Vân nhi à, ta ngủ ngáy như sấm rền ấy, sẽ làm muội chẳng chợp mắt được đâu."

"Muội không sợ!" Đôi mắt đen láy của nàng nhìn hắn không chớp.

"Ta còn nghiến răng nữa đó nha...."

"Muội cũng không sợ!" Tống Vân Nhi mỉm cười.

"Ta còn hay nói mớ...."

"Không sợ!" Tống Vân Nhi lè lưỡi.

"Ta mộng du!" Dương Thu Trì chưa chịu thua, chỉ còn biết làm trò khỉ, giả vờ cứng người như cương thi, hai tay đưa ra phía trước, hai chân cứng đờ nhảy cà phịch cà phịch về phía nàng.

Trong thời cổ đại, trung y gọi mộng du là dạ du chứng, mộng chứng, dạ hành chứng... Đối với điều này thì Tống Vân Nhi biết, cười hì hì đánh vào tay Dương Thu Trì: "Ngay cả cương thi muội còn không sợ, còn sợ huynh sao?" Tuy là nói như vậy, nhưng khi nghĩ đến nửa đêm giật mình thức dậy thấy Dương Thu Trì mắt nhắm tịt, tay chân cứng đờ nhảy cà giựt quanh phòng, nàng sợ toát mồ hôi, tiện thể hỏi: "Huynh bị mộng du thiệt?"

Dương Thu Trì cứng cổ gật đầu: "Đương nhiên là thật! Sợ không?"

Tống Vân Nhi xoay tròn tròng mắt: "Nếu huynh bị mộng du thật, muội sẽ điểm huyệt đạo của huynh!"

Dương Thu Trì giật mình, thế này thì bó tay chấm cơm rồi!

Mễ lý cháng và Hồ Giang ở cách đó không xa nghe họ nói chuyện, biết họ đang tranh luận về chỗ ngủ, liền bước lại nói: "Dương công tử, Tống cô nương nếu đã xưng muội gọi huynh với cậu, cùng ngủ một phòng cũng chẳng sao. Nam tử hán đại trượng phu quang minh lỗi lạc, người khác có nói gì thì đã sao. Hơn nữa phòng này tuy có cửa nhưng không đóng kín, không thể khóa, công tử và lệnh muội để nguyên áo quần ngủ trong phòng này thì cũng chẳng khác gì cùng mọi người ngủ mà thôi." Mễ lý chánh tán đồng với ý của Hồ Giang.

Vị Hồ Giang bốn năm chục tuổi đầu, là quan viên lão thành của triều đình, còn Mễ lý chánh có thể là ý kiến đại diện cho quan điểm của bá tánh, nếu như quan phủ và bá tánh đều đồng ý cho huynh muội hắn cùng ngủ chung phòng, như vậy chắc không có vấn đề gì, nên Dương Thu Trì "đành" gật đầu đồng ý.

Tống Vân Nhi cao hứng phi thường, phân phó hộ vệ giúp Dương Thu Trì mang một cái giường vào. Dương Thu Trì cản lại: "Không cần, chỉ ngủ có một đêm thôi, trải tấm lót ra đất là được rồi. Trong phòng có lò sưởi, ấm lắm không sao đâu."

Tống Vân Nhi cũng không miễn cưỡng, giúp Dương Thu Trì trải tấm lót. Dương Thu Trì không cởi quần áo đấp mền nằm ngủ. Tống Vân Nhi cười hi hi nhìn hắn, nhưng bản thân cũng không dám làm gì, để nguyên quần áo đi ngủ.

Thủ lĩnh hộ vệ Nam Cung Hùng của Dương Thu Trì phái người luân phiên canh gác, sau đó chia nhau đi ngủ.

Dương Thu Trì ngủ cùng một phòng với Tống Vân Nhi, tuy là một người ngủ trên giường, một người nằm dưới đất, nhưng tim cứ mãi đập loạn nhịp.

Tống Vân Nhi ngược lại chẳng để ý gì mấy đến điều này, nằm sấp trên giường nói chuyện này chuyện kia với gã.

Nói chuyện một hồi, họ đã nghe từ phòng Hồ Giang cách vách vang lên tiếng ngáy như sấm. Âm thanh đó giống như xe trâu già kéo theo một khúc gỗ lớn đi trên đường đá sỏi, lục cục lốp cốp, lục ngừng lúc dồn dập, rung rinh cả phòng, ầm ì như sấm mưa giông.

Dương Thu Trì cười khổ, cách vách mà còn nghe to như thế, nếu ngủ cùng phòng chắc có mà điên.

Chẳng mấy chốc sau, các phòng khác cũng vang lên tiếng ngáy. Xem ra bọn hộ vệ và bộ khoái cũng chẳng phải hạng vừa, thi nhau ngáy coi người nào to hơn, nhịp nhàng hơn, âm thanh dồn dập và vang dội còn hơn tiếng ếch nhái côn trùng kêu sau cơn mưa đầu hạ.

Tuy tiếng ngáy điếc tai, nhưng sau hai đêm liên tục không ngủ, Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi thật tế rất mệt mỏi, nói chuyện phiếm một hồi rồi ngủ lúc nào không hay.
 
Chương 147: Phục kích


Không biết trải qua bao lâu, trong giấc mộng, Dương Thu Trì thấy tiểu thiếp đầu tiên của gã là Tần Chỉ Tuệ đứng trên đỉnh núi tại Quảng Đức huyện ngoắc tay gọi hắn. Tuy là cách rất xa, nhưng chẳng hiểu sao gã có thể nhìn nụ cười xinh xắn trên môi nàng rất rõ.

Dương Thu Trì vừa định chạy về phía nàng, thì từ phía sau có một nữ nhân chạy lên trước hắn, vượt qua hắn rồi phóng tới Tần Chỉ Tuệ, nhìn bóng lưng thì đó là tiểu thiếp thứ hai - Tống Tình.

Tần Chỉ Tuệ cầm chặt tay Tống Tình, hai người quay lại nhìn Dương Thu Trì mỉm cười ngọt ngào, rồi từ từ bay lên tầng mây.

Dương Thu Trì lớn tiếng gọi: "Chỉ Tuệ! Tình Tình!"

Lúc này hắn chợt cảm thấy thân thể mình chấn động giống như đang lọt vào giữa dòng sông, khiến hắn hoảng hốt phi thân lên ôm chầm lấy sau lưng Tống Tình. Tống Tình định giãy tránh, nhưng Dương Thu Trì ôm chặt nàng vào lòng, thoảng thốt van nài: "Tình Tình, nàng đừng đi, đừng rời xa ta! Tình Tình."

Đột nhiên đầu hắn nhói đau, bị cốc một cái rõ ta, đâu đến nổi Dương Thu Trì kêu lên chói lói giật mình choàng tỉnh, lòng hắn rõ ràng là vẫn còn thân hình mềm mại đượm hương của một người. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, hắn vẫn tưởng là Tống Tình, không kịp nghĩ Tống Tình sao tự nhiên lại xuất hiện ở đây, vội vã ôm chặt nàng bảo: "Tình Tình, đừng rời xa ta!"

Băng....! Đầu lại bị một cốc một cái nữa, Dương Thu Trì ối cha kêu lên, lúc này triệt để tỉnh ngủ, bỏ tay ra, cô gái trong lòng cố vùng ngồi dậy, tức giận quát: "Phát điên hả ngươi!"

Lò sưởi trong phòng đã sắp tàn, chỉ còn lại một ít than phát ra vài tia sáng yếu ớt, Dương Thu Trì lúc này mới nhìn rõ người vừa rồi mình ôm chẳng phải Tống Tình, mà là Tống Vân Nhi.

Dương Thu Trì ngơ ngẩn nhìn Tống Vân Nhi, không biết vì sao nàng lại chạy lại nằm trong lòng mình chứ?

Tống Vân Nhi có chút bẽn lẽn, vội vã giải thích: "Người ta thấy mền của huynh bị tuột ra, bèn đến đắp lại, không ngờ huynh quả thật nói mớ, cái gì mà cứ gọi búp bê bùn liên tục. Huynh gọi tỷ ấy thì cứ gọi đi, ôm người ta làm cái gì?"

Dương Thu Trì cười bối rối, lòng thầm nghĩ cô thân có võ công, đừng nói gì ta trong lúc đang ngủ, cho dù có tỉnh như sáo mà muốn ôm cô, cô không chịu thì dù có mọc thêm hai cánh tay nữa cũng ôm chẳng được. Gã biết nha đầu này đối tốt với mình, nhưng không thể nói phá ra tránh cho cho hai người cùng khó xử.

Dương Thu Trì định lên tiếng, nhưng đột nhiên ngẩn ra, nụ cười trên mặt từ từ biến hẳn, dỏng lỗ tai lên nghe ngóng và cảm thấy kỳ quái vô cùng. Ở bên ngoài, ngoại trừ tiếng ngáy của Hồ Giang và các hộ vệ, bốn phía đều vắng lặng, ngay cả tiếng chó kêu cũng không có.

Không ổn rồi, bọn họ ngụ ở dịch sở nằm ở phía đầu Bắc Tiếu thôn, khi họ đến đây hôm qua, trong thôn chó sủa vang trời, trước lúc họ ngủ chó cũng sủa loạn khắp nơi. Hiện giờ không nghe được tiếng chó sủa nào, vậy là cớ làm sao?

Tống Vân Nhi thấy thần sắc của gã chợt trở nên nghiêm trọng, vừa định lên tiếng hỏi, thì Dương Thu Trì đã đưa ngón tay lên ngăn trước môi của nàng lại, ra hiệu bảo nàng đừng lên tiếng. Tống Vân Nhi đỏ mặt, đánh tay hắn ra, dỏng tai lên nghe nhưng không phát hiện được gì.

Dương Thu Trì lăn mình trở dậy, bước nhanh lại cửa sổ, khe khẽ mở hé ra, đứng lắng nghe một lúc vẫn không có tiếng cho sủa nào, ngược lại còn ẩn ước nghe tiếng phần phật, bèn chong mắt nhìn ra, thấy trong ánh trăng vằng vặc của trời đêm, ở khoảng cách khá xa có một đám đen từ từ di động.

Tống Vân Nhi cũng đến bên cạnh Dương Thu Trì, gã chỉ vào đám đen ở trời xa, hỏi: "Vân nhi, mắt muội tốt, hãy nhìn xem đó là cái gì?"

Tống Vân Nhi ngưng thần quan sát: "Dường như là một bầy chim."

Dương Thu Trì nghe thế sắc mặt liền biến, khẽ hô lên: "Không xong!"

"Lại chuyện gì nữa?" Tống Vân Nhi cả kinh hỏi.

"Rất có khả năng cường địch đang đến đánh!"

"A...!" Tống Vân Nhi kêu lên cả kinh, "Ở đâu?"

"Trong thôn không có tiếng chó sủa nào, rất có thể là bị những địch nhân cho trinh sát tiềm nhập vào trước giết sạch. Việc làm này là để cho đại đội nhân mã tiến vào mà không làm chúng ta cảnh giác. Ở bầu trời phía đó có bầy chimm bay, nhất định là có đại đội nhân mã đi ngang qua gây kinh động. Phương hướng đó chính là quan đạo chúng ta đã đi từ Trừ châu tiến về thôn này!"

"Có khi nào những người từ Trừ châu kết thành đội ngũ đi chung không?"

"Không đâu, hiện giờ đã vào khoảng canh tư, nếu xuất phát trước khi cổng thành Trừ châu đóng, thì đã sớm tới đây rồi, sao lại đến giờ này vẫn chưa tới?"

"Có khi nào quan binh đi tuần tiễu không?"

"Sao muội "ngu đột xuất" (*) thế?" Dương Thu Trì cuối cùng cũng không nhịn được sử dụng một câu hiện đại mắng nàng, "Chiến dịch Tĩnh Nạn đã trải qua lâu năm rồi, lại không phải thời chiến, quan binh đi tuần tiễu làm gì?"

Tống Vân Nhi tuy không hiểu từ "ngu đột xuất" là ý nghĩa cụ thể gì, nhưng biết Dương Thu Trì đang cười nàng, liền nghinh mặt khẽ đấm vào người gã một đấm.

Chỉ có điều Dương Thu Trì hiện giờ không còn tâm tình nào ve vãn tán tỉnh nàng, hạ giọng nói: "Báo cho mọi người biết, lập tức rời khỏi chỗ này."

Tống Vân Nhi cười đáp: "Đồ nhát gan, sợ cái gì? Binh tới thì tướng ngăn..."

"Ngăn không nổi đâu! Địch nhân đến có chuẩn bị, quyết ý thành công, do đó chỉ sợ hai mươi mấy người chúng ta ứng phó không nổi đâu. Không nói đâu xa, muội chỉ cần nhìn đám chim hoảng hốt bay đi kia thì biết, nhất định nhiều hơn nhân số của chúng ta nhiều."

Đúng lúc này cửa phòng mở ra, Nam Cung Hùng lách người tiến vào, nhỏ giọng nói: "Thiếu gia! Không ổn, dường như có địch nhân!"

Tống Vân Nhi cả kinh hỏi: "Ngươi phát hiện được gì?"

"Người phái đi thay gác và những người của phiên gác trước đều không trở về!"

A...! Tống Vân Nhi hô lên cả kinh.

Dương Thu Trì nói: "Nhất định là có cường địch đến đánh! Xem ra là từ phía nam Trừ châu đánh tới. Mau gọi Hồ đại nhân dậy, lên ngựa lập tức triệt thối!"

Nam Cung Hùng xuất thân từ con nhà võ, các cẩm y vệ khác đều được huấn luyện bài bản, nên nghe hiệu lệnh xong không hoảng loạng gì cả lập tức ra ngoài vườn cảnh giới. Những bộ khoái khác cũng rất trấn tĩnh, áp giải Triệu Bán Tiên ra ngoài vườn chuẩn bị lên ngựa.

Sau khi Hồ Giang bị gọi dậy vẫn còn chưa biết chuyện gì, vừa định lên tiếng hỏi thì đã nghe ngoài vườn có tiếng động.

"Người nào đó?" Dường như là hộ vệ của Dương Thu Trì hỏi.

Tiếp theo đó là tiếng đinh đinh đang đang giao nhau, cùng mấy tiếng kêu thảm cùng phát ra.

Một hộ vệ chạy vào báo cáo với Dương Thu Trì: "Thiếu gia, phía ngoài có hai kẻ bịt mặt mai phục, bị chúng ta phát hiện đã xuất thủ tập kích, bị chúng tôi giết chết rồi."

Mọi người đều thở phào, chỉ có thần sắc của Dương Thu Trì càng ngưng trọng: "Không đúng, hai người này rất có thể là quân tiên phong lén đột nhập vào tìm kiếm và quan sát chúng ta trước. Đại đội của địch chớp mắt sẽ đến, mau lui!"

Hồ Giang có khi nào kinh qua tình thế như vầy, sợ đến tái hẳn mặt, cả kinh hỏi: "Dương công tử, cái này, cái này làm sao bây giờ?"

Mặt phía nam đã bị địch quân không chế, chạy về Trừ châu là không thể, hai phía đông tây đều là đồi núi chập chùng, chỉ có thể chạy hướng bắc, do đó Dương Thu Trì ra lệnh lên ngựa men theo đường hướng bắc mà triệt thối.

Đến lúc này các thớt ngựa đã chuẩn bị xong, Dương Thu Trì ra lệnh đưa Hồ Giang lên ngựa, mọi người cũng lên theo.

Nam Cung Hùng và vài hộ vệ đi trước dẫn đường, Tống Vân Nhi đi sát bảo vệ cho Dương Thu Trì, các bộ khoái bảo hộ Hồ Gian và áp giải Triệu Bán tiên, các hộ vệ còn lại đoạn hậu. Mọi người quất ngựa ra roi, hướng bắc mà chạy.

Ngoại trừ hai tên bịt mặt bị giết chết, trên đường không gặp phải tên địch nào, hiển nhiên là địch nhân còn chưa kịp bao vậy thì hành tung đã bị Dương Thu Trì biết được, đồng thời nhanh chóng thoát khỏi vòng nguy hiểm.

Nhưng mà bọn họ nhanh chóng nghe được tiếng vó ngựa vang lên dồn dập ở sau lưng, rõ ràng là đang đuổi theo ráo riết, số lượng hơn cả trăm tên. Vó ngựa dập dồn trong đêm vắng, khiến dân trong thôn nghe mà sợ rúm cả người.

Chạy được mấy chục dặm, tiếng vó ngựa truy binh càng lúc càng gấp, càng lúc càng gần. Tống Vân Nhi vừa chạy vừa nói với Dương Thu Trì: "Ca, huynh đi trước, muội ở lại ngăn bọn chúng."

"Điên khùng!" Dương Thu Trì quát lên, "Một mình muội làm sao ngăn được nhiều tên như vậy chứ?"

"Vậy thì làm thế nào bây giờ? Chạy không mục tiêu như vầy sớm muộn gì rồi cũng bị đuổi kịp! Nếu không thì chúng ta phân tán ra chạy a, muội bảo hộ huynh vào trong núi rừng!"

"Đừng có lo, ta tự có biện pháp!" Dương Thu Trì nói với giọng rất khẳng định.

Hắn đã tự có biện pháp, nhưng vẫn còn chưa biết biện pháp này có hữu dụng hay không, nhưng phải nói ra để ổn định "quân tâm".

Chạy thêm vài dặm nữa, thế núi hai bên càng lúc càng hiểm trở, Dương Thu Trì ra hiệu dừng lại, sau đó quay ngựa quan sát bốn phía.

Hắn hạ lệnh cho hai bộ khoái bảo hộ Hồ Giang và áp giải Triệu Bán tiên tiếp tục đi về phía trước, những người còn lại xuống ngựa.

Nhóm Hồ Giang được bảo đi về trước năm dặm trốn vào rừng chờ bọn họ. Các cẩm y vệ và bộ khoái còn lại chia ra leo lên hai vách núi.

Tống Vân Nhi hỏi: "Ca, chủ ý này được đấy, chúng ta tiềm nhập núi rừng, bọn chúng không tìm được đâu."

"Không phải!" Dương Thu Trì đáp, "Mọi người lên vách nói tra xem có đá lăn gỗ tròn gì không!"

Thì ra sau khi phát hiện có cường địch tập kích, Dương Thu Trì đã nghĩ đến kế sách lui binh. Căn cứ vào lời Mễ lý chánh nói, Bắc Tiếu thôn này chính là yếu đạo yết hầu phía băc Trừ châu trên đường tiến về kinh thành, hai bên địa thế núi hiểm trở. Với địa hình như vậy, thời cổ đại nhất định sẽ bố trí những công trình công kích địch nhân, thậm chí là đá và gỗ để bít đường đi. Chỉ có điều hắn không biết qua nhiều năm rồi, những công trình này còn hay không, nhưng chuyện đến nước này chỉ có thể đánh liều một ván mà thôi.

Nghe Dương Thu Trì nói thế, Nam Cung Hùng vốn là con nhà võ, biết ngay đạo dụng binh, liền nhìn hai bên vách núi, thấy đây chính là địa thế tuyệt hảo để thiết kế mai phục, nhất định năm xưa sẽ có người bố trí gỗ tròn đá lăn ở trên, vui mừng nói: "Đúng a! Thiếu gia nói không sai." Nói xong phất tay, mọi người chia ra hai bên trèo lên.

Nam Cung Hùng và Tống Vân Nhi đi kèm bảo vệ cho Dương Thu Trì, dẫn theo người trèo lên vách đá. Quả nhiên, những công trình phòng ngự năm xưa vẫn còn, khiến họ hưng phấn dị thường.

Thì ra, năm xưa khi Yến vương Chu Lệ đánh chiếm Ứng Thiên phủ, đã tránh địa thế hiểm trở bất lợi cho tiến công của Bắc Tiếu thôn, đi vòng qua đường khác tập kích kinh thành. Do đó cây và đá lăn thiết kế sẵn chưa hề được sử dụng, và đó là hạnh vận của họ.

Nam Cung Hùng vô cùng quen thuộc với cách thiết kế và sử dụng cây đá lăn này, nên lập tức dẫn người đi bố trí.

Sau khi an bài đâu ra đó, vó ngựa truy binh đã ùng ùng kéo đến chen chặt hẽm núi. Dựa vào ánh trăng mờ mò, mọi người đã có thể nhìn rõ những bóng đen của truy binh.

Truy binh căn bản không nghĩ đến chỉ bằng hơn hai mươi người của Dương Thu Trì mà dám thiết kế mai phục hơn một trăm tên bọn chúng. Do sắc trời hôn ám, hơn nữa không đủ thời gian phát hiện địa thế hai bên hiểm trở, địch nhân có thể thiết kế mai phục, và càng không ngờ những cây lăn đá tảng mà quân triều đình trước kia sắp đặt còn nguyên ở đó, hộ vệ của Dương Thu Trì lại biết cách bố trí và sử dụng những thứ này.... Mang theo tất cả nhưng cái không ngờ đó, chờ cho đến khi bọn họ phát hiện hai bên núi quá nguy hiểm, nếu lỡ rượt vào trong gặp phải mai phục thì đã muộn rồi!

Thấy địch nhân đã tiến vào vòng mai phục, Nam Cung Hùng quát lớn hạ lệnh lăn gỗ đá xuống. Lập tức, các cây gỗ thật to và đá tảng to nhỏ chất đầy hai bên sườn núi lăn xuống kêu vang trời, giống như núi đổ trời rung, ập thẳng vào bọn truy binh.

Tiếng kêu thảm, tiếng rên la, tiếng chạm đập, tiếng ngựa hí nổi rộ sơn cốc. Tuy binh có hơn trăm người, nhưng dưới trận gỗ đá lăn xuống như mưa này bị loạn thành một đám và không biết chạy đâu cho thoát, tử thương thảm trọng.

Trong vòng thời gian uống cạn tuần trà, toàn bộ gỗ đá đều bị cẩm y vệ thả lăn xuống dưới.

Ngay sau đó, Nam Cung Hùng hét lớn: "Các huynh đệ, giết a!" Quát xong y dẫn đầu phóng xuống chân núi, còn Tống Vân Nhi vẫn ở lại bảo hộ Dương Thu Trì.

Quan đạo đầy gỗ và đá ngổn ngang, số truy binh hơn trăm người ấy đã bị trận đá lăn gỗ chạy này đè chết gần hết, những kẻ không chết thì bị trọng thương, dường như không ai được hạnh miễn.

Nam Cung Hùng cùng các cẩm y vệ hộ vệ kềm chế những truy binh bị thương rên la thảm thiết này tập trung lại một chỗ. Chỉ còn không đến mười tên còn sống, hơn nữa toàn thụ thương, những người khác đều đã bị gỗ đá đè nát người.

Đến lúc này trời đã hừng sáng, sau khi kiểm tra khắp chiến trường xác định an toàn, Nam Cung Hùng lớn tiếng gọi Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi xuống.

Sau khi tiến hành thẩm vấn những truy binh còn sống sót, quả nhiên phát hiện những người này là dư đảng của Kiến Văn, chính là tàn binh trong lần phục kích thất bại ái phi của Minh Thành tổ lần trước.

Dương Thu Trì liên tiếp phá các dư đảng của Kiến Văn, gian tế cài bên cạnh hắn bị phát hiện, cuối cùng trở thành tiểu thiếp, nên Kiến Văn dư đảng tức giận vô cùng, cuối cùng quyết tâm nhổ phén cái gai trong mắt này.

Bọn họ phái người theo dấu Dương Thu Trì đến Bắc Tiếu thôn chờ đợi cơ hội. Khi chúng phát hiện bọn Dương Thu Trì lao lực suốt hai ngày ngủ thiếp đi, liền phi cáp truyền thư tập hợp hơn trăm người còn lại đến đánh úp, không ngờ bị hai chục người của Dương Thu Trì lợi dụng gỗ đá phản kích thành công, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ.

Nam Cung Hùng tuy biết Dương Thu Trì là cẩm y vệ đặc sứ, vô cùng kính úy đối với hắn, nhưng chưa thể gọi là bội phục. Nhưng từ chuyện này trở đi, ấn tượng về Dương Thu Trì trong lòng Nam Cung Hùng và các cẩm y vệ khác đã hoàn toàn thay đổi.

Dương Thu Trì cơ trí hơn người, là kẻ phát hiện dấu hiệu có kẻ địch đến tập kích đầu tiên, lại trong tình huống địch nhân đánh đến nơi mà vẫn trầm tĩnh thoát khỏi vòng vây chưa kịp khép lại, không những dẫn bọn họ thoát cơn nguy khốn, mà còn có thể kịp thời nghĩ kế phá địch, nhất cử thành công.

Hiện giờ Nam Cung Hùng mới biết vì sao Dương Thu Trì tuổi còn nhỏ như thế mà có thể lên ngồi ở chức chỉ huy sở đặc sức của cẩm y vệ.

Dương Thu Trì phái hai hộ vệ đi gọi Hồ Giang cùng mọi người quay lại, thu dọn chiến trường xong thì trời sáng rõ.

Chú thích:

"Ngu đột xuất": Nguyên tác là "秀逗 - Tú đậu", một từ lóng hiện đại truyền từ Hong Kong và Đài Loan vào Trung Quốc đại lục. Nó vốn là từ tiếng Nhật dịch ra từ chữ "Short" của tiếng Anh, nguyên nghĩa là "ngắt", "ngắn", "điện ngắt mạch bất thình lình rồi có lại ngay", sau đó được dùng với nghĩa bóng chỉ não hay đầu óc tạm thời bị "ngắt mạch", tạm thời phạm phải sai lầm, đầu óc không linh mẫn trong tích tắc. Ở Việt Nam có ý tương đương là "thông minh thường kỳ, ngu đột xuất" hay ngược lại, là một câu mắng yêu rất hóm hỉnh.
 
Chương 148: Trúng cử


Hồ Giang chưa hết kinh hồn, thấy tử thi đầy mặt đất mới biết thật là thoát chết trong gan tất. Rất may Dương Thu Trì có phong độ của bậc chỉ huy, chẳng những hóa nguy thành an, mà còn lập được đại công, chẳng những phá được án lão tú tài chết trong cống viện, mà còn diệt được một số loạn đảng, công lao không nhỏ.

Sau khi áp giải tù binh trở về Nam Tiếu thôn, họ tìm kiếm hai hộ vệ được cử canh gác và đi dò la, phát hiện họ đã bị dư đảng của Kiến Văn đánh lén giết chết rồi.

Hồ Giang lệnh cho Mễ lý chánh phái bọn tráng dân đi gom góp xác của các Kiên Văn dư đảng đem êề, sau đó chỉnh lý quan đạo khôi phục lại giao thông. Mọi việc xong xuôi, Dương Thu Trì cùng mọi người theo đường Trừ châu trở về kinh thành Ứng Thiên phủ.

Trên đường đi, có thêm hai tên dư đảng bị thương nặng chết. Trở về tới Ứng Thiên phủ, Dương Thu Trì cho Nam Cung Hùng dẫn người giải các dư đảng còn lại đi giao cho Mã Độ xử lý, lại thông tri cho họ đến Bắc Tiếu thôn thu hồi xác của những dư đảng bị chết.

Mã Độ và Ngưu Bách hộ biết Dương Thu Trì soái lĩnh một nhóm cẩm y vệ nhỏ mà diệt được hơn trăm bộ hạ tàn dư của Kiến Văn đế, vui mừng không xiếc, đều đến chúc mừng hắn lại lập thêm công mới.

Hồ Giang áp giải Triệu Bán tiên đến nha môn Ứng thiên phủ phục mệnh. Phủ doãn của Ứng Thiên phủ là Cố đại nhân không ngờ

Dương Thu Trì chỉ dùng có hai ngày mà có thể phá được án như vậy. Về chuyện lão tú tài chết ở trường thi, hoàng thượng đã để ý hỏi đến, lão đang phiền não không biết giải bày thế nào, không ngờ như vầy coi như mọi chuyện êm đẹp, không khỏi cảm kích Dương Thu Trì vô cùng.

Cố phủ doãn lập tức đem tin này báo cho chủ khảo kỳ thi hương là Cổ Hàn Lâm. Cổ Hàn Lâm thở phào nhẹ nhõm, án này coi như đã giải quyết chu toàn.

Hai người còn từ miệng Hồ Giang mà biết Dương Thu Trì dẫn đầu đội nhóm tiêu diệt tàn dư của Kiến Văn đế, liền cao hứng có thừa, đối với Dương Thu Trì thập phần bội phục.

Lần này Dương Thu Trì có thể kể là giúp cho phủ doãn Cố đại nhân của Ứng Thiên phủ rất nhiều, do đó lão bày yến tiệc khoản đãi hắn. Cổ Hàn lâm cũng đến dự, còn định mời những quý nhân quan viên của Ứng Thiên phủ tham gia, nhưng Dương Thu Trì nhớ tới lời Lý công công dặn là phải hết sức giữ cho bản thân đừng nổi trổi, ít nhất là cho tới khi Kiến Văn dư đảng bị diệt hết. Nếu như vậy, hắn nhất mực phải giữ mình, không được huênh hoang phô trương quá đáng.

Dưới sự yêu cầu kiên quyết của Dương Thu Trì, yến tiệc chỉ mời thêm Mã Độ và Ngưu Bách hộ, len lén chúc mừng nho nhỏ với nhau mà thôi.

Án mạng được phá xong, Dương Thu Trì trở thành khách quen của Cổ Hàn Lâm và Cố đại nhân. Họ thường say sưa chè chén với nhau, không say không về.

Vào một đêm mấy ngày sau, Lý công công dẫn theo tùy tùng thăm viếng Dương Thu Trì tận giữa khuya, tán thưởng việc Dương Thu Trì tiêu diệt những tên chạy thoát trong vụ tập kích bắt cóc Hiền phi, lại nói hoàng thượng vô cùng vừa ý. Nhưng do Dương Thu Trì cần phải tiếp tục ẩn giấu hành tung phá án Kiến Văn dư đảng, do đó tạm thời không gia quan tấn tước, nhưng hoàng thượng đã ghi lại công lao của hắn. Chờ đến khi bắt được Kiến Văn, triệt để phá tan bọn dư đảng, nhất định sẽ phong thưởng trọng hậu.

Tuy không thể thăng quan, nhưng hoàng thượng ban thưởng cho Dương Thu Trì rất nhiều vàng bạc châu báu, mã não phỉ thúy, tơ lụa gắm vóc và những vật quý giá rất nhiều, coi đã là tạm thời tưởng thưởng nhằm an ủi.

Trận này khiến hộ vệ đội của Dương Thu Trì chết mất hai người, Lý công công lại phái thêm hai người bổ sung, lại giao con chim bồ câu đưa thư lúc trước hắn dùng để truyền tin lại cho hắn, nhằm đảm bảo cho hắn có đủ hai con dự phòng.

Lý công công còn báo cho Dương Thu Trì biết, mấy ngày sau sẽ treo bảng vàng, đến lúc đó có thể tiến hành kén chọn cử nhân, nhưng Dương Thu Trì không cần tham gia, tự Lý công công sẽ có an bài. Dương Thu Trì chỉ cần chờ đi nhậm chức là được, đó là vào dịp xuân về, tiết trời vừa ấm là hắn lên đường.

Dương Thu Trì rất muốn hỏi bản thân sẽ nhậm chức quan gì, ở đâu để xác định coi cách bao xa với địa điểm đày hai mẹ con Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai. Nhưng hắn hiện đã học được tính nhẫn nại, nếu như Lý công công không nói, thì hắn tốt nhất đừng hỏi, dù gì mấy ngày nữa cũng biết.

Những ngày còn lại này rất nhẹ nhàng, hắn suốt ngày cứ no say túy lúy, đêm đêm ca hát vui vầy.

Sáng sớm ngày ấy khi Dương Thu Trì còn đang ngủ, chợt nghe ngoài cửa pháo nổ vang trời, chấn điếc cả tai, càng kèm theo tiếng kèn nhạc du dương, khiến cho hắn giật mình tỉnh giấc, tức giận mắng một câu rồi lấy gối trùm lên đầu định ngủ tiếp.

Dương Thu Trì vốn nghĩ là pháo kèn rước dâu của ai đó, nhưng lập tức biết là không phải. Trong thời gian này hắn nhất mục ngụ ở nội trạch đại viện tại thiên hộ sở nha môn của Mã Độ, cưới vợ sao lại cưới đến nha môn của cẩm y vệ chứ, chẳng lẽ....

Dương Thu Trì chợt ngồi bật dậy, tiếng pháo và nhạc càng lúc càng gần, thẳng tới nơi ở của hắn. Tiếng reo hò, tiếng trống, tiếng kèn hòa nhịp vào nhau inh ỏi.

Đúng lúc này, Tống Vân Nhi vén cửa chạy vào, nhảy phốc lên giường của Dương Thu Trì, hưng phấn kêu lên: "Ca! Huynh trúng cử nhân rồi!" Nói rồi đưa hai tay chộp lấy vai Dương Thu Trì, cao hứng lắc lia lắc lịa.

Thấy nha đầu điên này chẳng thèm kiêng dè gì chạy thẳng vào phòng mình, phản ứng đầu tiên của Dương Thu Trì là cúi xuống coi mình đã mặc quần áo gì không.

Hắn đơn giản là bó tay với Tống Vân Nhi, cô nàng này chẳng cần biết nam nữ hữu biệt gì, suốt ngày cứ tùy tiện chạy loạn vào phòng của hắn. Du sao thì Dương Thu Trì củng biết Tống Vân Nhi rất thích đảo loạn, hơn nữa thê thiếp của hắn không có một bên, không cần cởi hết quần áo, chỉ mặc đồ ngắn mà ngủ.

Sau khi hắn phát hiện bản thân không bộc lộ thân thể gì mấy, nên thở phào, nhớ lại lời vừa rồi của Tống Vân Nhi - trúng cử nhân? Ha ha, mấy cáy kèn trống pháo mừng này là dùng để báo hỉ mình trúng cử nhân đó à? Quả nhiên nằm ngoài ý liệu! Ha ha ha.

Tuy Dương Thu Trì biết bản thân sẽ nằm trên bảng vàng, nhưng chuyện tới trước mắt, khi biết mình trúng cử nhân rồi vẫn không thể tránh được sự vui mừng.

Hắn xuống giường mặc y phục, Tống Vân Nhi vẫn chẳng thèm tránh đi, lại còn cao hứng kêu rối kêu rít: "Ca, huynh thật là lợi hại đó nha! Chẳng đọc sách ngày nào mà thi trúng cử nhân, thiệt là thần thông quá đi đó mà!"

Dương Thu Trì méo miệng cười, nháy nháy mắt bảo nàng: "Vân nhi, đừng có quên vụ cá cược của chúng ta đó nghe!"

Tống Vân Nhi cười hi hi: "Yên tâm, nói là giữ lời mà! Ca thi trúng cử nhân rồi, tiểu muội giúp huynh làm một chuyện là lẽ thường đó mà!" Nói đến đây, nàng khuỳnh khuỳnh hai tay ngông nghênh, xoắn tay áo lộ ra đôi tay dài thon thả: "Được, huynh nói đi, là muốn cánh tay của muội, hay là muốn đầu của muội?"

Dương Thu Trì chỉnh lý y phục, bước lại cạnh nàng, cười gian bảo: "Ta muốn người của muội!"

"A...?" Tống Vân Nhi kinh ngạc kêu lên: "Cái gì? Huynh muốn người này.... của muội à?" Lặp lại câu hỏi lần nửa, nàng chợt đỏ ửng mặt lên, cúi đầu bẻn lẻn.

Dương Thu Trì thấy thần tình của nàng, biết nàng hiểu lầm, không thể đùa được, bèn nhanh chóng giải thích: "Vân nhi, ý của ta là muốn muội làm bảo tiêu, cùng đi với ta đi nhậm chức quan, thiếp thân bảo hộ cho ta. Được không?"

Tống Vân Nhi lúc này mới hiệu ý tứ muốn "người" của Dương Thu Trì là gì, trừng mắt nhìn hắn, nhưng trong lòng hơi thất vọng, rồi lại nghĩ, hắn để nàng bảo hộ bên người, cùng đi nhậm chức quan, như vậy là có thể luôn ở bên hắn. Có như vậy cũng đủ lắm rồi, nên nàng vui mừng trở lại.

Nghĩ thông điểm này, Tống Vân Nhi gật đầu, giả vờ thở dài nói: "Được thôi. Ai bảo muội đánh cuộc thua huynh làm chi, nếu như huynh đã yêu cầu muội làm bảo phiêu thì.... nói phải giữ lời, đành phải đáp ứng thôi!"

Dương Thu Trì mừng rỡ, cầm tay Tống Vân Nhi nói: "Đừng lo, Vân Nhi, ta sẽ luôn đối xử tốt với muọi, không để muội khổ đây." Nói tới đây hắn nghĩ lại, cảm thấy cây ấy quai quái, giống như là đang nói với tình nhân vậy, nên vội cải chính: "Ý của ta là, muội làm bảo tiêu cho ta sẽ không cực khổ lắm đâu."

Tống Vân Nhi đã nghe rõ ý trong lời của hắn, lòng cảm thấy rất ngọt ngào, mỉm cười rất vũ mị: "Được thì được, nhưng mà không biết cha mẹ của muội có cho phép không."

Nghe nàng nói thế, Dương Thu Trì hơi sửng người. Điểm này thì hắn chưa hề nghĩ qua cho tử tế, hắn chỉ cảm thấy nếu như bản thân làm quan mà không gặp được Vân Nhi thì lòng sẽ cảm thấy rất khó chịu. Những ngày tháng gần đây khi ở chung với nàng, hắn cảm thấy thập phần vừa ý, không muốn phân khai nên mới cố ý đánh cá chuyện này.

Tống Vân Nhi mỉm cười nói: "Ca, tuy muội đã đáp ứng rồi, nhưng nếu cha mẹ muội không chịu thì muội cũng không còn cách nào khác đâu nha?" Nhưng nàng thấy sắc mặt Dương Thu Trì rất khó coi, lòng vui mừng nói tiếp, "Nhưng mà, cha mẹ muội rất xem trọng ca ca huynh đó, muội cũng lớn rồi, huynh thỉnh muội làm bảo tiêu, hai người sẽ đáp ứng thôi."

Dương Thu Trì cao hứng gật gật đầu, thầm nghĩ chỉ mong là như vậy, còn hiện giờ có gấp cũng vô dụng, "công tác tư tưởng" đối với hai vợ chồng lão Tống tri huyện, à không, Tống đồng tri, phải đợi quay về từ từ tính.

Dương Thu Trì chỉnh lý y phục xong bước ra cửa, thấy ngoài vườn đã đầy người, Mã Độ và Ngưu Bách hộ thấy Dương Thu Trì đi ra lập tức bước lên cung tay chúc mừng.

Người chuyên môn báo tin mừng thi đậu thấy Dương Thu Trì vừa bước ra thì hai vị cẩm y vệ đại lão gia chúc mừng, lập tức đoán ngay vị này là cử nhân lão gia, liền quỳ ngay xuống đệ trình báo thiếp, luôn miệng nói cung hỉ đại gia.

Dương Thu Trì cười ha ha tiếp lấy báo thiếp, thấy trên đó có ghi: "Vui mừng báo cho lão gia Dương Thu Trì của quý phủ là trong kỳ thi hương ân khoa ở kinh thành Ứng Thiên phủ, đã trúng cử nhân vào bậc hai trăm năm mươi."

Dương Thu Trì ngẩn người, khóc cười đều không được, thầm mắng: "Cái lão quỷ Lý công công này chơi kiểu gì kỳ vậy, sao lại cho mình trúng vào con số nhị bách ngũ thập (hai trăm năm mươi) a, nhị bách ngũ? Ông mới là nhị bách ngũ(*) á!

Thưởng cho người báo tin xong, mọi người đều bàn luận xem làm sao để ăn mừng. Mã Độ và Ngưu Bách hộ chưa bao giờ thi đến cử nhân, nên không biết đạo lý và quy củ trong chuyện này thế nào. Dương Thu Trì nhớ lại bài học "Thăng liền ba cấp" ở thời trung học có nói là thi đỗ cử nhân dường như phải bái quan chủ khảo làm thầy, coi như là học sinh của y, Trương Hảo Cổ thi xong không đến bái sư, kết quả hai vị chủ khảo liền đòi gặp y ngay.

Nếu là như thế, thì tốt nhất là đi tìm quan chủ khảo Cổ Hàn Lâm bái sư cho rồi. Lão năm nay cũng lớn tuổi, là ở bậc hàn lâm, tri thức và học vấn nếu làm thầy hắn cũng không oan gì cho hắn cả. Mấy ngày nay hắn hầu như ở cùng một chỗ với lão, cũng coi như chỗ quen biết, nếu giờ trở thành sư đồ thì quả là tuyệt.

Dương Thu Trì chuẩn bị hậu lễ, gọi Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ mang theo đến nhà Cổ hàn lâm bái sư.

Đối với Mã Độc và Ngưu Bách Hộ, chuyện Dương Thu Trì thi trúng cử nhân có thể nói là chuyện lớn. Hai người đương nhiên muốn giúp làm cho chuyện vui cho toàn vẹn, nên khi nghe Dương Thu Trì nói muốn bái lão Cổ hàn lâm làm thầy, đương nhiên liền tháp tùng theo ngay.

Dương Thu Trì muốn đến cói bảng kết quả thi hương trước. Món này có thể nói là giấy trúng tuyển đại học, nhất định phải xem qua cho biết.

Các kỳ thi hương thường diễn ra vào tháng chính, khi niêm yết danh sách người thi đỗ thì đúng vào lúc hoa quế nở rộ, cho nên bảng danh sách này được gọi là "Quế bảng". Nhưng lần ân khoa này được tổ chức vào tháng mười hai, chẳng biết tên gọi của bảng danh sách này là gì.

Bảng niêm yết được đặt ở cửa cống viện. Dương Thu trì không phí sức lực mấy đã tìm thấy tên mình ở vị trí hai trăm năm mươi. Tuy vị trí này nghe rất kỳ, nhưng dù sao cũng là cử nhân.

Kỳ thi hương có độ khó hơn nhiều so với thi đại học ở thời hiện đại, mỗi tỉnh chỉ có số lượng tiêu chuẩn rất hạn chế. Vì thế,

Dương Thu Trì xem bảng thi đỗ này liền cảm thấy vui mừng hơn cả lúc nhận giấy trúng tuyển đại học y khoa.

Xem bảng xong, Dương Thu Trì cùng mọi người đến nhà Cổ hàn lâm, ngoài cửa đã chật ních người, đều là những người trúng cử nhân đến bái sư. Gặp mặt nhau, họ đều vui mừng hớn hở, vì dù sao cũng đã là bạn đồng niên, nên ai nấy đều tỏ ra thân mật.

Tuy nhiên, sau khi khách sáo xong rồi, họ lại bằng đầu so sánh vị trí của nhau, rất giống với việc so sánh vị trị coi ai là thủ khoa hay á khoa, top mười trong kỳ thi vào đại học ở thời hiện đại vậy.

Nhưng người này đều đã đưa bái thiếp đệ trình vào phủ của Cổ hàn lâm, đang chờ được bái kiến từng người một.

Mấy ngày nay Dương Thu Trì thường đến nhà của Cổ hàn lâm, không cần dùng bái thiếp nữa. Nhưng hắn hiếm khi thấy được cảnh tượng này, hơn nữa cũng không cần gấp, nên ở lại cửa trước cùng nói chuyện với mọi người, nghe bọn thư sinh khoe chữ khoa văn, cảm thấy quả là thú vị.

Những người này có vài người có mặt tại cống viện lúc lão tú tài Lỗ Học Nho bị trúng độc chết, nên nhận ra Dương Thu Trì. Sau khi dò hỏi một lúc, họ biết Dương Thu Trì là một giám sinh quyên tiền để được dự thi mà vẫn trúng cử nhân, vừa kinh ngạc vừa bội phục. Hơn nữa, ngày ấy họ biết Dương Thu Trì và quan chủ khảo Cổ Hàn Lâm có quan hệ không phải tầm thường, nên cố gắng tiếp cận, trao đổi bái thiếp cho nhau.

Những bái thiếp này tương đương với danh thiếp thời hiện đại. Dương Thu Trì lúc này cũng thường đi giao tiếp khắp nơi, nên cũng chuẩn bị bái thiếp khá nhiều, do hộ vệ đầu lĩnh Nam Cung Hùng bảo quản.

Sau khi trao đổi cho nhau một số lượng lớn bái thiếp, họ lại bắt đầu so sánh thứ bậc trúng tuyển. Điểm này quả thật làm Dương Thu Trì khó chịu, tuy biết người thời cổ đại không có ý kiến gì về câu nói "nhị bách ngũ", nhưng vị trí của hắn có vẻ tụt xa ở phía sau, nên có phần không vui. Chỉ có điều, khi nghĩ đến bản thân chẳng hề viết một chữ nào khi thi, tứ thư ngũ kiinh cũng chẳng hề coi quá thế mà trúng được cử nhân, đem so sánh với những người miệt mài ít nhất mười năm đèn sách thì hắn cảm thấy đủ và may lắm rồi.

Dương Thu Trì và mọi người trục tiếp tiến vào nhà của Cổ Hàn lâm, thậ chí không cần phải xếp hàng, khiến cho những cử nhân ở đó vừa hâm mộ vừa đố kỵ.

Lính gác đưa Dương Thu Trì và mọi người đến đại sảnh, sau đó chạy đi thông báo.

Chờ một chút, Cổ Hàn lâm cười khà khà bước ra, vừa nhìn thấy Dương Thu Trì đã cung tay chúc mừng từ xa. Dương Thu Trì vội vả hoàn lễ, rồi bảo Nam Cung Hùng dâng lễ vật lên.

Cổ Hàn lâm cũng không hề từ chối, vì đây là quy củ. Nhưng Cổ Hàn lâm lại đề nghị hôm nay để lão chủ động, thiết yến tiệc chúc mừng cho Dương Thu Trì. Và hắn đương nhiên tán đồng.

Cổ Hàn lâm cho lính gác đi thông báo cho bọn cử nhân, nói hôm nay quan chủ khảo đại nhân không tiếp khách, ngày mai hãy đến.

Cổ Hàn lâm mời phủ doãn của Ứng thiên phủ là Cố đại nhân đến cùng vui, cộng thêm Ngưu Bách Hộ, Mã Độ vốn là hai phó thiên hộ của cẩm y vệ, cùng Tống Vân Nhi cùng nhập tiệc chúc mừng cho Dương Thu Trì cao trúng cử nhân.

Chú thích:

(*) Nhị bách ngũ: là tiếng chửi đổng, mắng xéo, ý chỉ đồ đần, đồ rác rưỡi, bỏ đi, vô tích sự. Cùng với chữ "Tam bát", và "Bán đầu sanh", "Nhị Bách Ngũ" được coi là một trong những câu mắng rất kỳ lạ mà người Trung Quốc thường hay sử dụng. Đây thực ra là xuất phát từ lối mắng làm nhẹ đi (Tỉnh mạ) của người xưa (đặc biệt là người ở Đài Loan).

Xuất xứ của từ này có nhiều quan điểm:

(1) Thời Chiến Quốc Tô Tần sau khi lập nhiều công bị thích khách giết, Tề Vương muốn báo thù, bèn cắt đầu bêu lên thành nói thưởng ngàn lượng cho người có công giết. Có 4 người đến nhận công, ai cũng nói là do một mình mình giết Tô Tần cả. Tề Vương mới hỏi vậy chớ 1000 lượng chia thế nào đây, bốn người đồng thanh nói: "Mỗi người hai trăm rưỡi". Thế là Tề vương quát bảo" Lôi mấy tên hai trăm rưỡi này đi chém hết!"

(2) Đời Đường, Trường An Kinh Triệu Duẫn quyền thế lớn, mỗi lần đi tuần đều có đội nghi trượng rất lớn, trong đó vị quan nhỏ đi đầu tiên tên là Hát Đạo Ngũ Bách, chuyên cầm cây can dài đi xua người. Sau đó y được tăng viện thêm một người nữa, nhưng quần chúng Trường An đã quen gọi người đi dọn đường là ngũ bách (500), giờ nếu có hai người thì mỗi người họ coi là nhị bách ngũ (250) , mỗi người họ đều cầm trong tay một cây can, nên còn gọi là nhị can tử, từ đó hai tiếng mắng "nhị bách ngũ" hay "nhị can tử" đều biểu thị thứ người lỗ mãn, vô lễ, không có đầu óc, đụng đâu bể đó.

(3) Có truyện ngụ ngôn rằng: Một người sinh hai con tên là "Thành sự" và "Bại sự". Người cha một hôm đi xa, cho hai con viết chữ, Thành sự viết 300, Bại sự viết 200. Khi người cha trở về thì thấy con lớn viết thiếu 50 chữ, con nhỏ viết dư 50 chữ. Do đó người cha than: "Thành sự bất túc, bại sự hữu dư, lưỡng cá đô thị nhị bách ngũ" (Thành sự không đủ, bại sự có dư, hai thằng đều hai trăm rưỡi).

(4) Chơi bài cẩu. Bài cẩu có cây bài Nhị bản (hai mặt 2, bốn điểm) và Yêu ngũ (6 điểm, 2 mặt 3) gộp lại thành con bài xấu nhất là "tễ thập", chia 2 thành 5-5, không ăn được ai, nhỏ nhất. Hong Kong chuyên dùng từ "Nhị ngũ tử" để chỉ ý người chẳng làm được tích sự gì.

Ở Việt Nam có câu nói kháy vui đùa của giới trẻ, đặc biệt là nam, rất thú vị liên quan đến cái gọi là 5-5 này: "Đối với anh tiền bạc không thành vấn đề, hai tờ 500 anh coi như một ngàn hà em! "

- "Tam Bát" là từ dùng để mắng dành riêng cho nữ, ý chỉ cô này hời hợt, làm chuyện lỗ mãng, khùng khùng điên điên, không đủ nghiêm túc trang trọng. Chữ này được Chu Giới Phàm - nhà nghiên cứu ngạn ngữ Trung Quốc cho là xuất xứ từ thời xưa, khi một kỹ nữ đẹp sinh con đặt tên là Trương Bát mà bày đặt sính chữ đi xin thơ của Vu Ngụy Dã. Dã viết cho một bài:

"Quân vì bắc đạo sanh Trương Bát,

Ta ở Tây châu thục ngụy tam,

Mạc quái tôn tiền vô tiếu ngữ,

Bán sanh bán thục vị tương am"

- "Bán đầu sanh" dành riêng cho nam, cùng ý chửi như Tam Bát, ý chỉ nửa sống nửa chín, dở dở ương ương, chẳng làm được trò trống gì.
 
Chương 149: Lại bị cướp tiểu thiếp


Trong tửu yến, mọi người nói đến về đại hội mừng cho các cử nhân tiến hành vào vài ngày sau, đó chính là Lộc Minh yến, lúc đó cần phải xướng "Lộc Minh" thi, nhảy múa ca hát, làm thơ tác phú. Mọi người đều nói Dương Thu Trì cần phải sớm chuẩn bị, đến lúc đó ra tay một phen để mọi người có một phen náo nhiệt.

Dương Thu Trì nghe mà muốn xỉu, nhưng miệng vẫn đáp ứng , vì thầm nghĩ ngoài kia thiếu gì tú tài, nhà giàu nhà nghèo gì cũng có, dùng tiền mua vài bài thi từ của họ chẳng phải là ổn hay sao?

Nhưng suy đi nghĩ lại, trước hết phải phí đầu óc mà làm, làm không nổi thì mang mấy bài thơ của Mao chủ tịch (tức Mao Trạch Đông) ra xài là được rồi! Nhưng mà thơ của Mao chủ tịch quá phách khí, không thể dùng bừa, nếu không sẽ xảy ra chuyện. “Xã hội hiện đại chẳng ai làm thơ cổ giỏi hết, làm sao bây giờ đây, phải suy nghĩ kỹ mới được!” Gã nghĩ thầm.

Cổ hàn lâm và Cố phủ doãn lại nói chờ cho Dương Thu Trì thi hội, thi điện được kim bảng đề danh rồi thì cần phải chúc mừng cho thật lớn.

Đề cập đến vấn đề này, Dương Thu Trì thưa: "Các vị đại nhân, càng vị đừng cười tôi nữa. Tại hạ bản lãnh ra sao trong lòng tự biết, kỳ thi hội và thi điện này tôi không thể tham gia nổi đâu. Tôi chuẩn bị nhờ người đến lại bộ đăng ký tham gia tuyển chọn, nếu như may mắn được tuyển làm chức quan nhỏ gì đó là vừa lòng thỏa nguyện lắm rồi."

Thông qua đoạn thời gian tiếp xúc nhau này, Cổ hàn lâm và mọi người đều biết lời Dương Thu Trì nói đây là lời thật, nên không thèm khách sáo làm chi nữa.

Cố phủ doàn tự nói lão có nhiều bằng hữu, nếu như sau này Dương Thu Trì làm quan, nếu có đến địa phương của bằng hữu của lão, thì nhất định có thể chiếu cố. Cổ hàn lâm cũng đề xuất ý sẵn lòng giúp.

Dương Thu Trì động tâm, đúng a, hai lão gia hỏa này có thể coi là lãnh đạo cao tầng ở Minh triều, đặc biệt là phủ doãn của Ứng Thiên phủ, chức vị xem ra tương đương với chức thị trưởng Bắc Kinh thời hiện đại, hay là cục trưởng Cục Chính trị hay bí thư thành ủy gì đó, nhất định là có không ít quan hệ với các địa phương, không thể lãng phí cái lợi này.

Tuy hắn không biết sẽ đi làm quan ở đâu, nhưng có thể lợi dụng mối quan hệ này để chiếu cố mẹ con Bạch phu nhân là quá tốt rồi. Đương nhiên, nếu như chỗ hắn làm quan cùng một địa phương với hai mẹ con họ Bạch thì càng hay biết mấy.

Nghĩ đến điều này, Dương Thu Trì hỏi: "Cố đại nhân, không biết ngài có mối quan hệ tốt nào ở Vân Nam không?" Có việc cầu người, câu nói này bất tri bất giác khách khí hẳn lên.

Cố phủ doãn mỉm cười: "Đề hình án sát sứ ở Vân Nam ở Khang Hoài là đồng môn của ta ngày xưa, lại là tiến sĩ đồng bảng, giao tình xưa nay không tệ."

Dương Thu Trì nghe thế vui mừng ra mặt.

Cố phủ doãn không hiểu, hỏi: "Dương công tử đột nhiên hỏi đến Vân Nam, không biết là nguyên nhân gì?"

Dương Thu Trì cười nhìn Mã Độ.

Mã Độ hội ý chen lời: "Cố đại nhân, mấy người trước có vợ và con gái của Bạch thiên hộ thuộc Kinh doanh binh bị liên lụy phải tội chết, rất may là Dương công tử cầu xin, hoàng ân rộng rãi đã miễn cho tội chết, cải phán thành lưu đày ở Vân Nam. Bạch thiên hộ trước khi chết có giao tình với Dương công tử. Dương công tử tâm địa thiện lương, thương xót cho hai mẹ con họ, do đó đã đáp ứng Bạch thiên hộ chiếu cố cho."

Nói đến chuyện này, Cố phủ doãn lập tức biết ngay. Lần mưu phản vừa rồi hoàng thượng tự thân xử đoán, ngoại trừ những người trực tiếp bị xử quyết ra, những hình phạt dành cho người có liên quan không bị xử tử được giao cho nha môn ở Ứng Thiên phủ chấp hành, do đó Cố phủ doãn là người phụ trách trực tiếp.

Cố phủ doãn cảm thán nói: "Hai mẹ con họ có thể gặp người tốt như Dương công tử đây là phúc phận kiếp trước. Dương công tử yên tâm, chuyện áp giải họ đến Vân Nam do Ứng Thiên phủ của ta phụ trách, đến lúc đó ta sẽ có an bài cụ thể, tuyệt không để mẹ con họ chịu khổ đâu."

Dương Thu Trì ôm quyền thi lễ: "Đa tạ Cố đại nhân!" Dừng một chút, hắn lại tiếp, "Chỉ có điều là tôi đã đáp ứng với Bạch thiên tổng tự thân đưa họ đến Vân Nam an bày đâu ra đó rồi mới li khai."

Cố phủ doãn giơ ngón tay cái lên khen: "Dương công tử nghĩa tựa mây trời, thật đúng là khiến người thập phần bội phục. Nếu như là như vậy, đến lúc đó ta sẽ an bài cho công tử cùng đi hộ tống, và gửi kèm một phong thư gửi cho quan đề hình án sát sứ ở Vân Nam là Khang Hoài, bảo y tiếp đãi mọi người thật tốt."

Dương Thu Trì mừng rỡ, cung thân thi lễ: "Tôi thế hai mẹ con họ cảm tạ ân đức của đại nhân."

Cố phủ doãn cười nói: "Dương công tử bất tất khách khí, cậu giúp ta nhiều việc như vậy, chuyện này bất quá chỉ là chuyện động ngón tay, kể mà làm gì."

Sự tình như vậy là định xong, tâm tình của Dương Thu Trì vô cùng khoan khoái. Hắn nguyên nhất mực lo là đến Vân Nam rồi đất lạ quê người, cho dù có bạc cũng không biết dùng ở đâu. Hiện giờ có Cố phủ doãn dân kiến, có Vân Nam đề hình án sát sứ tiếp ứng, mọi chuyện coi như dễ hơn nhiều.

Chức đề hình án sát sứ này không phải tầm thường. Trong chế độ tư pháp ở địa phương ở Minh triều, các tỉnh đều có thiết lập đề hình án sát ty, phụ trách hình luật trong toàn tỉnh, trong khi đó ở châu huyện thì lại do tri phủ và tri huyện kiêm luôn mặt tư pháp. Chức đề hình án sát sứ tương đương chức viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cao, vừa kiêm giám đốc sở giám sát của tỉnh, vừa kiêm cục trưởng cục phản gián .... ở thời hiện đại.

Nếu như sau này hắn được phái đến Vân Nam làm quan, có mối quan hệ với cấp bậc cao cấp này làm hậu đài để tra án, xem ra mọi việc thuận lợi hơn nhiều. Chỉ không biết có hay không có chuyện tốt đẹp như thế này không.

Mọi người uống rất cao hứng, nhất mực cho đến nửa đêm mới tan.

Ngày hôm sau, Dương Thu Trì còn chưa tỉnh rượu, đầu óc mông lung, thì Tống Vân Nhi chạy vào vén mền ra gọi rối rít: "Ca, mau dậy đi, không xong rồi!"

Dương Thu Trì nghe vậy giật nãy mình, ngồi dậy hỏi: "Có chuyện gì?"

"Nữ hộ vệ Hạ Bình nhà huynh đến rồi, đang chờ ở ngoài kia kìa, nói là có chuyện gấp, dường như là, là..."

Dương Thu Trì gấp lên: "Là cái gì à? Muội học cái tính rề rà chậm chạp từ khi nào vậy?"

"Là búp bê bùn không thấy đâu nữa rồi!"

"A...!" Dương Thu Trì cả kinh kêu lên, "Muội nói cái gì? Búp bê bùn mất tích rồi? Làm sao mất tích?"

"Muội làm sao biết được, huynh đi hỏi nữ hộ vệ nhà huynh đi, đang chờ ở phòng khách ngoài kia kìa."

Dương Thu Trì phốc xuống giường mặc vội quần áo, chạy vụt khỏi phòng lao đến phòng khách.

Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng hộ vệ của Dương Thu Trì cũng chạy theo vào đại sảnh.

Hạ Bình vừa thấy Dương Thu Trì đã quỳ xuống thưa: "Thuộc hạ vô năng, thỉnh thiếu gia trách phạt!"

Tay phải của Hạ Bình lúc này quấn băng treo lê cổ, cánh tay thấm máu đỏ cả một vệt lớn, hiển nhiên thụ thương không nhẹ.

"Có chuyện gì? Nói mau!" Dương Thu Trì vội hỏi.

"Rạng sáng ngay hôm trước có một nữ tặc che mặt trung niên cướp tam thiếu phu nhân Tống Tình đi, chúc hạ và ba hộ vệ còn lại phát hiện ngăn lại. Nữ tặc này còn tam thiếu phu nhân đấu cùng chúng tôi. Ả có thân thủ thập phần cao cường, còn chúng tôi sợ làm bị thương tam thiếu phu nhân nên xuất thủ có phần cố kỵ. Sau khi nữ tặc làm bị thương ba người chúng tôi đã ung dung bỏ đi. Chúng tôi vô dụng không cứu lại được tam thiếu phu nhân, thỉnh thiếu gia trách phạt."

Dương Thu Trì nghe vậy trợn mắt ngớ người. Lần trước Tần Chỉ Tuệ cũng bị bắt cóc như thế, chẳng lẽ cũng là người này sao? Nếu là như thế, nhất định ả sẽ lưu lại một mảnh giấy gì đó. Nghĩ đến đó, Dương Thu Trì hỏi dồn: "Nữ tặc này lưu lại mảnh giấy nói gì ?"

Hạ Bình ngạc nhiên, thầm nghĩ sao tôi chưa nói thiếu gia đã biết rồi, bèn gật đầu móc từ trong người ra một mảnh giấy trình lên, nói: "Dây là thứ nữ tặc trước khi đào tẩu quẳng nói cho chúng thuộc hạ, nói cứ chuyển giao cho thiếu gia người."

Dương Thu Trì tiếp lấy mảnh giấy mở ra xem, quả nhiên trên đó có nét chữ quen thuộc: "Cô tiểu thiếp này của tôn giá lão thân cũng mang đi luôn. Không bị gì, tự lo cho bản thân đi." Nét chữ tròn trịa, nét mựa rõ ràng, hiển nhiên là mới viết không lâu.

Lại là nữ võ lâm tiền bối đó nữa! Lần trước bắt cóc tiểu thiếp Tần Chỉ Tuệ ngay bênh cạnh hắn, giờ là bắt cóc Búp bê bùn Tống Tình, hơn nữa còn bắt đi trước mắt ba cẩm y vệ cao thủ.

Tuy hắn không biết Hạ Bình có võ công thế nào, nhưng Lý công công nói những người này là do Cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ cương tự thân chọn lựa, võ công không dám nói là nhất lưu nhưng cũng không tệ. Ba người thế mà giữ không được một người, hơn nữa người ta còn cõng trên lưng một người, vậy võ công người đó cao thâm như thế nào khỏi nghĩ cũng biết. Hơn nữa, vị nữ tiền bối này rất có khả năng là đã hạ thủ lưu tình, nếu không muốn lấy tính mạng ba người không phải là chuyện khó.

Vị nữ tiền bối này vì sao lại cướp đi hai tiểu thiếp của hắn? Chẳng lẽ bà ta nhìn trúng hắn, ghen, muốn gả cho hắn? Ta mà chịu bà già khọm nhà ngươi à! Dương Thu Trì tức anh ách nghĩ.

Tuy không biết nữ tiền bối vì cớ gì mà cướp hai tiểu thiếp của hắn đi, nhưng hiển nhiên bà ta không làm hại hắn hay tiểu thiếp của hắn, vì nói cho cùng chuyện đó dễ như trở bàn tay.

Vậy bà ta cướp tiểu thiếp của hắn rốt cuộc gì mục đích gì? Chẳng lẽ muốn dạy họ võ công để họ trở vệ bảo hộ hắn? Dương Thu Trì cảm thấy ý nghĩ này rất tức cười. Hai tiểu thiếp của hắn tuy mới mười lăm mười sáu tuổi, nhưng đối với người học võ mà nói thì vẫn còn quá sớm. Hơn nữa, nếu bà ta muốn cho người bảo hộ hắn, tại sao không tự đến bảo hộ? Làm chuyện thừa này để làm gì?

Khẳng định là không muốn bắt chẹt tống tiền hắn, vì nếu như thế sau khi cướp Tần Chỉ Tuệ đi xong, ứng ra là phải liên hệ vòi tiền rồi.

Bà ta lại càng không phải là người của Kiến Văn đế. Bọn chúng muốn báo thù hắn, chém một đao chết là được, không thể nào dùng cái chiêu cướp tới cướp lui hết sạch tiểu thiếp của hắn. Chẳng lẽ chúng hy vọng làm thế sẽ khiến hắn tuyệt tử tuyệt tôn? Nếu thế thì quá trẻ con rồi, hơn nữa, nếu bọn chúng thật muốn làm như vậy, trực tiếp giết hay thiến hắn là xong, chẳng phải làm vậy triệt để và sạch sẽ hơn sao?

Dương Thu Trì nghĩ không ra lẽ, ngồi đó ngơ ngẩn đến phát ngốc.

Hạ Bình biết Dương Thu Trì là cẩm y vệ chỉ huy sứ đặc sứ, có quyền tiền trảm hậu tấu, chức trách của nàng là bao vệ cho sự an toàn của hắn và gia đình, nhưng hiện giờ nàng đã để cho thiếu phu nhân bị người bắt đi, Dương Thu Trì nếu như hiện giờ chém trước nàng rồi tâu sau cũng chẳng có ai nói hai lời. Cho dù Dương Thu Trì không chém đầu nàng, kỷ luật của cẩm y vệ nghiêm minh, sự sai lầm này trăm phần trăm là bị xử phạt.

Hạ Bình thấy Dương Thu Trì không nói gì ngồi thừ ở đó, nghĩ là hắn đang nghĩ coi làm cách nào để đày đọa nàng giải hận, lòng không khỏi run sợ, mồ hôi lạnh ứa ra khắp người.

Nam Cung Hùng nhất mực theo sau Dương Thu Trì, thấy tình cảnh này bước lên ôm quyền thưa: "Thiếu gia, Hạ Bình đã thất trách, tội có thể chém, xử phạt thế nào thỉnh thiếu gia định đoạt." Nam Cung Hùng tuy có giao tình không tệ với Hạ Bình, nhưng Hạ Bình phạm phải tội lớn thế này, hắn không dám lên tiếng cầu xin. Tay hắn để lên cán đao, chỉ cần Dương Thu Trì ra ý động thủ, nói không chừng sẽ lập tức xử tử Hạ Bình ngay.

Dương Thu Trì nhất mực ngẫm nghĩ lý do vì sao võ lâm nữ tiền bối bắt tiểu thiếp của mình, căn bản không hề nghĩ xử phạt tội bảo hộ bất lực của ba người bọn Hạ Bình như thế nào, giờ nghe Nam Cung Hùng lên tiếng mới phản ứng, nhìn Hạ Bình chầm chầm mà không nói gì.

Hạ Bình cười thảm: "Thuộc hạ biết tội, cam nguyện chịu chết, cầu đại nhân có thể tha cho người nhà của thuộc hạ. Thuộc hạ tự vẫn ta tội." Nói xong dập đầu liền ba cái, do tay phải đã thụ thương, nên dùng tay trái ngoặc lại định rút trường kiếm ở eo lưng ra.

"Ngươi điên rồi!" Tống Vân Nhi quát lên cả kinh, bước lại giữ chặt tay Hạ Bình, quay đầu nhìn Dương Thu Trì, gương mặt vô cùng bất nhẫn.

Ngưu thiên hộ và Mã Độ lúc này cũng vừa đến, do họ đã biết thân phận của Dương Thu Trì nên không dám can dự loạn vào. Hơn nữa, bọn họ biết kỷ luật của cẩm y vệ, Hạ Bình có tội không làm tròn bổn phận, tội chết có thừa. Trong tình huống này có thể linh hoạt xử phạt, và xử phạt như thế nào tùy thuộc vào quyết định của Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì thật tình rất bực tức với việc không làm hết chức trách của Hạ Bình, nhưng hắn đã tính tới việc nữ tiền bối không muốn giết hắn và tiểu thiếp của hắn, Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình xem ra không có gì nguy hiểm, do đó không nhất định vì tội thất chức mà xử tử Hạ Bình.

Nhưng Dương Thu Trì cũng biết, kỷ luật của cẩm y vệ rất nghiêm minh, nếu như lòng hắn quá mềm, sau này chỉ sợ không trấn áp được ai.

Dương Thu Trì hừ lạnh: "Ngươi cho là ngươi chết xong là hết sao?"

Chồng của Hạ Bình chiến tử trong chiến dịch Tĩnh Nạn, còn để lại hai hài tử và song thân. Hiện giờ nghe Dương Thu Trì nói thế, biến hẳn sắc mặt, toàn thân run bần bật, cho rằng Dương Thu Trì không những muốn giết nàng, mà còn muốn giết toàn gia của nàng. Trong lúc kinh khủng, nàng sụp xuống đất, khóc nấc lên: "Thuộc hạ đáng chết vạn lần, cầu xin ngài tha cho người nhà của tôi, kiếp sau thuộc hạ nguyện là trâu làm ngựa báo đáp đại ân của thiếu gia."

Nam Cung Hùng có giao tình không tệ với Hạ Bình, thấy Dương Thu Trì muốn trị tội liên lụy luôn người thân của Hạ Bình, cố lấy hết can đảm quỳ xuống ôm quyền xin: "Thiếu gia, Hạ Bình tuy có tội thất chức, dẫn đến việc tam thiếu phu nhân bị nữ tặc bắt đi, sinh tử bất minh, tội đáng xử tử. Nhưng cầu thiếu gia niệm tình nàng ta liều mạng bảo hộ chủ thụ thương, tội thất chức này chỉ là do lực bất tòng tâm, xin tha cho người thân của nàng."

Dương Thu Trì làm mặt lạnh như tiền: "Lực bất tòng tâm? Võ công của nữ tặc đó cao vậy sao?"

Hạ Bình dập đầu thưa: "Nữ tặc đó võ công rất cao, trước giờ thuộc hạ mới gặp lần đầu. Nếu như không phải thuộc hạ tận mắt chứng kiến, tuyệt không dám tin trên thế gian này còn có cao thủ như vậy. Thuộc hạ tuyệt không có ý đổ thừa, cam nguyện lãnh cái chết, chỉ bẩm báo như thật để thiếu gia có sự chuẩn bị."

Dương Thu Trì có chút hiếu kỳ, hỏi: "Nếu như ngươi và hai người kia toàn lực ngăn chặn, ngươi cảm thấy ngăn được ả mấy chiêu?"

"Không thể quá mười chiêu." Hạ Bình dập đầu thưa.

Dương Thu Trì chưa bao giờ thấy võ công của Hạ Bình, nhưng vào đêm phục kích truy binh của Kiến Văn, hắn có chút hiểu biết đối với võ công của Nam Cung Hùng, nên quay đầu lại hỏi y: "Võ công của ngươi so với Hạ Bình thế nào?"

Nam Cung Hùng biết Dương Thu Trì đang tìm hiểu võ công của nữ tặc, không dám che giấu, ôm quyền thưa: "Trong vòng một trăm chiêu, thuộc hạ có thể thắng Hạ Bình."

Chỉ bằng con số mà xét, thì nữ tặc này ít nhất hơn gấp mười Nam Cung Hùng, như vậy có thể nói cho dù Nam Cung Hùng cùng toàn bộ hộ vệ có mặt, chỉ sợ rất khó ngăn được sự tiến công của nữ tặc, do đó hắn không khỏi ủ rũ: "Nếu Kiến Văn dư đảng có nhân vật như vậy, e rằng chúng ta không thể...."

Nam Cung Hùng thưa: "Thỉnh thiếu gia yên tâm, theo thiển ý của thuộc hạ, trên đời này sợ khó có kẻ thứ hai có võ công như nữ tặc này, hơn nữa tuyệt không thể nào phục vụ cho Kiến văn, nếu không ả sẽ không chỉ bắt thiếu phu nhân đi thôi."

Lời này ngầm có ý là cậu đừng có sợ, trên đời này chỉ sợ chẳng có ai lợi hại như nữ tặc kia đâu, còn mấy cẩm y vệ hộ vệ chúng tôi đây chẳng phải là nuôi ăn tốn cơm không thôi, trừ nữ tặc kia, nhưng tên khác có đến thì không đến nổi bất lực thế này đâu.

Dương Thu Trì đương nhiên biết nữ tạc không có thể là người của Kiến Văn đế. Hơn nữa, hiện giờ có sợ cũng chẳng có ích gì, và hắn lại còn có cây súng không người, nếu hiện tại hết cách thì lấy ra nói chuyện với ả, võ công ả dù có cao cường, nhưng cao cường sao bằng súng đạn được?

Dương Thu Trì lạnh lùng nói: "Được thôi, nếu đã như vậy, ta không tìm người nhà của ngươi làm phiền chi nữa." Dừng lại một chút, hắn vẫn lạnh lùng nhìn Hạ Bình: "Ngày ấy Lý công công nói gì ngươi cũng nghe rồi, ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?"

Ngày ấy Lý công công có nói, nếu như bọn họ bất lực trong việc hộ vệ cho Dương Thu Trì và gia đình hắn, thì tự chém đầu tạ tội.

Hạ Bình biết lời này của Dương Thu Trì là có ý để nàng tự sát, và không truy cứu đến người trong nhà, liền cảm kích dập đầu mấy cái nói với Tống Vân Nhi: "Tống cô nương, cảm ta cô, tội của tội đáng phải trừng phạt, phiền cô bỏ tay ra, để tôi tự sát tạ tội."

Tống Vân Nhi vẫn còn giữ chặt Hạ Bình, vội hỏi: "Tự sát? Mạng của ngươi không đáng tiền hả? Ngươi chết rồi có ích gì cho chuyện này? Hơn nữa, nữ tặc đó hiển nhiên không muốn giết búp bê bùn. Búp bê bùng sẽ không có chuyện gì, tội của ngươi không đáng chết." Nói xong chuyển sang Dương Thu Trì: "Ca, muội cầu xin cho nàng ấy, huynh tha cho nàng ấy trước, để nàng ấy lập công chuộc tội có được không? Coi như Vân nhi cầu xin huynh vậy!"

Dương Thu Trì đương nhiên không thật tâm muốn Hạ Bình tự sát, chỉ muốn lợi dụng chuyện này tự lập uy tín cho mình, và thầm đoán Tống Vân Nhi sẽ xin tội, hiện giờ chính là lúc mượn thềm xuống lừa, nên nói: "Được thôi, nếu như Nam Cung Hùng và Vân nhi đều cầu xin cho ngươi, ta tạm thời giữ cái đầu trên cổ ngươi lại, để ngươi đái tội lập công, nếu như còn có lần sau, hoặc cứng minh nữ tặc đã giết chết thiếu phu nhân, hừ! Ngươi biết nên làm thế nào rồi đó!"

Hắn nói lời này thật ra là lời tâm lý, bản thân hiện đang đấu với Kiến Văn dư đảng, đối phương đã từng tổ chức đại đội nhân mã tiến hành đánh lén ám sát hắn, nếu như sau này những hộ vệ không liều mạng bảo hộ, đâu của bản thân và người trong nhà dù có mọc thêm chín cái nữa cũng không giữ được. Do đó cần phải để cho bọn họ có cảm giác khẩn bách, nếu như sau này bọn họ bảo hộ không hiệu quả, dẫn đến bản thân hay người trong nhà thụ thương hay xảy ra chuyện, Dương Thu Trì đành phải ngoan tâm giết vài người để lập uy.

Hạ Bình thoát chết không khỏi cảm kích vô cùng, dập đầu mấy cái: "Thuộc hạ minh bạch, nếu như sau này phạm phải tội này nữa, hay sau này chứng minh tam thiếu phu nhân đã bị hại, thuộc hạ lập tức tự vẫn tạ tội!"

"Ừ...! Đứng lên đi. Cùng ta trở về Ninh quốc phủ!"
 
Chương 150: Thăm thân


Dương Thu Trì ủy thác Ngưu thiên hô (vốn là Ngưu bách hộ Ngưu Đại Hải đã được thăng cấp) cùng Mã Độ phát ra văn thư thông tập trên toàn quốc, và tổ chức cho cẩm y vệ truy tìm Tống Tình khắp nước.

Đặc sứ có lệnh, ai dám không theo? Ngưu thiên hộ, Mã Độ thỉnh Dương Thu Trì yên tâm. Bọn họ lập tức an bài việc vẽ hình rồi phát văn thư tìm búp bê bùn Tống Tình trên toàn quốc.

Hai tiểu thiếp trước sau đều bị mất, lại bị cùng một người cướp đi, tuy đã nhờ cẩm y vệ tìm kiếm, nhưng Dương Thu Trì biết nếu như lần trước họ tìm Tần Chỉ Tuệ không được, thì lần này chỉ sợ cũng không thể nào tìm ra.

Búp bê bùn Tống Tình không còn nữa, Dương Thu Trì còn lòng nào ở lỳ tại kinh thành? Hắn liền thỉnh Mã Độ nói với Cố phủ doãn và Cổ hàn lâm rằng mình không thể nào tham gia Lộc Minh yến được, rồi ngay sau đó dẫn Tống Vân Nhi và tùy tùng trở về ngay Ninh Quốc phủ.

Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết thấy Dương Thu Trì trở về liền yên lòng đem mọi chuyện kể ra hết, chẳng khác mấy so với lời thuật của Hạ Bình. mẹ của Tống Tình và Tống đồng tri nghe tin cũng nhanh chóng đến, đặc biệt là mẹ của Tống Tình đang gấp đến phát điên.

Dương Thu Trì đến phòng của búp bê bùn tra xét một hồi, lại nhờ Tống Vân Nhi đưa lên trên nóc phòng, phát hiện giống như lần trước lớp ngói có bị di động, có dấu giày và dấu tay. Khi mang về so sánh với dấu hài dấu tay lần trước, phát hiện tuy hoa văn trên giày bất đồng, nhưng dấu giày phản ánh đặc trưng thân thể phù hợp với nhau, và dấu tay cũng hoàn toàn phù hợp. Như vậy có thể nói người cướp hai tiểu thiếp là một.

Dương Thu Trì đem kết quả quan sát và phán đoán nói với Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và mẹ của Tống Tình, Tống đồng tri, bốn người cũng rất nghi hoặc, không hiểu võ lâm nữ tiền bối vì cớ gì mà trước sau bát cóc hai tiểu thiếp Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình của Dương Thu Trì.

Mẹ của Tống Tình biết người bắt con gái là võ lâm nữ tiền bối, nghe Dương Thu Trì phân tích cảm thấy có đạo lý, biết sinh mệnh con gái sẽ không bị nguy hiểm nên hơi an tâm.

Dương Thu Trì lại cho gọi Nam Cung Hùng, Hạ Bình và hai nữ hộ vệ lại cùng phân tích khả năng người bắt cóc Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình là ai.

Dương Thu Trì phán đoán, người này võ công cao như thế, trên giang hồ xem ra phải có danh phận. Hạ Bình và hai nữ hộ vệ nói lúc đó nữ tặc che mặt, trời lại tối nên chỉ nhận ra bóng dáng và âm thanh của ả, và nếu chỉ dựa vào hai điều đó thì hoàn toàn không có cách gì đoán ả là ai.

Hạ Bình và Nam Cung Hùng tiến hành tra xét trong các cao thủ võ lâm vang danh hiện thời, đều cảm thấy không có người nào có võ công lộ số và công năng như nữ tặc cả.

Dương Thu Trì đối với mấy trò võ công một khiếu chẳng thông, chẳng hề biết số võ lâm cao thủ trong thời Minh triều Vĩnh Lạc gồm những ai, chỉ nghe bọn họ phân tích rồi đưa ra một kết luận: Trong số võ lâm nữ cao thủ hiện thời, chẳng có ai có lộ số võ công phù hợp với nữ tặc. Và điều đáng đau đầu hơn nữa là, rõ ràng là nữ tặc này có võ công cao hơn hẳn một bậc so với các võ lâm nữ cao thủ hiện tại.

Xem ra đây là một cao thủ tịch mịch, thậm chí chưa hề xuất hiện trên giang hồ.

Dương Thu Trì cười khổ, bản thân làm sao mà thu hút sự chú ý của đệ nhất võ lâm nữ cao thủ hiện thời như vậy? Cho dù là rất đáng "nở mày nở mặt", nhưng hắn thà không thèm cái bản mặt nở to như cái đấu này, để hai vị tiểu thiếp trở về trong vòng tay, thậm chí phải tốn bao nhiêu tiền bạc cũng được.

Lần trước vì để tìm Tần Chỉ Tuệ đã kinh động để cẩm y vệ tiến hành truy tra trong phạm vi toàn quốc, đến hiện giờ đã mấy tháng rồi mà không có tin tức gì. Hiện giờ Tống Tình bị cướp đi, nữ tặc tuy lưu lại dấu tay, nhưng ở Minh triều chẳng có cơ sở dữ liệu lưu dấu tay, nếu tiến hành so sánh trên phạm vi toàn quốc thì biết tới chừng nào? Trừ khi phát hiện người hiềm nghi, còn không thì dấu tay này chẳng có chút lợi ích gì.

Dương Thu Trì vô cùng ũ rũ, chẳng có biện pháp nào, chỉ còn biết chờ tin tức từ chỗ cẩm y vệ.

Tiểu thiếp chẳng còn, nhưng hắn buộc phải sống qua ngày mà thôi.

Dương mẫu cùng mọi người biết Dương Thu Trì thi trúng cử nhân rồi thì vô cùng cao hứng, nhưng do tiểu thiếp Tống Tình bị bắt, nên tiệc mừng gì gì đó đương nhiên miễn luôn.

Tống đồng tri (vốn là Tống tri huyện trước kia) biết Dương Thu Trì thi đổ thì vô cùng bất ngờ và vui sướng, nhưng sự bất ngờ mà hắn mang đến chẳng phải chỉ có bấy nhiêu.

Tống đồng tri cùng mọi người vốn muốn Dương Thu Trì tiếp tục tham gia thi hội và thi đình, tranh thủ kim bảng đề danh quang tông diệu tổ. Nhưng Dương Thu Trì nói đã báo danh tham gia tuyển chọn ở Lại bộ để hy vọng có chỗ nào đó còn khuyết để ra làm quan. Điều này khiến choTống đồng tri cùng mọi người vô cùng cả kinh.

Minh triều nếu đậu cử nhân là có thể làm quan, nhưng so với bậc tiế sĩ ra quan thì khó hơn nhiều. Tống đồng tri lo ngại Dương Thu Trì sẽ không được chọn, mà cho dù có được chọn thì để tìm ra một chỗ còn trống cũng đã đau đầu. Nhưng mà dù sao thì làm quan cũng tốt hơn là không làm.

Dương Thu Trì thưa với Tống đồng tri, lần trước hắn cá cược với Tống Vân Nhi, và Dương Thu Trì thắng, kết quả yêu cầu là Tống Vân Nhi làm thiếp thân bảo tiêu cho hắn, cùng hắn đi nhậm chức quan.

Dương Thu Trì rất lo là Tống đồng tri sẽ không đáp ứng, không ngờ lão thống khoái ừ ngay, hơn nữa lại còn rất cao hứng. Dù Dương Thu Trì hết sức vui mừng, nhưng có điểm không hiểu lão hồ ly này đang tính trò gì vậy.

Nếu như Tống đồng tri đã đáp ứng, thì mẹ Tống Vân Nhi đương nhiên không tiện cự tuyệt, hơn nữa, Hàn thị tuy nhiên không muốn rời xa con gái, nhưng biết Dương Thu Trì đối với Tống gia có tính trọng yếu như thế nào.

Chớp mắt đã tới ngày 23 tháng chạp, tức là ngày táo quân bồ tát lên trời báo cáo mọi chuyện, và giấy nhiệm mệnh từ Lại bộ đã đến. Dương Thu Trì lầnnày được bổ nhiệm ở Thanh Khê huyện Hồ Quảng trấn Viễn Châu làm quan tri huyện thuộc hàng thất phẩm.

Dương Thu Trì nhìn tờ bổ nhiệm cảm thấy rất buồn lòng, vì Bạch Tố Mai bị đày ở Vân Nam, còn hắn thì phải đến Hồ Quảng làm quan, không ở cùng một nơi thì làm sao mà chiếu cố.

Tờ bổ nhiệm Dương Thu Trì này là thông qua tri phủ để truyền tới, do đó Tống đồng tri đã biết nội dung của nó, liền mang theo Tống Vân Nhi đến Dương phủ chúc mừng.

Dương Thu Trì được bổ nhiệm làm quan ở Hồ Quảng trấn, Viễn châu, chính là thuộc vùng núi ở tỉnh Quý châu ngày nay. Quý châu tới nam Vĩnh Lạc thứ 11 (tức năm 1413) mới lập tỉnh. Trước lúc này đại giới của Quý châu phân cho Vân Nam, Tứ Xuyên, Hồ Quảng. Trong đó Trấn Viễn châu thuộc Hồ Quảng.

Tống đồng tri làm quan nhiều năm, đương nhiên biết chỗ mà Dương Thu Trì đạt được đương nhiên chẳng ngon lành gì. Trấn Viễn châu này chính là chỗ khỉ ho cò gái ở Minh triều, núi cao vực sâu, dân tình bưu hãn. Thanh Khê huyện là một huyện nằm phía sâu trong trấn Viễn châu, đương nhiên càng khổ hơn.

Tống đồng tri cho Dương Thu Trì biết địa phương mà hắnd được phái tới làm quan chẳng những chẳng có mấy béo bở, mà còn ảnh hưởng đến đường hoạn lộ trong tương lai, bảo Dương Thu Trì bỏ ít tiền đi tìm người trong Lại bộ đổi chỗ khác.

Dương Thu Trì biết chuyện này đều đã dựa vào việc điều tra kỹ Kiến Văn dư đảng mà xác định được, tuyệt không thể đổi chỗ nào khác cả. Địa phương này núi cao rừng thẫm, là chỗ đất cùng hẽm cụt, nếu như vậy thì đúng với chỗ ẩn tàng của các nhân vật trọng yếu của Kiến Văn dư đảng, thậm chí còn có thể có cả bản thân Kiến Văn đế. Chứ nếu như Kiến Văn đế chạy đến Dương Châu thành ẩn náo thì chỉ cần một khắc là bị nhận ra ngay.

Hơn nữa bản thân hắn là một giám sinh đóng tiền mới được vào học, cử nhân đậu vào hàng "nhị bách ngũ", có thể trực tiếp làm thất phẩm tri huyện là đã vượt ngoài ý liệu của mọi người rồi. Tuy làm quan ở chỗ khá "bèo", nhưng xét cho cùng thì phù hợp với thường quy. Nếu như ở chỗ nào khác tốt hơn, biết đâu sẽ dễ dẫn đến sự chú ý của người.

Thời gian gần đây Tống Vân Nhi nhất mực bám quấn quít theo Dương Thu Trì, đương nhiên biết nguyên nhân không vui của Dương Thu Trì không phải vì bị điều đến địa phương nghèo khó, mà là do hắn lo cho chuyện của Bạch Tố Mai, bèn hỏi cha nàng là Tống đồng tri xem Thanh khê huyện trấn Viễn châu ở vùng Hồ Quảng cách Vân Nam bao xa. Tống đồng tri đáp là Hồ Quảng ở sát biên giới Vân Nam, chỉ cần đi một khoảng là tới.

Dương Thu Trì nghe thế vô cùng cao hứng, chỉ cần nhờ quan đề hình án sát sứ ở Vân Nam là Khang Hoài đem an trí mẹ con Bạch Tố Mai ở gần Hồ Quang thì coi như ở cạnh bên nhau rồi!

Hiện giờ hắn có thư dẫn kiến của phủ doãn Cố đại nhân ở Ứng Thiên phủ, đến lúc đó bỏ thêm ít tiền thì xem ra mọi chuyện đều ổn, trong lòng không khỏi thăng lên niềm hy vọng.

Dương mẫu cũng cao hứng phi thường, con trai làm quan rồi, tuy bị điều đến tận Tây nam, nhưng cũng gọi là xuất nhân đầu địa, quang tông diệu tổ.

Phùng Tiểu Tuyết lại càng hưng phấn hơn, không ngờ phu quân trải qua kiếp nạn bị trận quái phong thổi đi quay về chẳng những đối với nàng thật tốt, hơn nữa lại từng bước gặp vận may, vừa phát tài vừa làm quan, hiện giờ đã hoàn toàn làm một huyện lệnh thất phẩm chánh tông.

Trong tâm và mắt của lão bách tính, tri huyện được coi như là quan rất lớn, phu quân của nàng làm đại quan chính là điều mà trước đây Phùng Tiểu Tuyết có nghĩ cũng không dám nghĩ.

Cao hứng có dư, mọi người bắt đầu thương lượng xem khi Dương Thu Trì đi nhậm chức sẽ mang theo người nào. Vợ nguyên phối Phùng Tiểu Tuyết đương nhiên phải đi cùng, hai tiểu thiếp vốn phải đi theo nhưng giờ đã bị nữ tặc che mặt bắt đi. Dương mẫu lớn tuổi, đường đi gian khó, hơn nữa nơi Dương Thu Trì làm quan chẳng phải chỗ tốt gì, chẳng thể nào so với Ninh Quốc phủ phồn hoa vui vẻ được, do đó Dương mẫu được lưu tại nhà, có Tống đồng tri ở lại có thể trợ giúp lẫn nhau.

Hai mươi hộ vệ đương nhiên cần phải theo bảo hộ Dương Thu Trì, Dương mẫu ở nhà có Chu tri phủ giúp thỉnh phiêu sư hộ viện, nhưng Dương Thu Trì vẫn không yên tâm lưu hai nữ hộ vệ lại bảo vệ bên người Dương mẫu. Hạ Bình và ba nữ hộ vệ khác theo bảo hộ Phùng Tiểu Tuyết cùng hắn đến Hồ Quảng nhậm chức, ngoài ra cò có "nữ phiêu sư" Tống Vân Nhi lúc nào cũng sát cạnh hắn.

Ngày 23 tháng chạp coi như sắp qua năm mới rồi, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết bắt đầu xếp đặt cho năm mới, hai tiểu thiếp tuy không thấy đâu, nhưng năm này vẫn phải tổ chức sao cho qua yên ổn.

Ba ngày sau, Dương lão gia tử ở Dương gia thôn nơi quê nhà Quảng Đức huyện phái quản gia gửi cho Dương Thu Trì một thiếp mời, thỉnh toàn gia Dương Thu Trì đến Dương gia thôn hưởng tân niên.

Quản gia này họ Bàng, tuy đã hơn năm mươi tuổi rồi nhưng trông vẫn còn tráng kiện, nói với Dương Thu Trì rằng Dương lão thái gia biết Dương Thu Trì trúng cử nhân, lại được tuyển chọn ra làm tri huyện ở Thanh Khê vùng Hồ Quảng, do đó vô cùng cao hứng, cảm thấy đây là chuyện tốt quang tông diệu tổ, nên thành ý mời cả nhà Dương Thu Trì về quê ăn tết, cùng tế lễ tổ tiên.

Dương Thu Trì cảm thấy hơi buồn cười, cái lão họ Dương này lúc trước bức hắn nạp thiếp sinh con, không sinh được con không cho phép tiến vào từ đường nhà họ Dương, bởi vì cho là hắn làm mất mặt Dương gia. Hiện giờ lại nói hắn làm cho Dương gia quang tông diệu tổ, yêu cầu hắn trở về tế tổ!

Tuy nói Dương lão gia tử này có chút con buôn, nhưng Dương Thu Trì không hề hận lão - nếu như một người bị trưởng bối bức nạp tiểu thiếp, tuy y có phần khóc cười không nổi, nhưng sẽ không hận trưởng bối, bởi vì đối với nam nhân, yêu cầu đó không hề đáng hận tí nào.

Dương Thu Trì thống khoái đáp ứng lời mời này. Hơn nữa, hắn cũng tiện đường đến Hạ gia thôn coi xem trạch viện của mình thế nào.

Bàng quản gia làm việc cho Dương lão thái gia nhiều năm rồi. Dương Thạch Đầu mà Dương Thu Trì tá thi hoàn hồn vào lúc nhỏ thường bị Bàng quản gia đánh mắng thậm tệ.

Lần này Bàng quản gia phụng mệnh đến thỉnh Dương Thu Trì về quê thăm thân, vốn đã chuẩn bị sẵn việc Dương Thu Trì trả thù lại mối hận năm xưa. Người ta hiện giờ là quan lớn, cho dù không đánh không mắng, nhưng lạnh nhạt trào phúng gì đó nhất định là không ít! Nhưng không ngờ Dương Thu Trì chẳng hề đoái hoài gì tới chuyện này, khiến Bàng quản gia vừa ngạc nhiên vừa cảm thấy may mắn.

Dương Thu Trì mời Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết ra thưa chuyện, hai người đều rất mừng. Dương mẫu tuy còn hận Dương lão thái gia trước đây đối với nhà mình tàn nhẫn, nhưng nghĩ đến việc năm xưa Dương lão gia tử không cho họ tiến vào từ đường tế tổ, hiện giờ ngược lại gửi thiếp mời họ về, như vậy có nghĩa là nhận sai rồi, chẳng lẽ phải chờ lão đến quỳ lại dập đầu hay sao? Hơn nữa, lão năm xưa chỉ là án theo lệ mà làm, chẳng có chỗ nào quá phần cả.

Con trai bà hiện giờ đã trúng cử nhân làm tri huyện, vinh quy bái tổ quả là chẳng còn chuyện gì vinh diệu bằng. Do đó, bà cũng vui lòng tiếp nhận sự mời thỉnh của Dương lão thái gia.

Ngày ấy Tống Vân Nhi cũng vừa khéo đến Dương phủ chơi, nghe Dương Thu Trì nói muốn về quê đón xuân, lập tức yêu cầu đi theo. Dương Thu Trì đương nhiên không phản đối, nhưng vẫn yêu cầu Tống Vân Nhi về hỏi ý cha nàng là Tống đồng tri trước mới được.

Tống Vân Nhi quay về xin phép, không ngờ Tống đồng tri chẳng những đáp ứng, mà còn yêu cầu cùng đi theo, nói Dương lão thái gia là bạn đồng niên năm xưa, cách biệt đã lâu, đây chính là lúc thuận tiện đến bái phỏng. Họ quyết định sáng sớm ngày mai cùng xuất phát đến Dương gia thôn.

Bàng quản gia thấy chuyện này quyết định nhanh và dễ như vậy, chẳng những mời được chính chủ, mà còn thỉnh thêm được bạn đồng niên của Dương lão thái gia, quan ngũ phẩm Tống đồng tri của Ninh Quốc phủ, nên vô cùng mừng rỡ.

Mừng thì mừng, nhưng y có phần kỳ quái là Dương Thu Trì thật sự đại nhân đại lượng không kể gì tỵ hiềm năm xưa hay sao? Bàng quản gia dù sao vẫn còn chưa yên tâm.

Ăn cơm tối xong mọi người ngồi ở phòng khách nói chuyện phiếm. Bàng quản gia quanh co thám thính ở chỗ Dương mẫu mới biết Dương đại nhân này đã từng bị quái phong cuốn đi, sau khi quay lại thì mất hết ký ức, mọi chuyện năm xưa đều quên sạch, do đó Bàng quản gia mới yên tâm.

Dương mẫu hỏi Bàng quản gia mọi chuyện thay đổi ở Dương gia thôn sau khi bà đi, Bàng quản gia vui vẻ kể hết.

Dương Thu Trì đối với Dương lão thái gia bức mình nạp thiếp này cũng có chút hiếu kỳ, nên cũng hỏi những chuyện liên quan đến Dương lão thái gia. Bàng quan gia biết Dương Thu Trì bị mất hết ký ức, liền giới thiệu cho hắn tổng quát hết một lượt.

Nghe Bàng quản gia giới thiệu, Dương Thu Trì mới biết thì ra Dương lão thái gia có một vợ hai thiếp. Vợ nguyên phối sinh được một con trai đặt tên là Dương Thanh Thủy, vợ hai sinh được một con gái, vợ ba sinh được một con trai.

Dương lão thái gia yêu thương bà ba nhất, nhưng rất tiếc là bà ba sau khi sinh con không lâu, đầu óc bị vấn đề gì đó phát khùng, đứng ngay trước mặt Dương Thanh Thủy và các nam nhân khác cởi y phụ cầu hoan. Tối hôm đó, khi bà ba khôi phục lại vẻ bình thường, trong lúc hổ thẹn đã treo cổ tự tử.

Từ đó trở đi, ngôi tiểu lâu do tiểu thiếp thứ ba treo cổ đó thường hiện quỷ. Dương lão thái gia vốn ở tại lầu này, tận mắt chứng kiến quỷ hồn của bà ba hiện ra đứng bên giường nhìn lão cười, sợ suýt chết khiếp nên không còn dám ngụ lại ngôi tiểu lâu đó nữa. Ngôi lầu nhỏ này từ đó đóng chặt cửa, không còn ai dám tiến vào.

Thì ra Dương đại trạch viện cũng có một quỷ ốc, lại còn xảy ra nhiều chuyện như vậy. Dương Thu Trì thầm cảm thấy bản thân lần này đến Dương gia thôn không phải chỉ đơn giản là tế tổ tiên không thôi.

Sáng hôm sau, Dương Thu Trì cho người chuẩn bị vài rương lễ vật, cho gọi Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ đưa đi, mọi người ngồi kiệu cưỡi ngựa cùng xuất phát. Bọn họ trước hết đến Quảng Đức huyện ăn cơm trưa, sau đó xuất phát đến Dương gia thôn. Dương gia thôn cách huyện thành không xa, đi được hai canh giờ là đến.

Ngay cửa thôn có một chỗ có một đình nghỉ mát. Dương mẫu cho dừng kiệu. Lần này con trai vinh quy bái tổ, bà cũng đã lâu không trở về quê nhà, nên muốn nhìn cho rõ một chút.

Thế là đội ngũ dừng lại đi xuống, Dương Thu Trì phiên thân xuống ngựa, Phùng Tiểu Tuyết bước ra cùng hắn dìu Dương mẫu đến ngồi ở lương đình, nhìn về Dương gia thôn ở xa xa. Tống Vân Nhi và Tống đồng tri cũng bước theo vào trong đình.

Dương gia thôn là một sơn thôn nhỏ, tọa lạc giữa sườn núi, dựa vào núi mà lập, có khoảng một trăm hộ hầu như đều là thành viên của Dương thị gia tộc. Một con suối nhỏ từ trên núi ngoằn nghèo đổ xuống, hai bên suối có vài khoảnh ruộng bậc thang.

Giữa những ruộng bậc thang ấy có mấy đống đất rải rác, tuyết lớn những ngày trước đổ xuống còn chưa tiêu hết, ở trên các ruộng bậc thang hay gò đất bờ suối này đều còn tuyết đọng lại, phản xa ánh bạch quang u ám.

Dương Thu Trì không biết những gò đất đó là gì, khi quan sát kỹ mới phát hiện đó là những mộ phần phía trước có những mộ bia thấp.

Thấy Dương Thu Trì lạ lẫm nhìn sơn thôn này, hoàn toàn không nhận ra đó là cố hương, Dương mẫu cảm thấy thương cảm kéo hắn lại chỉ mấy cây quế thật to ở cạnh thôn và những dãy phòng đơn giản bên đó, nói: "Nhà chúng ta trước kia ở đó, con lúc xưa quậy phá rất kinh, thường trèo lên mấy cây quế đó hái hoa."

Phùng Tiểu Tuyết rất hiếu kỳ, hỏi: "Mẹ, phu quân là con trai, thích hái hoa để làm gì?"

"Cái đó ấy à, thì nó vì muốn lấy lòng mấy cô nhóc trong xóm, sính anh hùng ấy mà."

Phùng Tiểu Tuyết bất giác mỉm cười, quay nhìn Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì nghe Dương mẫu kể lại chuyện lúc nhỏ của mình, có chút hơi ngượng, tuy đây là chuyện do Dương Thạch Đầu làm trước khi hắn tá thi hoàn hồn, nhưng hiện giờ coi như mọi chuyện đổ lên đầu hắn.

"Hi hi hi," Tống Vân Nhi cười ngoặc nghẻo, "Ca, không ngờ ngay từ lúc nhỏ huynh đã là một hoa hoa công tử rồi đó nghe!"

Dương Thu Trì trừng mắt nhìn Tống Vân Nhi, đưa tay che mắt nhìn về phía mấy cây quế đó một lúc, chẳng thể nào nhận ra rốt cuộc là ngôi nhà nào năm xưa mình đã ở, và cũng lười không thèm quản, bèn hỏi: "Mẹ, vậy Dương lão thái gia ngụ ở đâu?"

Không chờ Dương mẫu trả lời, Bàng quản gia ở sau lưng đã chỉ một đại trạch viện sau thôn nói: "Dương công tử, trạch viện của lão thái gia chúng ta ở sau thôn, ở chỗ đó, phía sau có trồng một rừng cây thật lớn ấy."

Dương Thu Trì thuận theo ngón tay chỉ của Bàng quản gia nhìn về hướng ấy, quả nhiên sau thôn có một rừng trúc xanh rì, giữa đám cây xanh đó có một tòa đại trạch viện, bốn phía dùng hồng tường vi quay quanh, tường cao ngói bích, các lầu gác phòng óc nhiều vô kể, đình đài lâu các đẹp không thể tả.

Dương lão thái gia chính là tộc trưởng của Dương gia thôn, là người giàu có và thế lực nhất trong thôn. Năm xưa lão đã từng trúng cử nhân, được coi là hương thân có công danh, ngụ ở ngôi trạch viên hào hoa như thế này cũng chẳng mấy kỳ lạ.

Sắp tiến vào thôn, Bàng quản gia gọi tùy tòng chạy về báo tin trước. Chờ khi họ tiến vào cửa thôn thì pháo nổ giòn, nhạc vang lên inh ỏi. Khi đến cửa trạch viện của Dương gia, Dương lão thái gia đã dẫn người trong nhà và các hương thân có máu mặt trong thôn ra cửa lớn nghênh tiếp.
 
Chương 151: Hoài nghi


Dương lão thái gia là trưởng bối của Dương Thu trì, do đó, khi mọi người tiến vào thôn xong, hắn liền xuống ngựa tiến đến đại viện của Dương gia.

Bàng quản gia đã biết Dương Thu Trì bị mất ký ức, ưừ ánh mắt mê man của hắn cũng phát hiện hắn không nhận ra Dương lão thái gia, vội vã khom người giới thiệu cho Dương Thu Trì: "Lão nhân mặc trường bào bằng hồng cẩm đó chính là Dương lão thái gia của chúng ta."

Dương Thu Trì nhìn về phía đám người đó, quả nhiên thấy ở giữa có một lão giả mặc hồng cẩm trường bào, đầu tóc bạc phơ, râu cũng bạc, xem ra tuổi tác có phần lớn hơn Tống đồng tri.

Dương Thu Trì bước lên chỉnh lý y phục định quỳ lạy. Dương lão thái gia vội vã đỡ lên: "Hiền điệt, cháu hiện giờ là tri huyện đại lão gia rồi, sao lại hành đại lễ này được, định giết bá phụ ta sao! Ha ha ha."

Dương Thu Trì đương nhiên không phải muốn quỳ lại thật, bụng và lưng chỉ hơi uốn cong tí thôi, nghe nói vậy liền đứng thẳng lên ngay.

Dương Thu Trì dẫn kiến Tống đồng tri cho Dương lão thái gia. Dương lão thái gia quả nhiên vui mừng khôn xiết. Lão không ngờ Tống đồng tri của Ninh quốc phủ cũng cùng theo Dương Thu Trì mà đến, thật là niềm vui bất ngời, lại biết hai người là cử nhân đồng niên đồng bảng, Tống đồng tri còn thông qua mối quan hệ này mà nhận thân với Dương Thu Trì, liền tuyên xưng đó là duyên phận.

Dương lão thái gia đưa mọi người vào Dương gia đại viện, phân chủ khách mời ngồi.

Dương Thu Trì trước hết cho Nam Cung Hùng đưa lễ vật lên, đầy cả mấy rương, khi mở ra toàn là châu báu, lụa là gấm vóc, chói ngời lóe mắt.

Cả nhà lớn bé của Dương lão thái gia thấy Dương Thu Trì ra tay rộng rãi như vậy đều thập phần mừng rỡ, cho nên khoảng cách giữa họ gần gũi và nồng nhiệt lên mấy phần.

Cả phòng khách đầy người nhưng Dương Thu Trì chẳng nhận ra ai, trong khi đó những nam phụ lão ấu này đối với hắn ra vẻ vô cùng quen thuộc và nhiệt tình, tuy sự nhiệt tình đó có mấy phần khoa trương.

Thấy Dương Thu Trì ngơ ngẩn chẳng nhân ra ai, Dương lão thái gia có phần kỳ quái. Dương mẫu vội vã giải thích, nói con trai đã từng bị gió lạ cuốn đi, trở về đã quên hết mọi chuyện lúc trước.

Dương lão thái gia lúc này mội ngộ ra, luôn miệng nói đại nạn không chết tất có hậu phúc, hiện giờ Dương Thu Trì trúng cử làm quan, chính là phúc khí sau trận đại nạn này, mọi người đều cả cười gật đầu khen phải.

Nếu như Dương Thu Trì đã mất ký ức, thì Dương lão thái gia đành nhất nhất giới thiệu mọi người cho hắn làm lễ ra mắt.

Trước hết là nguyên phối Phan thị của Dương lão thái gia. Đấy là một lão phụ nhân đầu tóc bạc phơ, thân hình mập mạp phát phúc, trên mặt có tô một lớn phấn trơn giống như có bôi một lớp mỡ heo vậy. Dương Thu Trì chấp tay thi lễ, Phạn thị cũng biết quy củ, hiểu Dương Thu Trì hiện giờ là huyện thái lão gia, chẳng phải là tên lưu mạnh trong thôn lúc trước, cho nên bà dù là trưởng bối, cũng phải xưng một câu vạn phúc hoàn lễ.

Tiếp theo đó là con trai Dương Thanh Thủy của Phan thị cùng con dâu Chu thị ôm con gái năm tuổi Thảo nhi lên làm lễ ra mắt.

Dương Thanh Thủy lớn hơn Dương Thu Trì vài tuổi, là đường huynh của hắn. Dương Thanh Thủy mặc một trường bào, người giống như tên, thân người cao ốm, ra vẻ văn nhã vô cùng.

Dương lão thái gia giới thiệu là từ khi bà ba Quách thị treo cổ tự tử cho đến nay, Dương Thanh Thủy cũng li khai Dương gia thôn đi du học, cho đến mấy ngày trước mới đặc biệt trở về tế tổ.

Vợ của Dương Thanh Thủy tên Chu thị là một thiếu nữ văn nhã, sinh được con gái đã năm tuổi tên là Thải nhi. Do chưa sinh con trai, Dương lão thái gia nguyên thúc giục Dương Thanh Thủy nạp thiếp, nhưng y ra ngoài du học mãi không về nhà, nên chuyện này đành gác lại.

Bà hai Trương thị bước ra làm lễ kiến diện. Bà ta là tiểu thiếp đầu tiên của Dương lão thái gia, thân hình vẫn còn không tệ, tuy đã bốn mươi nhưng điểm trang vẫn còn mặn mà, áo quần màu xanh có đính thêm một thắt lưng hoa bằng lụa hồng, mặt tô một lớp phấ dày, khi ra mắt mỉm cười như tiểu cô nương vậy, chỉ có điều phấn trên mặt rơi xuống lã chã.

Dương Thu Trì than thầm, tuy chất lượng yên chi thủy phấn của Minh triều không mấy tốt, nhưng bà hai này trát hơi bị nhiều, chẳng hiểu có bị phản ứng gì không.

Bà hai sinh được một cô gái, đặt tên là Dương Ngải Tiểu, nam nay mười bảy tuổi, là đường muội của Dương Thu Trì, vẫn còn chưa xuất giá, cũng bước lên ra mắt Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì nghe Dương lão thái gia giới thiệu, không biết là do giọng nói của lão hay là do hắn nghe lầm, mà nghe từ Dương Ngải Tiểu rất giống với Dương Ái Tiếu (Chú: Chơi chữ, nghĩa là nhột thích cười).

Trong lúc cô gái này bước lên làm lễ với Dương Thu Trì, eo lưng uốn éo loạn cả lên, cái mông tròn lẳn cứ quay mòng mòng theo miêu bộ (catwalk), so với người mẫu còn ra dáng hơn. Chưa kịp nói gì, cô bé đã cười hi hí không ngừng, lúc cười lên rất giống mẹ cô, chỉ có điều không che miệng nên lộ ra hàm rằng xiên đông xiên tây chìa loạn ra như cá trê sứt mép, thậm chí còn có mấy cái răng đã biến thành màu vàng, nhìn không khỏi khiến người ta chua chua nơi cổ. Chỉ có điều, bản thân Ngải Tiểu tự cảm thấy như vậy là tuyệt vời lắm, mắt lúng liếng như điện.

Cuối cùng, bà mụ Lữ thị ẵm một cậu bé khoảng hai ba tuổi ra làm lễ.

Lữ thị tuổi khoảng ba mươi, tay to chân lớn, mới nhìn là biết thuộc loại thiếu phụ sơn thôn. Sau khi nghe Dương lão gia tử giới thiệu, Dương Thu Trì mới biết đứa bé mà Lữ thị ẵm trong nguời chính là đứa con để lại của bà ba Quách thị mới mất từ hai năm trước, tên là Sơn nhi.

Dương lão thái gia giới thiệu hết người trong nhà, lại chuyển sang giới thiệu những trưởng bối có công danh trong thôn.

Sau khi dẫn kiến hoàn tất, Dương lão thái gia trịnh trọng xin lỗi về chuyện trước đây không cho Dương Thu Trì tiến vào nhà từ đường tế tổ, nói hiện giờ hắn đã trúng cử nhân làm quan, lại nạp xong tiểu thiếp, tuy còn chưa sanh con nhưng đã vượt qua những quy định trong tộc như lúc đầu.

Tộc trưởng xin lỗi, Dương mẫu sao dám nhận. Hơn nữa, lúc trước đích xác con bà không ra gì, không có người kế thừa hương hỏa, sao có thể trách tộc trưởng không cho tiến vào từ đường.

Mọi chuyện một khi đã thông, mọi người đều nói cười vui vẻ trở lại.

Dương lão thái gia đêm đó bày yến tiệc tẩy trần Dương Thu Trì và mọi người. Các vị hương thân trong tộc đều đến kính rượu Dương Thu TRì, hắn không từ chối một ai, do đó uống có hơi chếnh choáng.

Trên tiệc rượu khi bàn đến chuyện nạp thiếp, Dương lão thái gia biết Dương Thu Trì nạp liền hai tiểu thiếp rồi bị một nữ nhân thần bí bắt đi, cảm thấy kỳ quái vô cùng. Lão kiến nghị Dương Thu Trì lần sau có nạp thiếp thì hãy đến trốn ở Dương gia thôn, sanh con xong rồi hẳn hay.

Chủ ý này xem ra khá cao minh, Dương Thu Trì ngầm than, nếu không cương được với ả kia thì đành nhu thôi, trốn là thượng sách! Thần bí nữ nhân hết bắt tiểu thiếp này đến tiểu thiếp khác, nếu như vậy có nạp mấy chục cô cũng vô dụng. Nếu thực tế không xong, chỉ còn biết trốn sinh con trước cái đã! Thiên hạ rộng lớn như vậy, tùy tiện trốn chỗ nào đó, bà già kia sao mà tìm được. Có điều như vậy thật là vướng tay vướng chân quá đi mất!

Tiệc rượu tàn, trời đã khuya. Dương lão thái gia tự thân an bày Dương Thu TRì và mọi người nghỉ ở nội trạch.

Dương gia đại viện chia làm hai phần nội và ngoại, dùng một bức tường cao hơn trượng ngăn lại, chỉ có một cửa lớn tiến vào, gần với lối kiến trúc của nha môn chia ra nội và ngoại nha vậy.

Nhà phía ngoài dành cho người hầu, gia đinh cư trú. Nội trạch dành cho Dương lão gia tử và những người trong gia đình cùng các nha hoàn hầu cận ở. Nội trạch có rất nhiều nhà vườn nhỏ, mỗi vị phu nhân, vợ lẽ, thiếu gia và tiểu thư đều có tiểu viện độc lập của mình.

Phòng dành cho khách của Dương gia đại viện cũng phân làm nội và ngoại, quý khách được an bày ở trong nội trạch.

Dương Thu Trì và mọi người nghỉ trong phòng dành cho quý khách ở một tiểu viện đơn độc có hai tầng lầu.

Sau khi ban bài thỏa đương, mọi người đến phòng khách ở lầu hai ngồi nói chuyện phiếm.

Dương lão thái gia thấy Dương Thu Trì và Tống đồng tri cùng mọi người có hơi say, nên phân phù Bàng quản gia đi thông tri cho nha hoàn nấu cháo đậu xanh để mọi người ăn giải rượu.

Dương Thu Trì và mọi người uống vào mỗi người một chén chè đậu xanh đường mật, quả nhiên tỉnh hẳn lên.

Ngồi nói chuyện một hồi, Tống đồng tri cùng mọi người cáo từ trở về phòng ngủ. Dương lão thái gia nói có chuyện muốn nói với Dương Thu Trì. Dương Thu Trì tuy có hơi say, nhưng vẫn ráng lấy tinh thần cùng lão đi ra hành lang.

Từ hành lang nhìn ra ngoài, ở xa có một tòa lầu nhỏ, dưới ánh trăng lạnh xuyên qua tầng mây nhìn mờ ảo phập phù trong gió tựa như một tòa quỷ lầu âm sâm.

Trời đêm ở xóm núi vô cùng tịch mịch. Dương lão thái gia nhìn về phía tòa lầu đó, thở dài sườn sượt, một lúc lâu sao mới cất tiếng nói với Dương Thu Trì: "Hiền điệt, vợ ba của ta, cũng chính là dì ba của cháu, đã sanh cho ta một đứa con trai, ai...!"

Dương lão thái gia lại thở dài một hơi, lúc sau mới nói tiếp: "Cháu có thể đã nghe rồi đó, Dì Quách của cháu trước khi chết đã từng bị nổi điên. Ta sợ chính là điều này, ta không biết trước đây nàng ta có bị như vậy không khi không có ta, nếu là như thế, vậy thì đứa bé này.... ai...!"

Dương Thu Trì đã thoáng đoán được ý nghĩ của Dương lão thái gia, nhưng không lên tiếng, tiếp tục nghe lão nói tiếp.

Dương lão thái gia quay lại nhìn Dương Thu Trì, chòm râu bạc hơi rung rinh, tiếp tục nói: "Do đó ta cứ mãi hoài nghi đứa bé này không phải con ruột của ta. Nghe nói cháu là cao thủ phá án, đã phá nhiều đại án đến nổi truyền khắp Quảng Đức huyện, ai ai đều xem cháu như thần tiên. Ta vẫn luôn muốn thỉnh cháu về giúp bá phụ, nhưng mãi vẫn chưa có cơ hội, cuối cùng giờ mới thỉnh được cháu đến."

Dương Thu Trì khom người thi lễ: "Bá phụ quá tưởng rồi, Thu Trì nào dám đương. Nếu như có điều gì Thu Trì có thể giúp được, bá phụ cứ mở lời, Thu Trì nguyện làm tận tâm kiệt lực."

Dương lão thái gia gật gật đầu, chần chờ một chút, cuối cùng lên tiếng: "Bá phụ chính là muốn, muốn thỉnh hiền điệt cháu giúp, giúp ta tra xem hài tử này rốt cuộc có phải là con của ta hay không!"

"Quả nhiên không ngoài ý liệu," Dương Thu Trì thầm nghĩ, "thì ra Dương lão thái gia này thỉnh mình về Dương gia thôn không chỉ đơn thuần để chúc mừng mình trúng cử nhân quang tông diệu tổ, cấp thêm cho lão tiếng thơm lây, mà còn vì chính bản thân lão, muốn điều tra xem đứa nhỏ đó có phải là con ruột của lão không."

Đối với hắn, giám định không phải là chuyện khó, chỉ có điều nó cần máy giám định DNA ở trên tạp xa kia, ngoài ra còn cần phải có đủ nguồn điện.

Nhưng giờ mọi thứ cần đó đều không có, như thế thì hơi khó đây! Hắn hiện giờ chỉ có thể tiến hành giám định nhóm máu, hơn nữa các dụng cụ giám định và thuốc thử đều để ở Ninh Quốc phủ, cần ngay không thể được.

Trong giám định thân nhân, các biện pháp xác định nhóm máu chỉ có thể dùng để bài trừ mối quan hệ thân thuộc, ví dụ như, nếu cha có nhóm máu A, mẹ có nhóm máu AB, thì con cái không thể nào có nhóm máu O được, nếu đứa trẻ có nhóm máu O, thì nó tuyệt đối không phải là con của hai người họ. Như vậy có thể nói, dựa nhóm máu có thể xác định cậu bé đó không phải là con của hai người, nhưng không thể khẳng định đứa bé đó là con ruột của họ hay không (*).

Nhưng mà, nếu như có thể bài trừ mối quan hệ thân thuộc giựa chú bé Sơn nhi và Dương lão gia tử, thì coi như hắn đã đạt được mục đích rồi.

Dương Thu Trì gật đầu đáp: "Tiểu điệt nhất định tận lực." Nghĩ một chút, hắn tiếp: "Để tra rõ vấn đề này, tiểu điệt cần một chút máu của bá phụ, Sơn nhi tiểu đường đệ, ngoài ra còn chút huyết của dì Quách."

Nói đến đây, Dương Thu Trì lập tức nghĩ đến việc Quách di nương đã chết hai năm rồi, còn đâu mà "xin tí huyết" bây giờ?

Dương lão thái gia tuy không biết chuyện giám định nhóm máu của thời hiện đại, hưng ở cổ đại có tục "nhỏ máu nhận thân", vì thế khi Dương Thu Trì đề xuất lấy huyết của ba người, lão cho rằng nó hợp tình lý, đáp: "Ta và tiểu đường đệ của cháu thì không vấn đề gì, chỉ độc có máu của Quách di nương thì khó, vì nàng ấy đã chết rồi, còn đâu nữa mà lấy?"

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, dè dặt nói: "Nếu không có máu thì có thể ... khai quan nghiệm thi, lấy một ít tóc của Quách di nương hoặc là chút da gì đó cũng được." Tuy Quách di nương đã chết hai năm, rất có khả năng đã hóa thành bạch cốt, nhưng từ xương hoặc lông tóc có thể tra ra nhóm máu, chứ không cần phải có máu tươi.

"Khai quan kiểm nghiệm?" Dương lão thái gia nhíu mày, đây là một chuyện rất kỵ húy, nhưng dù sao thì chuyện Sơn nhi có phải là con của lão hay không trọng yếu hơn nhiều. Nếu như đứa bé không phải là con của lão, lão đã từng đội mũ xanh (bị cho cắm sừng), lại còn nuôi con không cho người khác, thì sự sỉ nhục này Dương lão thái gia quyết không thể chịu được.

Dương lão thái gia hỏi Dương Thu Trì: "KHai quan kiểm nghiệm có thể tra rõ được không?"

Không có DNA để xác định chính xác thì làm sao dám đảm bảo? Dương Thu Trì chỉ dám nói: "Có hy vọng, dù không dám nói nhất định sẽ tra ra cho rõ, nhưng tiểu điệt sẽ tận hết năng lực."

"Có hy vọng thì tốt rồi!" Dương lão thái gia gật đầu, hạ quyết tâm, "Sáng ngày mai chúng ta đi khai quan kiểm nghiệm vậy."

Dương Thu Trì gật đầu đồng ý, hai người lại nói chuyện phiếm một hồi, trời vào khuya, ánh trang đã khuất sau tầng mây, ngôi lầu nhỏ xa xa tối hẳn lại, dưới bóng núi đen sì không phân ra được đâu là núi, đâu là lầu.

Đến lúc này Dương Thu Trì mới phát hiện căn lầu đó không hề có đèn, chìm ngập trong bóng tối dày đặc, cảm thấy rất kỳ quái, hỏi: "Bá phụ, căn lầu đó không có ai ở hay sao? Sao lại tối thui như thế?"

Dương lão thái gia nhướn mắt nhìn về phía ngôi lầu, đáp: "Quách di nương của cháu chính ngụ trong lầu đó, và cũng treo cổ ở cột nhà trên đó. Từ đó về sau không ai ngụ ở đó nữa. Ta nhất mực muốn phá bỏ nó đi, nhưng không nhẫn tâm, nên cứ để thế."

Dương Thu Trì lập tức nhớ đến lời Dương mẫu nói, chẳng lẽ đây là ngôi lầu thường hiệnquỷ hay sao? Dương Thu Trì không tin vào quỷ thần, cũng không quan tâm đến điều đó nhiều, chỉ tùy tiện hỏi: "Bá phụ, tiểu điệt nghe nói ngôi lầu đó thường có quỷ, phải không?"

Thông qua ánh đèn truyền từ nhà phía sau, Dương Thu Trì rõ ràng cảm giác được sắc mặt của Dương lão thái gia tái nhợt, hai con mắt đầy vẻ sợ hãi tránh tòa lầu đó, ấp úng nói: "Muộn quá rồi, cháu ngủ đi, ta cũng đi đây."

Không chờ Dương Thu Trì phản ứng, Dương lão thái gia đã vội xoay người đi xuống lầu, dường như sợ Dương Thu Trì sẽ tiếp tục hỏi thêm điều gì nữa vậy.

Đêm đã về khuya, Dương Thu Trì cũng buồn ngủ, bước vào phòng đóng cửa lại. Phùng Tiểu Tuyết giúp Dương Thu Trì rửa chân, hai người cởi đồ lên giường ôm nhau ngủ.

Không biết bao lâu, Dương Thu Trì chợt giật mình tỉnh giấc, miệng khát cháy cả cổ họng. Nếu mà ở nhà, thì hắn đã gọi nha hoàn Tiểu Điệp của Phùng Tiểu Tuyết rót trà bưng lên. Nhưng đây là phòng dành cho khách ở Dương gia đại viện, lại chỉ có một gian, do đó Tiểu Điệp và ba nha hoàn khác đều không thể ở cùng, được an bày ngủ ở phòng kế bên.

Không còn cách nào khác, Dương Thu Trì chỉ còn biết tự xuống giường quờ quạng đến bên bàn dốc bình trà lên tu ừng ực một hơi hết cả nửa bình.

Dương Thu Trì chuyển thân định quay về giường ngủ tiếp, đột nhiên ấn ước nghe phía ngoài có tiếng nữ nhân khóc, liền nghĩ ngay đến căn lầu nháo quỷ đó, cơn buồn ngủ liền bay mất.

Tiếng khóc từ hướng căn lầu truyền lại, Dương Thu Trì dỏng tai lên nghe kỹ, tiếng khóc này thút thít nghẹn ngào, lúc có lúc không, không thể nào xác định cho rõ, nhưng tuyệt không phải là ảo giác. Chẳng lẽ bản thân hắn đang nằm mộng? Dương Thu Trì tự nhéo tay, rất đau, không phải mộng!

Hắn là pháp y, từ xưa tới giờ không tin có quỷ thần, nhưng mà trong đêm khuya canh vắng như thế này mà ở căn lầu có quỷ kia chợt truyền đến tiếng khóc của nữ nhân, ít nhiều cảm thấy sởn gai ốc, vừa cảm thấy hiếu kỳ.

Hắn không gọi Phùng Tiểu Tuyết dậy, sợ nàng nghe xong sẽ sợ hãi, len lén đến bên cửa sổ, rút chốt, khe khẽ mở một khe nhỏ rồi nhìn ra ngoài.

Vầng trăng không biết đã chui khỏi tầng mây từ hi nào, vẫn lạnh lùng chiều lên các mái ngói đỏ tường hồng, tạo nên màu sắc giống như vô số thi thể mà hắn đã từng giải phẩu, nhợt nhạt, ỷ ôi.

Tiếng khóc rõ ràng là truyền từ căn lầu đó lại, tuy không lớn nhưng rất rõ ràng, lúc mất lúc có.

Căn lầu đó chẳng phải đã khóa chặt, không có ai ở qua từ khi Tam di thái Quách thị treo cổ tự vẫn rồi hay sao? Như vậy, người khóc lóc trong căn lầu tối đó là ai? Chẳng lẽ là ma quỷ thật?

Dương Thu Trì không tin vào quỷ, do đó hắn mở mở cửa bước ra ngoài hành lang, tay nắm chặt lan can chong mắt nhìn về phía lầu.

Tiếng khóc đó đã dừng, chỉ còn ánh trăng vời vợi.

Dương Thu Trì chờ một lúc, nữ nhân đang khóc dường như biết Dương Thu Trì chú ý, nên đã dừng hẳn tiếng khóc.

Thấy không có động tĩnh, Dương Thu Trì xoay người định quay về phòng, không ngờ tiếng khóc đó lại vang lên, rất thê lương, chẳng ai giúp, chẳng biết vì sao Dương Thu Trì cảm thấy tiếng khóc này càng lúc càng quen thuộc.

Đột nhiên, trái tim của hắn giống như bị một cái búa tạ đập mạnh, toàn thân sững sờ, bỡi vì hắn phát hiện tiếng khóc này rất giống búp bê bùn Tống Tình!

Dương Thu Trì lại chồm tới lan can, định kêu, nhưng tiếng khóc đã dừng lại. Hắn không dám xác định phán đoán của mình, búp bê bùn Tống Tình sao lại đến nhà của Dương lão thái gia? Chẳng lẽ Dương lão thái gia phái nữ tặc đó đến cướp búp bê bùn?

Không đúng, nữ tặc ấy chẳng phải là người mà một địa chủ như Dương lão thái gia có thể chỉ huy hay sử dụng. Chẳng lẽ nữ tặc tha cho Tống Tình, rồi Dương lão thái gia đột nhiên gặp Tống Tình, đưa nàng về nhốt trong Dương gia đại viện, lại nói dối với mình là trong lầu đó có quỷ?

Không thể trả lời cho thông được! Nếu là như thế, Dương lão thái gia nhất định sẽ không nhốt Tống Tình trong căn lầu đối diện với hắn, cái lão có chính là nhiều đất!

Đầu óc của Dương Thu Trì chuyển biến rất nhanh, nếu như người đang khóc trên lầu kia chính là Búp bê bùn Tống Tình, như vậy có thể là hiểu lầm gì đó, nếu không trong chuyện này nhất định có một âm mưu động trời!

Tuy hiện tại hắn không dám khẳng định cô gái khóc lóc kia là tiểu thiếp búp bê bùn Tống Tình của hắn, nhưng nếu như đã phát hiện tung tích của búp bê bùn, cho dù chỉ một chút đầu dây mối nhợ, Dương Thu Trì cũng tuyệt không thể bỏ qua.

Do đó, hắn quyết định đi xem coi rốt cuộc đó là ai.

Chú thích:

(*) Xác định nhóm máu và di truyền nhóm máu:

Trên hồng huyết cầu của mỗi người có những kháng sinh (angigen) A, hoặc B, hoặc cả A và B, hoặc không có kháng sinh A hay B nào cả (nhóm máu này được gọi là O, tức không có A hay B). Như vậy có tất cả 4 nhóm máu: A, B, AB và O. Việc hia nhóm này là dựa theo một số hóa chất carbohydrates và proteins đặc thù trên hồng cầu. Có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng những nhóm chính là O, A, B và yếu tố Rhesus. Vì những lý do chưa được khám phá, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu gây tác hại cho cơ thể.

Người thuộc nhóm máu nào đó thì có kháng sinh (antibody) chống lại nhóm máu kia. Thí dụ: Người thuộc nhóm máu A thì có kháng sinh chống lại máu nhóm B. Người thuộc nhóm AB thì không có kháng sinh chống lại A và B. Người thuộc nhóm O thì có kháng sinh chống lại cả A và B. Vì thế mà khi truyền máu, cần truyền máu cùng nhóm.

Kháng sinh ABO trong máu được di truyền từ cả hai người mẹ và người cha. Người thuộc nhóm máu A thì thể có một nhiễm thể (gene) A hoặc hai nhiễm thể A. Viết tắt là AO hoặc AA (AO hay AA đêu thuộc nhóm A) Người thuộc nhóm máu B thì là : BO hoặc BB. Người thuộc nhóm AB thì là AB. Người thuộc nhóm O thì là OO (tức không có gene A hay B).

Mẹ A và cha A thì sanh con có máu thuộc nhóm A.

Mẹ A và cha O thì con cũng là A.

Me A và cha B thì con là AB,

Mẹ B và cha 0 thì con là B,

Mẹ B và cha B thì con là B,

Mẹ O và cha A thì con là A,

Mẹ O và cha B thì con là B

Mẹ O và cha O thì con là O.

Mẹ O và cha AB thì con là A hoặc B (chứ con không phải là O hoặc AB)

Dựa vào phương pháp trên, có thể loại trừ người nào không phải là cha giữa hai người đàn ông khác nhóm máu và đứa bé.
 
Chương 152: Quỷ ốc


Do cô gái ấy rất có thể là Tống Tình, lại liên quan đến trưởng bối của hắn - Dương gia thôn tộc trưởng, hơn nữa lại không rõ chân tướng của câu chuyện, nên trước khi làm rõ có phải là Dương lão thái gia giam giữ Tống Tình ở căn lầu đó hay không, và với mục đích gì, Dương Thu Trì không muốn làm lớn chuyện. Do đó, hắn quyết định không gọi người khác, thậm chí không gọi cả Tống Vân Nhi và đội trưởng đội hộ vệ Nam Cung Hùng.

Dù gì thì cây súng ngắn vẫn nhất mực đeo ở bắp chân hắn. Thứ đồ chơi này có thể nói là cao thủ của cao thủ, đủ để bảo hộ cho sự an toàn của hắn rồi. Hơn nữa đây là Dương gia đại viện, không có người ngoài, cửa nội trạch đã đóng, ngay cả gia đinh cũng không vào trong được, hơn nữa hắn không phát hiện Dương lão gia tử và người nhà lão có gì ác ý với bản thân hắn.

Dương Thu Trì nhanh chóng xuống lầu, đến cửa viện, thật kỳ là là cửa của viện này lại mở hé ra.

Dương lão gia tử chẳng phải nói là cửa vườn vào căn lầu này luôn khóa hay sao? Chẳng lẽ vừa có người tiến vào trong?

Dương Thu Trì cẩn thận quan sát cửa lớn, tuy có ánh trăng nhưng hôn ám phi thường, căn bản chẳng thấy gì cả.

Đành lấy cẩn thận làm đầu vậy! Dương Thu Trì rùn người xuống, nhìn phải nhìn trái thấy không có độn tĩnh gì, bèn rút súng ngắn ra lên đạn, gạt chốt bảo hiểm sẵn. Có như thế trong tình huống khẩn cấp, hắn có thể bắn được ngay.

Dương Thu Trì đút súng vào bao, thẳng lưng đẩy cửa vườn bước vào trong.

Trong vườn cỏ mọc đầy, cỏ xanh cây thắm còn đọng lại tuyết trắng chưa tan hết.

Mượn ánh trăng, hắn từ từ tiến vào vườn, bước lên bậc thang.

Các phòng trên lầu đều có xích sắt khóa lại. Dương Thu Trì cầm khóa sắt lên xem, thấy đã bị khóa chặt bèn bỏ xuống, áp tai vào cửa nghe ngóng, bên trong chẳng có âm thanh gì.

Chính vào lúc này, tiếng khóc lại cất lên, lại còn rên rên rỉ rỉ như có như không. Âm thanh này truyền xuống từ trên lầu.

Đang lúc Dương Thu Trì muốn cẩn thận nhận ra xem tiếng khóc đó có phải là của Búp bê bùn Tống Tình hay không, thì nó vụt biến mất.

Dương Thu Trì bước lên thang lần lên lầu. Tiếng kót két vang lên điết tai trong trời đêm tĩnh lặng.

Đến tầng 2, hắn thấy lầu này rất giống lầu hắn ở, có một hành lang dài, ngoài ra còn có một hàng khung cửa sổ. Hắn vừa nhìn dãy cửa sổ này, vừa thẳng tiến dọc theo hành lang.

Giấy dầu trên cửa sổ đã hư nát, Dương Thu Trì mượn một lổ trống trên đó nhìn vào trong phòng, thấp thoáng thấy giường, bàn ghế và đồ đạc, chỉ có điều tối om không nhìn sao cho rõ được.

Hắn bước lên trước vài bước, thấy có một cửa không hề khóa, vừa bất ngờ vừa cao hứng, khe khẽ đẩy vào, cửa phòng kêu két một tiếng mở ra. Âm thanh này rất khô khóc nghe buốt tận cả răng, nhưng cũng từ đó Dương Thu Trì phán đoán cửa này đã lâu chưa có ai mở.

Căn phòng khá rộng, nhưng tối om không thấy gì. Dương Thu Trì đứng ở cửa gọi: "Búp bê bùn....!' Dừng lại một chút, hắn lại gọi tiếp: "Tình Tình...!"

Âm thanh vang vọng trong căn phòng tối, không có tiếng trả lời.

Chẳng lẽ hắn nghe lầm? Dương Thu Trì không gấp tiến vào phòng, tiếp tục dọc theo hành lang mà tiến, lát sau đã đến tận đầu, không phát hiện được cửa phòng nào nữa.

Cả lầu hai này chỉ có một cửa!

Một luồng gió lạnh từ trong thổi ra, Dương Thu Trì hơi kinh dị, trong phòng làm gì có gió? Luồng gió ấy giống như có người núp từ trong đó thổi thốc về phía hắn vậy.

Dương Thu Trì cảm thấy sau lưng ớn lạnh, chợt quay ngoắt lại, các lớp giấy dầu trên cửa sổ cũ nát quả nhiên hơi rung rinh như thật có gió từ trong thổi ra vậy!

"Ai...!" Dương Thu Trì quát lên một tiếng.

Luồng gió ấy đột nhiên ngừng hẳn lại.

Trong phòng có người!

"Ai....! Bước ra đi! Đừng giả thần giả quỷ nữa!" Dương Thu Trì lớn tiếng hô.

Không ai trả lời, nhưng lại nghe được tràng cười khe khẽ, dường như là của một tiểu cô nương tinh nghịch đang đắc ý làm trò. Tiếng cười này rõ ràng là phát ra từ sau cửa sổ.

"Tình Tình, là nàng phải không?" Dương Thu Trì lấy hai tay chụp lên cửa sổ, cất tiếng hỏi.

Tiếng cười vẫn rất rõ, vẫn ở sau cửa sổ.

Dương Thu Trì đột nhiên xé bỏ lớp giấy dầu trên cửa sổ, roẹt một cái, một khoảng trống lớn đã lộ ra.

Mượn ánh trăng mờ ảo, quả nhiên hắn nhìn thấy có một nữ nhân đứng trong phòng đang nhìn hắn cười, tuy nhiên lại không quen.

Nữ nhân này tuổi rất nhỏ, đôi mắt rất to, nụ cười rất ngọt ngào.

Chẳng lẽ nữ quyến nào đó của Dương lão thái gia ban đêm chạy vào đây? Chẳng thể đường đột, Dương Thu Trì nhanh chóng khom người làm lễ: "Xin lỗi, ta nghe trên lầu có người, nên lên đây xem thử..."

Vừa nói đến đây, Dương Thu Trì đột nhiên cảm thấy không đúng. Dương lão thái gia nói ngôi tiểu lâu này không có ai ở từ khi tiểu thiếp đó treo cổ chất, hiện giờ ở đâu ra nữ nhân này?

Dương Thu Trì đột nhiên ngẩng đầu nhìn, nữ nhân kia không còn thấy đâu nữa!

Điều này suýt khiến hắn giật nảy người, thật đúng là gặp quỷ rồi!

Chẳng lẽ hắn đang gặp mộng? Dương Thu Trì nhéo mạnh vào tay, cảm giác thật đau, xác định không phải là mộng!

Vậy cô gái kia trốn rồi sao? Vào trong coi sao.

Dương Thu Trì xoay người định đi vào trong, nhưng chợt đứng sửng lại, bởi vì hắn thấy có một bóng trắng đứng ở cửa, à không, nói đúng ra là bay ra cửa, bỡi vì cô ta không có chân, dưới quần trống hươ trống hoắc, cả người cách sàn nhà hơn xích, bay là là trên không.

Nữ tử đó đang nhìn hắn cười khì khì.

Dương Thu Trì sợ đến nỗi lùi lại hai bước, vừa lùi vừa kêu lên một tiếng cả kinh. Hán cúi người định rút súng, nhưng chợt nhớ ra đối với quỷ thì dù có dùng súng cũng bắn không chết! Chỉ có thể dùng pháp thuật, nhưng pháp thuật hắn có thể lấy ở đâu ra?

Đột nhiên hắn nhớ đến lúc nhỏ, mỗi khi mẹ kể chuyện về quỷ, có nói đi ban đêm khi đi đường gặp vật gì kỳ quái, cứ niệm câu "Nam mô cứu khổ cứu nạn bạch y quan thế âm bồ tát", tay bắt ấn giơ ra, quỷ sẽ biến mất không còn tung tích nữa.

Chuyển về quỷ sao có thể coi là thật được, nhưng mà hiện giờ thà tin là có còn hơn là không, vì Dương Thu Trì không nghĩ ra được biện pháp đối phó nào hay.

Dương Thu Trì nhắm mắt lại, niệm thần chú, tay bắt pháp ấn quát lên một tiếng đưa ra.

Tiếng cười đột nhiên dừng hẳn!

Dương Thu Trì mở mắt ra, nữ tử kia đã biến mất. Hiệu nghiệm! Xem ra hiệu nghiệm thật! Dương Thu Trì trước giờ không tin quỷ tin thần, hiện giờ bắt đầu có phần bán tín bán nghi.

Có cái hộ thân phù đó, gan của Dương Thu Trì bắt đầu phình to, tay bắt pháp ấn, mượn ánh trăng mờ ảo bước lại mở cửa tiến vào phòng.

Căn phòng lớn này quả nhiên là phòng khách, hai bên có hai cánh cửa đều khép hờ, trên cửa có treo hai cái màn màu trắng.

Dương Thu Trì bước đến trước gian phòng lúc nãy có nghe tiếng nữ nhân khóc lóc đó, tay phải bắt pháp ấn, tay trái vén màn chong mắt nhìn vào trong.

Quỷ ốc(II)

Dương Thu Trì bước đến trước gian phòng lúc nãy có nghe tiếng nữ nhân khóc lóc đó, tay phải bắt pháp ấn, tay trái vén màn chong mắt nhìn vào trong.

Bên trong không người, mượn ánh sáng từ cửa sổ bị xé rách, Dương Thu Trì từ từ tiến vào trong.

Đây là một phòng ngủ, bên cạnh cửa sổ là bàn trang điểm có để một đồng kính phản xạ ánh sáng xanh lạnh.

Bên cạnh đó dường như có một xích đủ đặt sát một trà kỷ nhỏ.

Sát góc phòng có một giường lớn, đây là một giường gỗ theo kiểu cổ, trên có điêu khắc hoa văn. Màn được để rũ thấp, che rất kín. Cạnh giường để một cái nôi đưa em nhỏ, trên đó có trải một tấm vải bố màu đem.

Trong nội tâm Dương Thu Trì đột nhiên dậy lên một ý nghĩ, cái nôi này nhất định đang có một đứa bé đặt trong đó, hắn muốn nhìn thấy mặt đứa bé, hắn muốn đến xem.

Từ từ bước lại cạnh nôi, hắn đứa tay kéo một góc tấm bố lên, rồi chợt giật mạnh.

Vụt một cái, một bóng đen phóng ra ngoài, khiến Dương Thu Trì giật mình một tiếng kêu lên hoảng hốt tránh né.

Bóng đen đó dừng lại dưới đất, rồi từ từ di chuyển mà chẳng có âm thanh nào phát ra. Sau đó, nó nhảy lên bàn trang điểm, đứng đó kêu "ngao...!" một tiếng dài, thì ra là một con mèo mun!

Dương Thu Trì thở dài nhẹ nhõm, đột nhiên nhớ ra người xưa từng nói ở chỗ có tà ma thường thấy mèo, đặc biệt là mèo đen, vì quỷ hồn của người chết thường tụ hợp lại trên người của mèo!

Dương Thu Trì là pháp y, suốt ngày tiếp xúc với thi thể, thậm chí đã từng một mình trong nhà xác giải phẩu rất nhiều bộ phận cở thể người, bên cạnh bàn giải phẩu không biết để cơ man nào là nội tạng của thi thể đã trống rỗng, bền ngoài còn để vài xác chết chưa tẩm liệm.

Hắn sinh hoạt giữa "đống" người chết đó, cho nên hắn chưa hề biết sợ người chết, hắn nhìn người chết giống như nhìn hoa cỏ củ cà, cảm thấy vô cùng bình thường, thậm chí còn lấy làm kỳ vì sao người ta lại sợ người chết.

Nhưng hôm nay lại bất đồng, thứ hắn nhìn thấy không phải là thi thể, mà là một nữ nhân, là một nữ nhân trốn trong lầu quỷ khóc lóc, là một nữ nhân biết bay trong không trung, không có chân, và biết nhìn hắn cười!

Hơn nữa đây không phải là giấc mộng.

Do đó hắn thật sự cảm thấy sợ, thứ sợ này không phải đến từ người chết, mà đến từ sự tử vong.

Hắn nhìn con mèo trừng trừng, con mèo như một bức tượng, đứng bất động ở đó.

Dương Thu Trì quyết định không để ý đến nó nữa, chuyển thân nhìn cái giường gỗ điêu khắc bị màn che phủ, phảng phất như nhìn thấy bạch y nữ tử vừa rồi đang nằm trong đó, trên gối còn lòa xòa mấy lọn tóc.

Sự tình vừa rồi quả thật là quỷ dị, Dương Thu Trì quyết định tìm cho tới xem rốt cuộc là cái gì.

Miệng hắn lầm thầm niệm chú, tay phải bắt ấn, tay trái đưa ra vén màn kéo mạnh ra, pháp ấn đánh vụt tới...

Cái mà hắn mong đợi giống như trong phim ảnh vậy, đó là bóng tối chợt xuất hiện hỏa quang, trong đó có tiếng quỷ kêu thảm để rồi hóa thành tro bụi. Nhưng bên trong màn chẳng có tiếng động gì, tối đen nhìn không ra gì cả.

Dương Thu Trì thò đầu vào xem, trên giường không có quỷ hồn, cũng chẳng có nữ nhân, mà chỉ là một giường trống hoác, mền gối được xếp rất chỉnh tề, trên giường có một cặp gối cũng xếp ngay ngắn kề liền nhau như một đôi uyên ương vậy.

Đúng là gà mái mấp máy gà cồ, Dương Thu Trì thầm mắng và bỏ màn xuống, quay người bước ra ngoài, con mèo đen trên bàn trang điểm chợt kêu ngao một tiếng thật to, nhảy phốc xuống chạy vút ra ngoài cửa.

Dương Thu Trì đứng trong căn phòng tối đen âm sầm này, cứ cảm thấy sau lưng có một đôi mắt đang nhìn mình, khi quay đầu lại nhìn thì chẳng thấy gì cả.

Phía bên kia phòng khách còn một phòng khác nữa, Dương Thu Trì quyết định đi xem, nếu như không có gì thì quay về. Hắn không muốn nhìn bạch y nữ nhân bay là là ở không trung nhìn hắn cười lần nào nữa, không cần biết ả là quỷ hay là người.

Dương Thu Trì cúi đầu dò đường lần ra ngoài, ra cửa bước vào phòng khác.

Đột nhiên, hắn sửng người, cửa lớn kia không biết bị đóng từ khia nào. Ánh trăng soi qua các lổ hổng trên cửa sổ, lạnh lùng bày ra luồn ánh sáng trắng lốp đốp như vô số cặp mắt đang nhìn hắn.

Không chờ Dương Thu Trì hiểu rõ là ai đã đóng cửa, khóe mắt hắn chợt cảm thấy có điều gì đó không ổn, quay đầu lại nhìn, đột nhiên hai mắt hắn nhìn sửng vào rường nhà giữa phòng khách, lông tóc toàn thân đều dựng ngược cả lên: trên xà nhà kia đang có một người bị treo cổ, áo trắng quần trắng, đầu gục xuống, sắc mặt trắng nhợt, hai con mắt đang nhìn hắn cười khịt khịt!

Dương Thu Trì sợ hãi kêu thét lên một tiếng, chân loạng choạng lùi lại sau mấy bước, chợt trượt chân ngã xuống, hậu não đập mạnh vào vật gì khá cứng, tức thì ngất đi.
 
Chương 153: Hai khả năng


"Phu quân...! Phu quân....!" Bên tai truyền đến tiếng gọi xen lẫn tiếng nghẹn ngào của Phùng Tiểu Tuyết, đầu nhức buốt, Dương Thu Trì từ từ mở mắt, cảm thấy ánh sáng quá chói!

Hắn lập tức nhắm mắt lại.

"Ca...! Huynh tỉnh rồi, hay quá!" Đó là tiếng reo mừng của "nha đầu điên" Tống Vân Nhi.

"Con à...!" Tiếng Dương mẫu sụt sùi gọi.

Ta ở đâu thế này? Dương Thu Trì cố gắng nhớ lại, đầu đau như dần.

Hắn đưa tay đặt lên trán, từ từ mở mắt ra, dần thích ứng với ánh sáng chói mắt mới bỏ tay ra.

Trời đã sáng hẳn, bốn bên đều là người. Thê thiếp của Dương lão thái gia, con trai con gái, quản gia đều vây lấy hắn. Tống đồng tri và Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ đều ở sát bên giường.

Phùng Tiểu Tuyết quỳ cạnh Dương Thu Trì ôm đầu hắn, mắt lệ nhạt nhòa, thấy hắn tỉnh lại vui mừng reo lên: "Phu quân..." Rồi đứa tay gạt lệ hỏi, "Chàng cảm thấy thế nào rồi?"

"Đầu đau quá, ta đang ở đâu thế này?" Dương Thu Trì muốn gượng ngồi dậy, Tống Vân Nhi đang ở cạnh đó thấy vậy giúp Phùng Tiểu Tuyết đỡ hắn lên, nói: "Ca, đầu huynh bị ngã toát ra rồi, chảy máu nhiều lắm, đương nhiên là đau rồi."

Dương lão thái gia đứng cạnh đó thở phào: "Tỉnh rồi, tốt, Thu Trì không có gì là may rồi!"

Dương mẫu cũng vui vẻ nói: "Đúng a, nhờ ơn tổ tông phù hộ." Xong ứa lệ nhìn Dương Thu Trì: "Con à, con sao lại chạy đến đây làm chi vậy, làm chúng ta lo muốn chết luôn!"

Dương Thu Trì nhìn bốn phía, thấy mình vẫn còn ở trong sương phòng ở tầng hai tòa tiểu lâu lúc tối, liền vụt đứng dậy chạy ra phòng khách nhìn, thấy trên xà nhà trống không chẳng có gì cả, bạch y nữ nhân treo cổ dọa cho hắn té ngã ngất đi không thấy đâu nữa.

Dương Thu Trì dùng tay chỉ lên xà ngang, nghi hoặc hỏi: "Nữ nhân đó đâu?"

"Nữ nhân nào?" Dương mẫu hỏi.

"Bạch y nữ nhân treo cổ trên xà nhà đó? Lúc tối con nhìn thấy mà. Ở chỗ đó đó!"

Mọi người đều cảm thấy lạnh người.

Dương lão thái gia miễn cưỡng cười, khẽ ho mấy tiếng, phân phó nha hoàn và người hầu đưa Dương công tử quay trở về nghỉ ngơi.

Dương Thu Trì đẩy bọn nha hoàn ra, quay lại nhìn Dương lão thái gia hỏi: "Chẳng lẽ là cháu bị hoa mắt? Không đúng. Cháu nhìn thấy rất rõ, lại không phải nằm mộng, cháu đã từng tự véo người và cảm thấy rất đau, tuyệt đối là thật đấy!"

Tống Vân Nhi cười: "Ca, coi huynh nói xạo mà y như là thật vậy kìa."

Dương Thu Trì biết chuyện này vô cùng rắc rối, không thể nào bằng hai ba câu mà nói rõ được, bèn hỏi: "Vân nhi, mọi người làm sao phát hiện được ta ở đây?"

Tống Vân Nhi đáp: "Trời hừng hừng sáng là muội nghe tẩu tử (chị dâu) ra hành lang gọi huynh. Muội vội dậy bước ra cửa hỏi, chị dâu nói huynh đi đâu rồi không thấy nữa, tìm khắp hết mà không thấy."

"Muội nghe thế hoảng hồn, vội vả chạy khắp nơi tìm một lần nữa. Sau đó Dương lão thái gia cùng mọi người biết chuyện cùng phân ra tìm, cuối cùng phát hiện cửa vườn mở, dưới tuyết còn dấu chân dẫn lên lầu, bèn theo lên thì thấy huynh ngã chỏng vó lên trời á. Ca, huynh rốt cuộc là bị sao vậy?" Ngẫm nghĩ một lát, Tống Vân Nhi chớp chớp mắt hỏi, "Ca, chẳng lẽ huynh bị mộng du thật hả?"

Dương Thu Trì không lý gì đến nàng, chuyện này quá phức tạp, cần phải yên tĩnh suy nghĩ cho thật kỹ.

Hắn cảm thấy sau đầu rất đau, đưa tay lên sờ, phát hiện da đầu bị rách một lổ nhỏ, tóc bị máu ướt bệt lại, vết thương đã khép miệng không chảy máu nữa.

Hắn xoay người lại nhìn chỗ mình vừa nằm lúc nãy, phát hiện dưới đất có một vũng máu nhỏ. Điều kỳ quái là sàn gỗ kia giỏi lắm là làm đầu sưng lên một cục là quá lắm rồi, không ngờ lại phá rách một lổ, rõ ràng là đầu hắn bị vật gì đó góc cạnh chạm mạnh vào.

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì nhìn máu ở dưới sàn xong quay kiếm khắp nơi, liền bước qua một bên lấy một cái ghế thấp đưa cho Dương Thu Trì hỏi: "Ca, huynh tìm cái này hả? Lúc mọi người phát hiện ra huynh, thì cạnh đầu huynh có cái ghế đã bị ngã này."

Dương Thu Trì cầm lấy nhìn, quả nhiên bên cạnh của cái ghế có dấu máu mới, xem ra hắn đã bị nữ quỷ treo cổ đó dọa ngã, hậu não té đập nhằm vào góc của chiếc ghế này nên hôn mê đi.

Một tiểu nha hoàn nhìn thấy chiếc ghế này, liền run giọng họ: "Cái đó, cái đó chẳng phải là chiếc ghế dùng để chống chân khi tam phu nhân treo cổ tự tử..."

Tống Vân Nhi giật mình sợ toát mồ hôi, hỏi: "Người đừng có dọa người ta có được không vậy hả? Ngươi là ai? Sao lại biết?"

Vợ hai Trương thị của Dương lão thái gia khịt mũi một tiếng đáp thay: "Nó là tiểu nha hoàn Tri Xuân của con hồ ly thối treo cổ chết trong phòng này, lúc con hồ ly thối đó treo cổ chết, nó đang ở trong phòng, đương nhiên là biết."

Dương Thu Trì rất không ưa giọng điệu như vậy của Trương thị, liền cố ý nhìn bà ta trừng trừng, bảo: "Dì Trương, tối hôm qua cháu thấy con hồ ly thối Quách thị mà dì nói đó nha," Nói xong chỉ vào xà nhà, "Dì ấy treo cổ ở đây này....!"

Trương thị sợ hãi vội ngẩng đầu nhìn lên xà nhà, tức thời nhớ đến tình cảnh Quách thị treo cổ chết năm xưa, vội cười khan nói: "Dương thiếu gia, ngài, ngài đừng có dọa ta nha."

Tống Vân Nhi hiếu kỳ hỏi: "Ca, nửa đêm nửa hôm huynh chạy tới đây làm cái gì?"

"Ta nghe có tiếng nữ nhân khóc trong lầu này, tưởng đó là Búp bê bùn nên đi vào tra cho rõ, phát hiện trên xà nhà phòng khách có một nữ nhân bị treo cổ."

Con trai của Dương lão thái gia là Dương Thanh Thủy đột nhiên chen lời: "Đường đệ, có thật đệ nhìn thấy một nữ nhân treo cổ trên xà nhà phòng này không?"

Dương Thu Trì đáp với giọng chắc nịch: "Đúng vậy, đệ nhìn rất rõ."

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy liền tái hẳn mặt, miệng run bần bật lầm bầm điều gì đó.

Nha hoàn Tri Xuân run giọng nói: "Nhất định là quỷ hồn của Tam di thái quay về rồi."

"Nói bậy!" Nguyên phối Phan thị nhúc nhích thân người đầy thịt, lớp phấn trơn trên mặt bóng lưỡng như có luồng bạch quang, "Quỷ hồn cái gì, quỷ hồn ở đâu ra? Con quỷ cái ấy chết còn chưa hết tội! Sao nó không đến tìm ta? Nó mà dám đến dọa ta, coi ta mắng đổ máu chó lên đầu nó!..."

Dương lão thái gia nhíu mày ngắt lời bà ta: "Được rồi! Kêu la cái gì! Dương tri huyện Dương đại nhân, Tống đồng tri Tống đại nhân đều ở đây, bà bát nháo như vậy còn ra thể thống gì?"

Phan thị lúc này mới im miệng, chùi méo rồi còn phun một bãi về phía xà nhà.

Phan thị lúc này mới im miệng, chùi méo rồi còn phun một bãi về phía xà nhà.

Nhị di thái kéo tay của Dương thái gia, nói: "Ai yêu, để tôi nói vậy, có người không coi lão gia ra gì, có các vị đại nhân ở đây cũng không thèm nể mặt lão gia, bảo sao người ta không cười thầm cho được."

"Ngươi nói cái gì?" Nguyên phối Phan thị đột nhiên nổi khùng, rống lên: "Đến lượt ngươi lên tiếng khi nào vậy? Con tiện nhân, con hồ ly thối kia, ta phải xé nát cái mồm thối của ngươi mới được!" Phan thị nhào tới, một tay nắm tóc của tiểu thiếp Trương thị kéo ghị ra sau, một tay đánh thẳng vào mặt bà ta.

Trương thị có thân hình nhỏ thó, làm sao trở thành đối thủ của Phan thị, do đó dù hết sức phản kháng nhưng vẫn không chống được, chỉ còn biết bảo vệ mặt mà thôi.

Con gái Dương Ngải Tiểu của Trương thị vội xông lên bảo hộ cho mẹ, cô nàng không dám đối đầu với nguyên phối Phan thị, nên chỉ còn hết sức bảo hộ mặt của mẹ mình, kết quả bản thân bị vài cú tát. Căn phòng chẳng mấy chốc loạn cả lên.

"Đủ rồi!" Dương lão thái gia rống lên, "Các ngươi muốn đánh thì ra ngoài mà đánh! Đánh chết luôn càng tốt! Đỡ phải làm mất mặt ta!"

Ba nữ nhân đến lúc này mới dừng tay. Trương thị thút thít lần lại gần Dương lão thái gia y như con mèo nhỏ thụ thương vậy. Dương lão thái gia tức giận hất tay một cái, khiến cho Trương thị loạng choạng lùi lại mấy bước.

Dương lão thái gia rống lên: "Cút...! Hai ngươi đều cút hết đi cho ta!"

Thấy Dương lão thái gia quả nhiên đã nổi nóng, Bàng quản gia vội bước lên khuyên giải và đưa hai thái thái ra ngoài.

Đây là chuyện trong nhà của họ, Dương Thu Trì không tiện chen lời, lấy mắt bàng quan. Xem ra, quan hệ giữa các thê thiếp của Dương lão thái gia không hòa hợp lắm.

Dương Thu Trì lại nhìn lên xà nhà, đêm qua hắn tận mắt chứng kiến bạch y nữ nhân treo cổ ở đó, chẳng lẽ đó là tiểu thiếp Quách thị chết trước đây hai năm? Nàng ta không phải đã chết sao? Vì sao hắn có thể nhìn thấy được? Chẳng lẽ trên thế gian này quả thật có quỷ hồn?

Dương Thu Trì không tin có quỷ, cho dù đã xảy ra bao nhiêu chuyện như vậy hắn vẫn không thể tin. Những người làm nghề như hắn không thể tin quỷ, bởi vì nếu tin, thì họ sẽ sớm bị sợ chết mất hồn vía mà thôi. Nhưng... thứ mà hắn tận mắt chứng kiến đêm qua giải thích như thế nào bây giờ?

Dương Thu Trì quay nhìn giấy dầu trên cửa sổ, cái lổ to kia cùng miếng giấy lừa thừa rõ ràng là thứ tối qua hắn xé ra, chứng minh tất cả không phải là mộng.

Nhưng làm sao người lại có thể bay trong không trung? Sao lại có thể nhanh như thiểm điện, chớp mắt đã xuyên qua khoảng cách từ cửa sổ đến cửa chính? Rồi sao lại có thể nhân lúc hắn tiến vào phòng ngủ ở sương phòng vốn chỉ có mấy phút để vô thanh vô tức treo cổ lên xà nhà ngoài phòng khách này? Cổ đã bị dây thừng thít chặt, vì sao ả lại có thể mở mắt nhìn hắn cười khì khì?

Hơn nữa, bản thân hắn căn bản chẳng biết chút pháp thuật gì, chỉ niệm loạn mấy câu chú ngữ bắt rồi đánh ra vài cái pháp ấn thì đã hiệu nghiệm, sao mà kỳ quái quá như vậy?

Tuy không thể giải thích những chuyện nhìn thấy tối qua, nhưng hắn tự biết những gì trông thấy vị tất đã là sự tật, ví dụ như đối với các trò ảo thuật người ta tuy biết nó là ảo thuật, nhưng vẫn cảm thấy nó rất thần kỳ và không hiểu tại sao.

Trong chuyện này nhất định có điều gì đó ảo bí mà hắn chưa biết được. Dương Thu Trì đoán rằng, điều bí ẩn này có hai khả năng giải thích: Một là có võ lâm cao thủ gì đó có khinh công rất cao giở trò để dọa hắn, hai là tự bản thân hắn xuất hiện một loại ảo giác gì đó.

Đối với khả năng thứ nhất, Dương Thu Trì cảm thấy dường như không thể xảy ra. Võ công có cao cường cách mấy cũng không thể vượt qua được giới hạn của điều kiện thân thể con người. Ví dụ như nói về tốc độ, khoa học gia cho rằng con người có thể chạy khoảng cách 100m nhanh lắm là ở 7.4 giây, nếu như có thể chạy nhanh hơn mức này, thì trong quá trình chuyện động đó thân thể không thể nào chịu được áp lực mà xuất hiện hiện tượng bị chia cắt. Tuy con số cực hạn này không nhất định là chính xác, nhưng tốc độ chạy của con người nhất định là có giới hạn, dù sao cũng không thể vượt quá tốc độ ánh sáng!

Bản thân hắn chỉ cúi đầu rồi lại ngẩng đầu trong tích tắc , tối đa là một giây, thế mà bạch y nữ tử đã từ cửa sổ bay tới khoảng không tại cửa lớn. Hắn khẽ dùng mắt ước lượng cự li giữa hai nơi, thấy nó phải gần hai mươi mét, nếu án chiếu theo kỷ lục thế giới hiện nay là 9 giây 77 thì không thể nào bằng thời gian ngắn như vậy mà đến được. Hơn nữa trong phòng còn có bậc cửa, còn có chỗ quẹo, lại thêm phải từ vị trí bất động đột nhiên đạt đến thứ tốc độ như thế.... nói chung là không thể tưởng tượng!

Đương nhiên không thể bài trừ những công năng đặc dị mà hắn chưa hề biết từ các cao thủ võ lâm. Chỉ có điều vấn đề này không phải là phạm vi nghiên cứu của pháp y học rồi!

Cho dù điểm này một cao thủ võ lâm có thể thực hiện được, nhưng một vấn đề khác nhất định chẳng có võ lâm cao thủ nào làm được, đó là không mượn vật nào khác mà đứng yên bất động trong không trung - lực hấp dẫn của trái đất tồn tại với bất kỳ người nào, cho dù đó là cao thủ võ lâm, không có ai có thể thoát khỏi trọng lực để tự làm nhẹ cơ thể đi. Đấy là vấn đề thuộc về định luật phản vật lý, hay còn gọi là ngụy khoa học.

Võ công đích xác là rất kỳ diệu, nhưng cho dù võ công có kỳ diệu thế nào cũng không thể phản lại quy luật tự nhiên. Nếu không chỉ là ảo tưởng tồn tại trong các tiểu thuyết võ hiệp, hoặc là dựa vào ma thuật mà làm trò lừa đảo mà thôi.

Dương Thu Trì là một pháp y. Pháp y chú trọng đến phân tích lý tính. Do đó, Dương Thu Trì không thể lý giải quỷ hồn mà hắn nhìn thấy là một cao thủ võ lâm, nhân vì hành vi của ả ta phản lại quy luật tự nhiên, trừ khi đó là một cao thủ võ lâm biết làm trò ảo thuật lừa người.

Nếu là như thế thì quả thật rắc rối, bỡi vì vũ lâm cao thủ đó giả quỷ nhát hắn để làm gì? Khẳng định không phải muốn dọa hắn chết, vì một chưởng đánh chết hắn chẳng phải sạch sẽ gọn nhẹ hơn sao, vì sao lại bày trò ra như thế?

Một ý nghĩ chợt dậy lên trong đầu hắn, chẳng lẽ là y muốn dọa hắn sợ để hắn bỏ đi? Vì sao lại phải dọa hắn bỏ đi? Có phải là sợ hắn phát hiện bí mật gì đó không thể phơi bày ra chăng? Chẳng lẽ trong chuyện Tam di thái Quách thị treo cổ chết này có ẩn tình gì đó?

Khả năng lý giải thứ hai cho chuyện gặp quỷ hôm qua của hắn là hắn bị ảo giác nên mới thấy quỷ hồn bay nhảy trong không trung như vậy. Đối với thứ khả năng này, Dương Thu Trì chưa tìm được giải thích hợp lý nào để bản thân hắn sản sinh ra ảo giác cả.

Phùng Tiểu Tuyết bị chuyện Dương Thu Trì gặp quỷ thụ thương sợ chết khiếp, tuy hiện giờ là trời sáng mà cảm thấy căn lầu này đâu đâu cũng có gió lạnh, khiến toàn thân nàng phát rét. Nàng thấy Dương Thu Trì hờ hững ra ở đó, bèn kề sát tay hắn nói nhỏ: "Phu quân, thiếp sợ quá, hay là chúng ta trở về Ninh Quốc phủ đi."

Dương mẫu nghe được lời của Phùng Tiểu Tuyết gật đầu tán đồng, vì bà cũng đang rất khẩn trương.

Dương Thu Trì ôm nhẹ bờ vai của Phùng Tiểu Tuyết, dỗ dành: "Đừng sợ, Tiểu Tuyết, không có sao đâu, chúng ta nhiều người thế này, quỷ không làm gì được chúng ta đâu."

"Vậy tối hôm qua chàng...."

"Đấy là điều bất ngờ thôi, đêm nay sẽ không có nữa đâu. Nàng nếu còn không yên tâm thì cứ ngồi trên giường canh cho ta ngủ, được không?"

Phùng Tiểu Tuyết cười cười gật đầu.
 
Chương 154: Hai loại dấu vết


Dương lão thái gia lệnh cho Bàng quản gia: "Mau đi gọi lang trung trị thương cho Dương thiếu gia." Bàng quản gia vâng lời định chạy đi.

Dương Thu Trì khoát tay ngăn lại, thưa: "Bá phụ, vết thương của cháu không sao đâu, không cần nhờ thầy lang xem."

Dương Thu Trì vốn hơi hiếu kỳ với chuyện Quách thị phát rồ, nhưng kinh qua chuyện đêm qua ở ngôi lầu quỷ, hắn có một dự cảm, một dự cảm bất tường rằng có người không muốn hắn biết cái gì đó, không tiếc dùng thủ đoạn để làm hắn sợ mà bỏ đi, do đó có khả năng là có gì mờ ám trong cái chết của Quách thị.

Hiện giờ chuyện khai quan nghiệm thi đối với Dương Thu Trì không chỉ đơn thuần là kiểm nghiệm coi Sơn nhi có phải là con ruột của Dương lão thái gia hay không, mà thông qua đó hắn còn muốn kiểm chứng dự cảm của mình.

Dương Thu Trì nói với Dương lão thái gia, "Bá phụ, chuyện chúng ta nói tối qua giờ làm liền đi thôi."

Đối với chuyện Dương Thu Trì té ngã bị thương hôn mê trên lầu, Dương lão thái gia có phần áy náy, giờ thấy Dương Thu Trì không để ý gì, ngược lại lại quan tâm đến sự tình mà lão tâm sự tối qua, nên vô cùng cảm kích, đáp: "Nếu như là vậy thì chúng ta ăn sáng xong rồi khai quan nghiệm thi thôi."

Dương Thanh Thủy - con trai của Dương lão thái gia hỏi: "Cha, khai quan nghiệm thi? Nghiệm thây ai?"

"Quách di nương của con."

"A?" Dương Thanh Thủy hô lên cả kinh, "Dì.. dì ấy chẳng phải treo cổ chết rồi sao? Chết những hai năm rồi, còn nghiệm cái gì nữa?"

Dương lão thái gia đương nhiên không thể nói nghiệm thây là để kiểm tra xem con trai Sơn nhi của tam di thái rốt cuộc có phải là con ruột của lão hay không. Tuy lão muốn khai quan nghiệm thây, người khác không dám nói hai lời, nhưng không ngăn được người ta nghị luận sau lưng, do đó cần phải tìm cớ nào đó che lắp đi, nhưng trong nhất thời lão không tìm được lý do thích hợp nào.

Dương Thu Trì chen lời: "Đường huynh, tối hôm qua đệ và bá phụ có bàn đến chuyện ngôi lầu này cứ có quỷ phá hoài, chúng tôi đoán là có liên quan đến việc an táng Quách di nương đã mất, nên quyết định khai quan xem coi có vấn đề gì hay không."

Dương Thanh Thủy hỏi: "Còn có vấn đề gì nữa? Năm xưa Trương di nương có nói, Quách di nương treo cổ chết là điềm bất lợi, nhất định có ác quỷ nhập vào người, nên đã thỉnh pháp sư về làm phép, rồi chọn một khối âm địa để an táng, chẳng lẽ như vậy vẫn còn không trấn nổi ác quỷ trên người của dì ấy hay sao?"

Dương Thu Trì nhìn lên xà nhà phòng khách, hỏi với ý tứ thâm trầm: "Đường huynh nhận thấy đã trấn trụ rồi sao?"

"Cho dù là chưa trấn được, nhưng đường đệ chẳng lẽ có thể nhìn ra âm trạch phong thủy hay sao?"

"Không thể, nhưng trước đây đệ đã từng làm ngỗ tác học đồ, do đó đệ có thể kiểm tra người chết, xem coi người chết chết vì cớ gì." Nói xong lời này, Dương Thu Trì nhìn Dương Thanh Thủy chằm chằm, khiến y rợn tóc gáy.

Bàng quản gia nói với Dương lão thái gia: "Lão gia, khai quan nghiệm thi không phải là chuyện thường, có cần phải mời pháp sư coi ngày hay không rồi quyết định lại?"

Dương lão thái gia biết Dương Thu Trì sẽ đi nhậm chức ở Hồ Quảng đầu năm sau, thời gian không cho phép chần chờ nữa. Hơn nữa, lão cũng gấp muốn biết coi tiểu hài Sơn nhi có phải là con ruột của lão hay không. Một khi nghĩ đến chuyện mình có khả năng mình là tu hú nuôi con, đeo hai chiếc sừng to tướng mà lại con còng lưng nuôi nghiệt chủng của kẻ khác, lòng lão phiền toái không yên, do đó liền phất tay: "Không cần nữa! Không gì phải kiêng kỵ, ăn sáng xong rồi lập tức khai quan nghiệm thi!"

Thấy Dương lão thái gia bực mình, không còn ai dám lên tiếng nữa.

Ăn cho xong bửa sáng, cho người gọi thêm các ngã tác và người làm công trong thôn, cả nhà lớn nhỏ Dương gia xuất hành đi đến phần mộ của tam di thái Quách thị tiến hành khai quan nghiệm thi.

Phần mộ của Quách thị chôn ở dưới thôn, ở khoảnh đất sát dòng suối. Khi Dương Thu Trì tiến vào thôn, ở cửa thôn có nhìn thấy mấy gò mả, và một trong những cái đó là của Quách thị.

Quách thị là tiểu thiếp của Dương lão thái gia, án chiếu theo quy củ thì tiểu thiếp chết rồi không thể an táng trong khu mộ tổ, hơn nữa Quách thị phát rồ rồi treo cổ, làm mất mặt Dương gia, không cát lợi nên phải chôn ở đây.

Sau khi Quách thị treo cổ chết, người nhà có thỉnh pháp sư làm phép và xem phong thủy. Pháp sư nói Quách thị thuộc mạng hỏa, lại phát rồ treo lê cây, ứng với việc trúng phải tà hỏa, do đó cần phải chọn một khu đất ngập nước ẩm ướt quanh nam để mai táng mới có thể trấn áp tà hỏa này.

Khi đến phần đất chôn Quách thị, chân Dương Thu Trì đạp lên đám cỏ quanh mộ phần, cảm thấy ướt nhẹp, lòng hơi mừng vì phần đất này ẩm ướt như vậy, thi thể mai táng ở bên dưới có thể đã hình thành thi chá (xác không rữa, xác chết còn giữ nguyên hình không bị nát đi), như vậy có thể phát hiện rất nhiều dấu vết có giá trị.

Dương lão thái gia, Tống đồng tri cùng mọi người sợ tà khí ô uế, cho nên đứng xa mấy chục bước để chờ, để mặc Dương Thu Trì chỉ huy các ngỗ tác khai quật phần mộ.

Phùng Tiểu Tuyết muốn đứng cùng một chổ với phu quân, nhưng lại sợ nhìn thấy tử thi. Dương Thu trì uyển chuyển và ôn tồn bảo nàng đứng chờ bên cạnh Dương mẫu.

Tống Vân Nhi thì ngược lại, nàng không thể nào bỏ qua cơ hội sính cường này, nên bám sát sau lưng Dương Thu Trì xem náo nhiệt.

Ngỗ tác đào lớp đất phủ phía trên xong, bắt đầu đào xuống dưới, càng đào sâu thì nước càng tích tụ nhiều, khi đào đến quan tài thì chung quanh đã tích đầy nước.

Các ngỗ tác đều nhíu mày, nhưng Dương Thu Trì lộ vẻ rất vui. Nếu như mùa đông mà tích nhiều nước thế này, thì mùa hè mưa nhiều nhất định sẽ còn nhiều nước hơn. Hoàn cảnh càng ẩm ướt, thì càng dễ phát sinh hiện tượng "thi chá".

Trong hố toàn nước, làm sao bây giờ? Ngỗ tác và các thợ phụ đều e ngại nhìn Dương Thu Trì. Hắn cho đào hai bên quan tài, sau đó dùng dây thừng vòng qua hai đầu rồi kéo quan tài lên.

Tốn thêm khoảng một giờ nữa, quan tài cuối cùng cũng được đưa lên từ cái hố đầy nước ấy, sau đó được ngỗ tác cùng các thợ phụ khiêng đưa đến hai cây gỗ lớn đã bày sẳn.

Nước trong quan tài thuận theo các lổ nhỏ chảy xì xì ra ngoài. Dương Thu Trì sau đó cho ngỗ tác mở nắp quan tài. Do quan tài đã bắt đầu mục, nên họ tốn không mấy công sức đã mở ra được ngay.

Trong quan tài toàn là nước bùn đục ngầu, nhìn không rõ trong đó là gì. Một khối chăn đệm màu đỏ ướt sủng lộ lên ở một góc.

Dương Thu Trì nhờ Ngỗ tác nghĩ biện pháp làm cho nước trong quan tài rút cạn đi. Một ngỗ tác lấy búa khẽ lách vào vách của quan tài nạy ra một kẻ hở lớn, nước trong quan tài theo đó chảy vọt ra, không bao lâu thì rút cạn.

Xương thây người chết trong quan tài bị bùn và mền gối che kín.

Dương Thu Trì đeo một đôi bao tay bông hai lớp thật dày lên. Nó sẽ ảnh hưởng thao tác, nhưng không còn cách nào khác, vì không có bao tay cao su ở thời này, và hắn cũng không muốn tay của mình dính đầy các dịch thể hay bộ phận cơ thể đã thối rửa. Xem ra sau này chuyện kiểm nghiệm thi thể thối rửa này không thiếu được, khi về rồi hắn nhất định nghĩ cách thiết kê một loại bao tay chuyên dụng mới.

Dương Thu Trì dùng một cây thiết côn khều mền gối che xác chết lên, lộ ra thây cốt ở bên dưới. Đúng như sự dự đoán và hi vọng của Dương Thu Trì, xác của Quách thị chưa bị rửa nát, hơn nữa còn hình thành thi ché màu xám trắng, lại còn là thi chá mang tính toàn thân.

Thi chá là hiện tượng do thi thể bị ngâm trường kỳ trong nước hoặc bị chôn trong chổ đất ẩm ướt không đủ không khí, các a xít béo của các tổ chức cơ thịt dưới da bị xà phòng hóa và hydro hóa làm chúng đông đặc lại mà tạo thành. Cái gọi là thi chá thực ra là vì khi dùng tay tiếp xúc vào thi thể này sẽ gây cảm giác trơn mịn, thậm chí có thể đè vào, so với việc chạm tay vào sáp nến đã chảy ra hoặc mỡ nấu đông không khác là bao.

Hoàn cảnh để hình thành thi chá có thể ức chế các vi khuẩn gây thối rữa sản sinh, do đó ngăn cản thi thể bị hủ bại, có thể bảo lưu những biểu hiện tổng thương ngoài da, thậm chí cả những dấu vết như "nổ da gà sởn gai ốc"... đều có thể nhìn rõ. Hoàn cảnh môi trường này còn ức chế các vi khuẩn gây thối rửa trong đường tiêu hóa, do đó bảo tồn khá tốt các vật trong bao tử hay ruột, có giá trị pháp y rất cao.

Thi chá thường mang tính cục bộ. Thứ thi chá toàn thân như của Quách thị đây rất hiếm. Tuy thi thể hình thành thi chá không bị mục ruỗng, nhưng do bị ngâm trong nước thường trực những hai năm, đã hoàn toàn khác với những thi thể khác, thậm chí có thể nói không nhân rõ mặt mũi nữa. Nếu lúc còn sống mà Quách thị có gương mặt thế này, thì cho dù trên thế gian này không có nữ nhân, Dương lão thái gia có chết cũng không dám cưới nàng.

Quách thị không phải treo cổ tự tử! Từ dấu vết trên cổ có thể nhận ra điều đó.

Quách thị không phải treo cổ tự tử! Từ dấu vết trên cổ có thể nhận ra điều đó.

Dương Thu Trì cúi đầu cẩn thận tra xét dấu vết trên cổ của Quách thị, tuy đã chết hai năm, nhưng do thi thể đã hình thành thi chá nên dấu vết trên cổ vẫn có thể nhận định được.

Dương Thu Trì nhìn một hồi chợt hô lên một tiếng nhỏ, rút cái khăn trong người ra cẩn thận thấm sạch nước trên cổ xác chết.

Sau khi cẩn thận phân biệt một hồi, Dương Thu Trì phát hiện trên cổ của thi thể có hai dấu thừng xiết cổ:

Dấu vết thứ nhất là ở xương sụn dưới tuyến giáp kéo dài xuống, bắt đầu từ dưới mép tai trái vòng qua cổ tới phía phải cổ, gáy, rồi quay về mép tai trái, hình thành một cái vòng thắt. Dưới da chỗ dấu xiết có dấu hiệu xuất huyết tím xanh. Dùng tay chạm vào có thể cảm giác được sương sụn trong tuyến giáp bị gãy vỡ. Điều kỳ quái là ở phía gáy bên phải có một côỗ trống, không hề có da xanh tím do bị xuất huyết.

Dấu vết thứ hai là ở phía trên tuyến giáp, từ trước cổ vòng qua hai bên đên gáy cho đến xương chẩm, không có chỗ nào gián đoạn.

Hai dấu xiết giao nhau ở bên gáy phải, cái sau đè lên cái trước.

Như vậy có thể nói Quách thị bị xiết cổ hai lần!

Lần thứ nhất chính là dấu xiết hình tròn còn trống một lổ, hai dấu xiết có độ đậm gần đều nhau, không hề có hiện tượng bị xiết nhẹ chút xíu để lại dấu ấn rồi thít chặt hẳn trong khi treo chổ. Từ sự giới thiệu của Dương lão thái gia, Quách thị năm xưa tự treo cổ lên xà nhà tự tử, nhưng vết thắt ở cổ không phù hợp với điều này.

Treo cổ tự tử thường để lại vết khớp chéo, trong khí vết xiết này lại bình bình. Vết xiết trên cổ người chết này thường rất sâu và đậm ở dưới cổ, nhạt dần về hai bên cho tới nút thắt ở trên, còn vết thắt này thì ngược lại. Vết xiết cổ của người chết treo khi lê đến chỗ thắt ở trên sẽ không còn nữa, hình thành một vệt giống hình móng ngựa, hay còn gọi là hiện trượng"chữ bát (八) không giao nhau", trong khi đó dấu vết trên cổ Quách thị có hình tròn, không có dấu gì là có khoảng hở lớn.

Như vậy là rất rõ, vết thắt thứ hai không phải là do treo cổ mà hình thành, mà là do bị xiết mà hình thành.

Hoa văn của hai dấu xiết cổ không tương đồng, vết thứ nhất là do dây tạo ra, nhỏ và sâu, bên rìa có hoa văn, có thể là do dây thừng bằng gai tạo ra. Vòng xiết thứ hai rộng mà cạn, không có loại hoa văn như cái trước, rất có khả năng là dây dài bằng vải hay lụa gì đó.

Từ đặc trưng của hai vết trên cổ, có thể nhân thấy trước sau Quách thị bị hai loại dây thít cổ. Lần thứ nhất bị thít bằng loại dây hơi cứng , dấu vết cho thấy là dấu xiết. Lần thứ hai bị thít bằng loại dây mềm, dấu vết cho thấy là dấu treo.

Từ chỗ giao nhau của hai vết thít, cho thấy vết thứ hai đè lên vết thứ nhất, như vậy là bị xiết cổ chết trước rồi bị treo lên sau.

Dấu xiết cổ này cho thấy rõ ràng là bị người khác giết, có thể từ những điểm sau mà đưa ra kết luận:

- Từ những phân tích tổng quát ở trên mà xét, do dấu xiết cổ gây ra hiện tượng vỡ xương sụn, để lại dấu xiết rất sâu, chứng tỏ dụng lực rất mạnh, hơn nữa thời gian diễn tiến kéo dài.

- Khi cổ người bị chèn ép, máu huyết bị ngăn trở tuần hoàn, não vừa thiếu huyết mang oxi vừa ứ huyết chứa CO2, nên trong vòng một phút có thể gây mất ý thức, năm phút có thể gây tử vong. Từ dấu xiết này phán đoán, thời gian xiết có thể kéo dài hơn mười phút mới có thể hình thành dấu vết như thế này. Do đó nếu như Quách thị tự sát, vết xiết này đủ để nàng ta tử vong, nàng ta không còn biện pháp nào thực hiện hành vu tự treo cổ.

- Từ chứng cứ pháp y mà xét, ở rìa dấu xiết thứ nhất có hiện tượng xuất huyết dưới da, còn ở dấu treo cổ lại không có hiện tượng này, cho thấy vết xiết cổ thứ nhất là "sinh tiền thương", còn dấu treo cổ là "tử hậu thương. (Tuy lý luận gần đây nhất cho rằng người chết rồi máu huyết chạy xuống dưới hình thành tĩnh áp thể lưu (không định hình), khiến cho người chết rồi nhưng khi bị quấn dây xiết chạt vẫn gây hiện tượng xuất huyết dưới da và vết rộp, do đó chỉ bằng điểm này không đủ phán đoán đâu là sinh tiền thương (tổn thương lúc còn sống) hay tử hậu thương (chết rồi mới bị tổn thương), nhưng trong án này còn những tham khảo có giá trị trọng yếu khác.)

- Từ phân tích theo thường lý, nếu như người ta muốn tự sát, ý thức sẽ tự tuyển chọn phương pháp ít đau đớn hơn. Như vậy nếu người đó chọn treo cổ, thì họ sẽ dùng dây treo mềm mịn dễ có hơn như là vải lụa chẳng hạn, chứ không chọn dây gai. Điều này càng đặc biệt đúng với nữ nhân. Nếu như chỉ có dây thừng cứng hay dây cước sắt, người tự tử vẫn thường dùng khăn tay hay tấm lót gì đó bao lại để giảm nhẹ thống khổ. Dấu xiết trên cổ Quách thị cho thấy được gây ra từ một loại thừng cứng, không phù hợp chút nào với lý lẽ thường tình.

- Ngoài ra, nếu như nàng ta chọn treo cổ tự tử với dây mềm như vải chẳng hạn, thì nếu xiết cổ cũng là hành vi tự sát, nàng ta sẽ dùng cùng một thứ để xiết cổ, chứ không thể nào dùng dây gai cứng để xiết. Điều này cũng không hợp với lẽ thường.

- Từ góc độ phủ định mà xét, dấu xiết cổ phản ánh một dấu giao kết ở dưới tai trái, sau đó hai tay kéo hai đầu dây thừng qua hai bên để khiến nạn nhân tử vong. Dấu vết thít chéo nằm ở vị trí dưới tay trái, phương hướng hai tay dùng lực xem ra là hai phía trước sau của thân thể, động tác này nếu là tự sát thì rất không phù hợp và rất khó hoàn thành.

Từ đó phán đoán, Quách thị có khả năng là bị người ta xiết cổ chết, sau đó ngụy trang đưa lên treo cổ tự sát!

Dương Thu Trì gạt tay áo trên cánh tay trái của Quách thị ra, đưa lên quan sát, không hề phát hiện dấu vết đề kháng. Nhưng không có vết thương do đề kháng không có nghĩa là nạn nhân không đề kháng, nếu như trong hoàn cảnh mền gối đầy trên giường hoặc trong nước mà xiết cổ Quách thị chết, sẽ không hình thành dấu vết trầy tụa do đề kháng.

Kiểm tra tay phải của Quách thị, hắn phát hiện phía trong ngón trỏ có dấu sây sát và xuất huyết dưới da.

Dương Thu Trì hơi cảm thấy kỳ quái, nhưng lập tức nhớ ra dấu thít ở vách cổ bên phải Quách thị có chỗ hỡ bằng lóng tay không có dấu xanh do xuất huyết. Kết hợp hai điểm này có thể suy ra khi hung thủ xiết cổ Quách thị, Quách thị có tiến hành đề kháng bằng cách nỗ lực đưa ngón tay kéo dây thừng ra, từ đó ngón tay bị lưu lại vết xước này.

Vết thương do đề kháng này đã chứng tỏ chắc nịt rằng Quách thị bị người ta xiết cổ chết, là bị người khác giết!

Như vậy thì ai là người xiết cổ chết Quách thị? Dương Thu Trì đứng cạnh quan tài trầm tư. Sợi dây xiết chết Quách thị nhất định là do hung thủ mang đến, gây án xong rồi xử lý luôn, nhất định không để lại hiện trường tránh bị hoài nghi. Còn sợi dây vải kia nhất định vẫn còn, có thể từ đó còn phát hiện thêm điều gì nữa.

Tống Vân Nhi nhất mực đứng cạnh quan sát Dương Thu Trì bận rộn, không dám tùy ý chen lời, thấy hắn bân bịu xong rồi đứng đó phát ngây, liền lên tiếng hỏi: "Ca, sao rồi? Huynh sao lại làm lâu dữ vậy a?"

"Muội đi gọi họ đến đây, ta có chuyện cần nói." Thần sắc của Dương Thu Trì vô cùng nghiêm trọng.

Tống Vân Nhi từ thần sắc đó đoán ra nhất định là có vấn đề, liền hứng phấn gật đầu lia lịa, chuyển thân chạy đi nói với Dương lão thái gia cùng mọi người vài câu, sau đó ai cũng kéo đến bên cạnh Dương Thu Trì.

Dương lão thái gia nghi hoặc hỏi Dương Thu Trì: "Hiền điệt, có chuyện gì vậy, có vấn đề gì sao?"

Dương Thu Trì hỏi: "Sợi dây Quách di nương dùng treo cổ ở đâu ạ?"

Nguyên phối Phan thị đáp: "Đốt rồi, đốt cùng mọi vật dụng của con hồ ly thối đó hết rồi, thứ yêu tinh gây hại cho người này còn để lại những thứ nó dùng lại làm gì!"

Dương lão thái gia hỏi: "Hiền điệt, cháu hỏi đến sợi vải đó làm gì?"

Dương Thu Trì quét mắt nhìn mọi người, đáp: "Dùng để tra án tử."

"Tra án tử?" Dương lão thái gia dường như cảm thấy có gì không đúng, vội hỏi, "Tra án tử gì?"

"Án Quách di nương bị người ta xiết cổ chết, dì ấy không phải treo cổ tự sát, mà bị người dùng dây xiết cổ chết!"

Mọi người ở đó đều sửng sờ, Dương lão thái gia cả kinh hỏi: "Cháu nói cái gì? Nàng ấy bị người ta hại chết sao?"

"Đúng, Quách di nương trước tiên bị người ta tròng dây xiết cổ chết, sau đó nguy trang treo lên trên xà ngang, chứ không phải tự sát."

Tống Vân Nhi và Tống đồng tri cha nằng đương nhiên biết lời này có ý gì, liền hỏi: "Hiền điệt, cháu, cháu không nhận định lầm chứ?"

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy cũng lộ thần tình rất kích động, hỏi: "Đường đệ, Quách di nương có thật là bị người ta sát hại không? Hung thủ là ai?"

Nguyên phối Phan thị và nhị di thái Trương thị cùng các nữ quyến trong nhà cùng sợ hãi không dám tiến lên, đứng ở xa nghe nói Quách thị không phải tự sát mà bị người ta hại chết, đều bắt đầu kinh ngạc tranh luận loạn cả lên.

Dương lão thái gia hỏi Dương Thu Trì: "Hiền điệt, làm sao cháu biết được dì Quách của cháu bị người ta giết vậy?"

Dương Thu Trì chỉ hai dấu thít cổ trên thi thể nạn nhân, đem những phát hiện và phân tích vừa rồi trình bày lại một lượt, còn vạch ra chỉ vết thương do đề kháng trên ngón trỏ nơi tay phải của Trương thị.

Đối với treo cổ chết và xiết cổ chết, "Tẩy oan lục" có lý giải rất rõ ràng. Người thời cổ thường dùng hai phương pháp này để giết người hoặc tự sát, nên có sự nhận thức khá sâu sắc. Do đó khi nghe Dương Thu Trì phân tích, lại tự thân quan sát thêm một chút, Dương lão thái gia và Tống đồng tri cùng mọi người đều đồng ý với phán đoán của Dương Thu Trì.

Bọn họ khá bất ngờ về chuyện thi thể của Quách thị không bị rửa nát. Bàng quản gia thậm chí còn hỏi có phải thi thể bị trúng tà không, có cần thỉnh pháp sư về khu tà cản quỷ hay không. Dương Thu Trì dùng hết khả năng sử dụng từ ngữ thông tục để giải thích với họ, rốt cuộc cũng khiến mọi người hiểu ra.

Vấn đề tiếp sau đó khiến người ta rất nghi hoặc, án theo lý mà nói, thì hai laọi dấu vết này không khó phát hiện cũng như lý giải manh mối ẩn giấu bên trong đó, nhưng tại sao không có ai phát hiện hết vậy?
 
Chương 155: Khám tra hiện trường


Sau khi hỏi Dương lão thái gia biết khi Quách thị phát khùng rồi treo cổ, mọi người đều nhận ra điều đó là thuận lý thành chương, không ai hoài nghi cũng không ai báo quan. Do nàng ta chết rất thảm, nên lập tức nhập quan thỉnh pháp sư làm phép, nên không hề kiếm tra dấu vết ở cổ một cách cẩn thận.

Ngoại trừ điềunày ra, còn có một nguyên nhân trọng yếu khác, đó là chẳng những cửa viện khóa chặt, cửa phòng khách ở lầu hai cũng khóa chặt, không phát hiện có dấu vết người ngoài lẻn vào phòng. Hơn nữa bà mụ và nha hoàn cũng không nghe động tĩnh hay tiếng đánh nhau gì, do đó không hoài nghi Quách thị bị người ta giết.

Hiện giờ đã khẳng định Quách thị bị người giết, lại nằm trong phạm vi quản hạt của Ninh Quốc phủ, Tống đồng tri ở đây quyết định lập tức lập án điều tra cho rõ ngọn ngành. Chỉ có điều, án này sẽ được phá thế nào thì Tống đồng tri vẫn còn mù tịt, chỉ biết cầu cứu Dương Thu Trì, để hắn trợ giúp phá án.

Dương Thu Trì lần nữa được nhà phá án, liền thu mẫu tóc của Quách thị về để kiểm tra nhóm máu, sau đó nhờ các ngỗ tác liệm xác Quách thị vào quan tài đóng kỹ lại rồi hạ xuống hầm mộ đầy nước lấp đất lại.

Nếu như cần phải phá án này, các dụng cụ khám nghiệm pháp y của hắn cần phải có mối được, hơn nữa lại còn phải giám định nhóm máu xác định xem Sơn nhi có không phải là con của Dương lão thái gia hay không. Những thứ này có thể nói là bảo bối của Dương Thu Trì, nếu để người khác lấy hắn không an tâm, nên đã đã chìa khóa tủ hợp kim cho Phùng Tiểu Tuyết, nhờ nàng dẫn theo năm nữ cẩm y vệ trở về nhà lấy giúp, lại phái thêm năm nam hộ vệ đi theo bảo hộ.

Dương Thu Trì cho Phùng Tiểu Tuyết biết là chỉ cần lấy cái rương nhỏ trong tủ hợp kim đó là được. Cái rương nhỏ này chính là rương đựng các vật khám xét pháp y, trên đó có khóa mật mã, nên không lo Phùng Tiểu Tuyết phát hiện bên trong đó có gì mà bất ngờ.

Nhưng Phùng Tiểu Tuyết lo Dương Thu Trì sẽ gặp quỷ vào ban đêm nữa, không muốn rời xa hắn. Hắn an ủi cả buổi vẫn không được, cuối cùng Tống Vân Nhi nói buổi tối nàng sẽ theo sát Dương Thu Trì, thiếp thân bảo hộ cho hắn, Phùng tiểu Tuyết bấy giờ mới yên tâm, lại dặn dò thật kỹ đâu vào đó rồi mới dẫn các hộ vệ lên đường.

Bọn họ đại khái cần phải mất hai ngày đi về. Trong thời gian này, Dương Thu Trì cần tiến hành những điều tra tất yếu khác để hiểu và phát hiện đủ các manh mối phạm tội.

Dương Thu Trì không ngờ lần này về quê tế tổ lại gặp sự tình như thế này, xem ra, nếu như án này không được nhanh chóng phá giải, năm này coi như sống không yên.

Nếu như căn lầu sau khi có quỷ ám không ai dám ở, thì có thể sẽ có những dấu vết còn lưu lại. Dương Thu Trì quyết định đến tiểu lâu đó khám tra một hồi hiện trường án mạng hai năm về trước, hy vọng bản thân gặ vận may có thể phát hiện điều gì đó.

Sau khi tuân vấn mọi người, hắn biết kẻ đầu tiên phát hiện Quách thị treo cổ chính là thiếp thân nha hoàn Tri Xuân của nàng, sau đó là bà mụ Lữ thị. Lúc tam di thái chết, cửa đóng chặt. Trong phòng chỉ có nha hoàn Tri Xuân và bà mụ Lữ thị. Do đó hai người họ đương nhiên là người bị hiềm nghi phạm tội, Dương Thu Trì phân phù đem bà mụ Lữ thị nhốt lại, sau đó cho gọi nha hoàn Tri Xuân lên, cùng Tống đồng tri, Tống Vân Nhi cùng đến ngôi lầu nhỏ đó khám tra hiện trường.

Sau khi Quách thị treo cổ chết xong, ngoại trừ Dương lão thái gia hoài niệm nàng ngụ lại một đêm, nhưng vì đêm đó nhìn thấy Quách thị đứng bên giường nhìn lão cười làm lão sợ gần chết, thì ngôi tiểu lâu này hoàn toàn bị phong bế, do đó cho tới giờ vẫn bảo quản đương tình cảnh đương thời.

Dương Thu Trì trước hết kiểm tra tử tế mọi cửa sổ, phát hiện giống như Tri Xuân nói, cửa bị đóng rất chặt, không phí khá nhiều sức lực căn bản mở không ra.

Hắn lại tử tế kiểm tra cửa lớn, dù sao đây cùng là nhà giàu, cửa được làm rất tốt, hai bên đều có cánh vừa khít vào nhau, đóng vào thật chặt, không thể nào dùng đao lách vào mở ra được. Hơn nữa, cánh cửa lớn này chẳng những có chốt, mà vào ban đêm khi ngủ còn dùng cây gài cửa cài chặt.

Dương Thu Trì yêu cầu Tri Xuân trước hết kể lại tình huống thi thể bị treo cổ. Căn cứ vào lời của cô bé, Quách thị nhất định là đứng lên cái ghế gỗ tròng dây vào cổ sau đó đạp ghế tự tử.

Dương Thu Trì phán đoán, cái ghế gỗ này đại khái cao khoảng 50 cm, hung thủ sau khi xiết cổ Quách thị chết xong, do người sau chết sẽ rất nặng mà lại mềm nhũn, do đó muốn ôm thi thể lên tròng dây vào cổ thật ra rất khó khăn. Biện pháp tốt nhất chính là đem dây tròng vào cổ của thi thể, đầu còn lại thòng qua trên xà nhà, sau đó kéo thi thể lên. Nếu là như thế, ở xà nhà nhất định có lưu lại dấu ma sát với dây treo cổ, và dấu vết này thường rất rõ, không thể nào bị phai đi trong vòng hai năm.

Dương Thu Trì tìm hai cái ghế cao đặt dưới xà nhà rồi đứng lên quan sát, sau khi tẩy đi lớp bụi dầy trên đó, hắn kỳ quái thấy xà nhà không có gì, trên phiến gỗ chỉnh tề góc cạnh kia không hề có dấu ma sát rõ ràng nào.

Kỳ quái! Chẳng lẽ phán đoán của mình có vấn đề? Dương Thu Trì ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Tam di nương của các ngươi dùng dây gì treo cổ?"

Tri Xuân đáp: "Là một sợi vải trắng, thòng qua xà nhà, cột gút lại một gút, sau đó tròng vào trong cổ."

"Sợi vải đó dài bao nhiêu?"

Tri Xuân so đo một hồi, Dương Thu Trì nhìn mà không hiểu, bèn hỏi bổ sung: "Thế này vậy, ngươi thử ước lượng xem sợi vải trắng đó sau khi vòng qua xà nha thòng xuống gút lại thì có thòng xuống tới đất không?"

"Không hề, sau khi cột gút lại còn dài ra một chút," Tri Xuân đứng dưới xà nhà nhìn lên, dùng tay ra dấu, "Chỉ có thể thòng đến khoảng đỉnh đầu tôi thôi."

Tiểu nha hoàn Tri Xuân đứng trước mặt Dương Thu Trì, thấp hơn hắn nửa cái đầu, đột nhiên hắn phát hiện ở sau cổ của cô bé có vài vết thương lợt màu, nhìn có vẻ là đã rất lâu. Dương Thu Trì thầm cảm thán, tiểu nha hoàn mệnh khổ này nhất định đã bị đánh không ít, nghĩ đến điều này lòng hắn chợt động, nghĩ đến một chuyện gì đó.

Tri Xuân chờ một lúc không nghe Dương Thu Trì hỏi gì, hơi kỳ quái quay lại nhìn hắn, thấy hắn đang nhìn sửng vào cổ mình, mặt liền đỏ hồng cúi đầu e thẹn.

Dương Thu Trì không hề phát hiện mình đã thất thái, cho đến khi Tống Vân Nhi nhéo hong hắn nhắc"Ê! Nhìn cái gì?"

Dương Thu Trì lúc này mới hồi lại thần, cố gắng cười cười chữa thẹn, ngâng đầu ước lượng cự li từ xà nhà đến đầu Tri Xuân, rút ra một kết luận: Dùng một sợi dây vải trắng dài thể này để tròng qua cổ thi thể nạn nhân dưới đất thì đầu kia nhất định không tới được xà nhà, đừng nói gì tới vòng qua đó, do đó phán đoán ban đầu của hắn không thể thành lập.

Như vậy xem ra hung thủ trước hết vòng sợi vải cho kỹ càng trước, sau đó ôm thi thể tròng cổ vào rồi. Dương Thu Trì hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Lúc đó chân dì ấy cách đất cao bao nhiêu?"

Tri Xuân đưa hai tay so đo một hồi, cảm thấy điều này không dễ trả lời, liếc mắt nhìn thấy cái ghế trong sương phòng, liền chạy đến lấy ra đặt xuống rồi nhìn nhìn, đáp: "Gần như cao bằng cái ghế này."

Như vậy có thể nói hung thủ đã ôm thi thể lên đứng trên cái ghế này tròng cổ vào rồi.

Sau khi khai quan nghiệm thi, Dương Thu Trì có một ấn tượng tổng quát về thân thể của Quách thị. Quách thị thuộc về dạng người nhỏ nhắn thanh mảnh của thiếu nữ vùng Giang Nam, thể trọng nhất định không quá 50 kg, trong khi đó chiếc ghế này khá rộng, gần giống như cái ghế để người ta ngồi chơi đàn dương cầm, nếu hung thủ ôm thi thể đưa lên thòng lọng, vẫn có thể bảo trị sự cân bằng.

Nếu như hung thủ có khả năng là đứng trên cái ghế thấp này đưa thi thể vào thòng lọng, có khi nào y để lại dấu giày hay không? Dương Thu Trì cẩn thận kiểm tra chiếc ghế, tuy ở trên đầy bụi, lại còn dính chút máu của hắn hôm trước, nhưng hắn vẫn hy vọng có thể phát hiện điểm gì đó.

Dương Thu Trì thổi bay bụi trên ghế đi tìm dấu chân còn lưu lại từ hai nam trước. Nhưng hắn đành chịu, thời gian hai năm đích xác quá dài, lớp bụi trần này tầng tầng điệp điệp, đã ngưng kết trên mặt ghế một lớp dày, phải dùng nước sạch và xà phòng cùng bàn chảy chà mới sạch hết bụi được. Nhưng nếu bụi này bị thanh trừ hết, thì dấu chân trên đó coi như cũng xong.

Khám nghiệm hiện trường coi như đã xong, tiếp theo là bắt đầu phỏng vấn điều tra. Dương Thu Trì cho nha hoàn Tri Xuân lui xuống lầu, sau đó bàn với Tống đồng tri làm cách nào để phá án.

Quách thị treo cổ trong phòng bị khóa chặt, và trong phòng này ngoại trừ bà mụ và cậu bé mới sinh Sơn nhỉ, thì chỉ còn có một người khác nữa chính là nha hoàn Tri Xuân. Sơn nhi mới ba tuổi, không thể là hung thủ. Vì thế, án này có hai người bị hiềm nhi nhất là bà vú Lữ thị và tiểu nha hoàn Tri Xuân. Đương nhiên, những người khác trong Dương gia đại viện không thể được bài trừ khả năng trong ứng ngoại hợp cùng gây án mạng.

Người đầu tiên phát hiện Quách thị treo cổ là tiểu nha hoàn Tri Xuân, kẻ cắp già mồm là chuyện thường tình, do đó Dương Thu Trì và Tống đồng tri quyết định thẩm vấn Tri Xuân trước. Thẩm vấn được tiến hành tại căn lầu nhỏ này, có mặt Tống đồng tri đại diện quan trên này đơn giản khai đường thẩm lý luôn.

Đại đường lâm thời được thiết đặt ở phòng khách căn lầu có quỷ, bàn ghế được dọn đi, bày ra ở giữa một thư án dài, Tống đồng tri ngồi giữa, Dương Thu Trì ngồi ở ghế đẩu bên góc coi như là một vị hình danh sư gia lâm thời. Tống Vân Nhi mặt dày bám riết bên cạnh nghe thẩm vấn, Tống đồng tri và Dương Thu Trì không có cách nào bảo nàng đi, bèn để nàng ngồi cạnh Dương Thu Trì, chỉ có điều căn dặn không được lên tiếng.

Tống đồng tri và Dương Thu Trì lần này cùng về quê hắn chơi tết, nên chỉ mang theo vài nha hoàn và người hầu, không mang bộ khoái đứng chầu, nên Dương Thu Trì gọi Nam Cung Hùng mang theo ba hộ vệ tạm thời thay thế, mang mấy cây thủy hỏa côn đứng hai bên.

Sau khi tiểu nha hoàn Tri Xuân được gọi vào, tiểu cô nương này thấy Dương Thu Trì và Tống đồng tri lúc này đã hoàn toàn khác khi nãy, dường như biến thành người khác vậy. Tuy đây chỉ là đại đường lâm thời, so với đại đường của nha môn kém uy nghiêm hơn nhiều, nhưng dù sao thì cô nàng cũng lần đầu tiện gặp phải chuyện này, sắc mặt liền tái nhợt, ú ớ một tiếng quỵ xuống đất, không biết nên nói thế nào cho phải.

Nha hoàn Tri Xuân chỉ mới mười bốn mười lăm tuổi, thân thể thanh mảnh nhỏ nhắn, trong tình huống bình thường, thể lực như vậy hoàn toàn không thể xiết cổ một người lớn chết được. Nhưng Quách thị vốn cũng nhỏ bé thanh mảnh, so với Tri Xuân chẳng mạnh hơn bao nhiêu, hơn nữa lúc đó Quách thị đang ngủ mê, sau khi phát cuồng đầu óc đã hỗn loạn. Nếu là như vậy, muốn xiết cổ Quách thị chết không phí mấy sức lực.

Sự sợ hãi của Tri Xuân không phải là thứ Dương Thu Trì hy vọng. COn người trong lúc khẩn trương hay sợ hãi sẽ quên hay bỏ qua một số điều. Hắn trước hết an ủi cô bé một hồi, sau đó nhờ Tống Vân Nhi đưa cho ly nước, nói với cô bé vài chuyện bình thường, từ từ mới khiến Tri Xuân bình tĩnh trở lại.

Tuy giữa đại đường có Tống đồng tri, nhưng thẩm vấn cụ thể thế nào do Dương Thu Trì phụ trách, Tống đồng tri không hề chen lời ngang, để khỏi làm loạn mạch suy nghĩ của hắn.

Dương Thu Trì trước hết bảo Tri Xuân cẩn thận hồi ức lại những điều đã kinh qua khi phát hiện thi thể của tam di thái Quách thị.

Tri Xuân nói: "Tôi nhớ rất rõ là tam di nương treo cổ vào ngày hai mươi tháng 3. Trưa ngày đó không biết tam di nương vì lẽ gì mà nổi điên, sau đó bị kéo đưa về trên lầu, nhất mực rất hưng phấn, cưỡi hết quần áo đi khắp nơi trong lầu. Tôi và bà vú Lữ thị phải dùng sức kéo người về phòng đóng cửa lại, cho người uống nước, náo loạn tới canh ba mới nằm ra giường từ từ ngủ. Bà vú đi coi sóc tiểu thiếu gia, còn một mình tôi nhất mực hầu hạ bên cạnh tam di nương cho tới khi người ngủ hẳn."

Dương Thu Trì chen lời hỏi: "Dương lão thái gia đâu? Người sao không đến thăm Quách di nương?"

"Tam di nương phát rồ nên lão thái gia bực bội vô cùng, mắng người là thương phong bại tục, do đó không thèm đến thăm. Sau đó khi Quách di nương chết rồi, lão thái gia khóc lóc hối hận, nói nếu như đêm đó lão thái gia đến, tam di nương sẽ không treo cổ tự tử."

Nói đến đây, Dương Thu Trì có chút hiếu kỳ hỏi: "Chuyện lão thái gặp quỷ ngươi biết không?"

"Biết, chính là vào đêm sau khi Tam di nương chết. Lão thái gia nói người tưởng niệm tam di nương, muốn đến ngủ trong phòng tam di nương một đêm nữa, hy vọng tam di nương sẽ hiện về báo mộng. Nhưng ngủ đến nửa khuya, lão thái gia đột nhiên kêu la thát lớn, nói là thấy tam di nương đứng bên giường nhìn người cười, khiến cho lão thái gia giật mình sợ chết khiếp. Do căn tiểu lâu đó hiện quỷ, nên từ ngày đó trở đi toàn bộ chúng tôi dời khỏi đó, toàn bộ căn lầu bị khóa lại."

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, hỏi: "Lúc lão thái gia nói nhìn thấy quỷ, các ngươi có thấy không?"

"Không hề, tôi và bà vú nghe lão thái gia la thét trong phòng của tam di nương, vội vã chạy đến, thấy người đang ngồi dưới đất, sắc mặt đã sợ không còn hạt máu nào, tay chỉ vào phía trước, nói tam di thái ở đó, nhưng tôi và bà mụ chẳng thấy gì cả."

Dương Thu Trì như ngộ ra điều gì đó gật gật đầu: "Ngươi tiếp theo lời vừa kể đi, Quách di nương ngủ xong rồi thì sao?"

"Tam di nương ngủ rồi thì tôi quay về phòng ngủ."

"Phòng ngủ của các ngươi ở đâu?"

Tri Xuân chỉ vào sương phòng cạnh phòng khách: "Chính là ở đây. Sương phòng bên trái có tôi, bà vú và tiểu thiếu gia ngụ, sương phòng bên phải là phòng ngủ của tam di nuơng, trước khi tam di nương chưa có chuyện, Dương lão thái gia cũng thường đến ngủ."

Dương Thu Trì lúc này đã hiểu là căn phòng hắn xé rách cửa sổ nhìn vào thấy nữ nhân đứng đó nhìn hắn cười, và cùng là căn phòng hắn tiến vào thấy có cái nôi trong đó có con mèo đen nhảy ra chính là phòng ngủ của Quách thị. Chẳng lẽ nữ nhân mà hắn nhìn thấy chính là Quách thị? Hay là quỷ hồn của Quách thị?

Trên thế giới này làm gì có quỷ hồn! Dương Thu Trì tin chắn như vậy, và quay sang Tri Xuân ra ý để cô bé kể tiếp.

Tri Xuân nói: "Tôi trở về phòng ngủ, ngủ rất say, nhất mực cho đến sáng sơm hôm sau mới bị tiếng khóc của Sơn nhi làm giật mình tỉnh giấc, liền ngồi dậy nhìn Sơn nhi."

Cái này cũng chẳng trách, cô bé mười bốn tuổi chính là lúc thân thể đang phát triển, tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng Dương Thu Trì vẫn thuận miệng hỏi: "Lúc thường ngươi ngủ say vậy sao?"

"Không phải," Tri Xuân đỏ mặt lắc đầu, "Tôi ngủ rất thẻ thức, bỡi vì lúc đó tam di nương thường đi tiểu tiện hoặc uống nước, hơn nữa lại còn phải cho tiểu thiếu gia tiêu tiểu, nên tôi rất sợ ngủ quên, thường uống rất nhiều nước, khi ngủ chỉ cởi áo ngoài."

Tiểu nhà đầu này đúng là khổ, Dương Thu Trì cảm thán, ngay sau đó nghĩ đến một chuyện, hỏi: "Vậy đêm đó ngươi sao ngủ say đến vậy?"

"Tôi cũng cảm thấy rất kỳ quái, tôi thấy tiểu thiếu gia khóc rất lớn ở trên giường, nhưng bà vú vẫn ngủ khò khò, tôi phải dùng sức lắc mạnh bà ấy mới tỉnh."

Dương Thu Trì và Tống đồng tri đưa mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ nếu như lời Tri Xuân kể là thật, thì rất có khả năng là hai người họ bị người ta dùng mông hãn dược hay thuốc an thần gì đó cho uống hoặc đốt khói ngửi phải.

Dương Thu Trì ra dấu cho Tri Xuân kể tiếp.

Tri Xuân nói: "Tôi gọi bà vú dậy lo cho tiểu thiếu gia, sau đó định đi phục thị cho tam di nương dậy, nhưng vừa đến cửa thì đã thấy tam di nương treo cổ trên xà ngang phòng khách rồi."

Nói đến đây, toàn thân Tri Xuân hơi run, dường như vẫn còn kinh khủng vì chuyện năm xưa.

Dương Thu Trì hỏi: "Ngươi nhớ kỹ lại coi lúc đó đại khái là canh mấy?"

"Lúc đó khoảng giờ mão, nhân vì sau đó có nghe Bàng quản gia nói, khi nghe tin tức thì bọn họ đang ăn sáng. Chúng tôi ăn sáng khoảng giờ mão."

"Ngươi nói tiếp đi."

"Tôi chạy vào nói với bà vú, bà vú chạy ra xem cũng sợ hãi kêu rú lên. Sau đó tôi mở cửa phòng ra hành lang kêu lớn, mọi người đều đến, sau đó đại gia...."

"Chờ chút!" Dương Thu Trì ngắt lời Tri Xuân, "Lúc ngươi mở cửa có chú ý đến cửa có cài chắc không?"

Tri Xuân gật đầu khẳng định: "Cài rất chắc, đầu hôm là do tôi cài, sáng ra khi mở ra thấy cửa vẫn còn cài rất chắc."

"Ngươi chẳng phải vội vội vàng vàng nhớ sai chứ?"

"Không đâu, nhân vị cửa phòng không những được cài chặt lại, mà còn dùng một cây song chặn chặt lại. Tôi nhớ rất rõ là cây song này vẫn còn nguyên vị trí, lúc tôi lấy ra quá gấp không kịp đạt ngay ngắn đã bỏ đại trên mặt đất kêu lên một tiếng lớn, còn khiến bản thân giật mình kinh hãi. Do quá gấp, cửa cài quá chặt, tôi mở cây song ra không được mới gọi bà vú ra giúp, sau đó mới mở được cửa."

Tri Xuyên khẳng định như thế xem ra không phải là giả. Xem ra một lát cần phải tra hỏi bà vú rồi so lại lời khai xem có vấn đề gì hay không.

Dương Thu Trì hỏi tiếp: "Tối hôm đó tam di nương có nói với ngươi lời nào khả nghi hay không?"

Tri Xuân ngẫm nghĩ, xong lắc đầu đáp: "Không có, sau khi tam di nương nổi cơn bị chúng tôi kéo về, nhất mực không nói gì, chỉ cười cười ngu ngơ cửi y phục, cho đến tối khi người đã ngủ rồi mà chưa từng nói một tiếng nào."

"Ngươi phục thị tam di nương của các ngươi bao lâu?"

"Lúc tam di nương đến Dương gia thì Dương lão thái gia đã sai tôi đi phục thị người."

"Vậy trước đây ngươi đã từng thấy tam di nương phát cơn như vậy chưa?"

Tri Xuân nhớ lại, đáp: "Không hề, trước đó chưa hề có lần nào."

"Ngươi đem chuyện tam di nương phát cơn kể ra hết một lượt xem sao."
 
Chương 156: Hoa si (Chứng cuồng dâm)


Tri Xuân khẽ ửng đỏ hai gò má, cúi thấp đầu bẻn lẻn kể: "Ngày đó sau khi ăn cơm chiều xong, tôi đang ở phòng cùng bà vú chơi đùa với tiểu thiếu gia thì nghe tam di nương cười cười chạy xuống dưới lầu, tiếng cười rất kỳ quái, hơi ngu ngu thế nào ấy."

"Tôi liền vội chạy theo gọi tam di nương, thì thấy tam di nương vừa cười khì khì vừa cởi quần áo chạy thẳng một mạch tới vườn nhà của đại thiếu gia. Đại thiếu gia nghe tiếng tôi hô, liền chạy từ trong phòng ra, lúc này tam di nương đã cởi gần hết rồi, một mạch nhảy vào ôm chặt đại thiếu già, còn đòi... đòi đại thiếu gia phải tức thời cùng người..."

Tri Xuân cúi thấp đầu hơn, mắc cỡ dừng lời kể lại, nhưng ai cũng biết ý cô bé nói về cái gì.

Dương Thu Trì cũng cảm thấy ngượng, không tự chủ được quay sang nhìn Tống Vân Nhi. Tống Vân Nhi tuy không biết ý tứ đích xác của Tri Xuân là gì, nhưng nghe Quách thị cởi quần áo ôm nam nhân, hai má cũng đỏ hồng.

Dương Thu Trì vội quay đầu lại hỏi: "Sau đó thì sao? Nói rõ một chút."

"Đại thiếu gia sợ quá kêu to lên, nhưng không dám đẩy Tam di nương ra, đành để tam di nương ôm chặt. Tôi vội kéo ra nhưng không biết tam di nương lấy đâu ra sức lực cực mạnh, tôi căn bản chẳng thể kéo ra được."

"Đến lúc này thì lão thái gia, đại phu nhân, nhị di nương và còn có Bàng quản gia đều đến, cùng động thủ mới tách được Tam di nương. Kết quả là Tam di nương ôm lấy Bàng quản gia, khiến Bàng quản gia sợ té xuống đất. Đại phu nhân đánh tam di nương mấy bạt tai, tam di nương cứ cười khì khì như không hề biết đau vậy."

"Nhị di nương cũng muốn đánh tam di nương vài cái tát, nhưng bị tam di nương xô té dưới đất. Nhị tiểu thư liền bước lên đạp cho tam di nương một cái vào ngực, khiến tam di nương bị té ngồi xuống đất, mọi người định nhào lên bắt lại để mặc y phục cho người, không ngờ tam di nương thoắt cái vụt dậy chạy ra khỏi vườn, chảy ra cửa lớn mới bị gia đinh bắt lại."

"Lão thái gia tức giận luôn miệng mắng tam di nương không biết liêm sĩ, làm thương phong bại tục, trói người lại định trị tội. Mấy nha hoàn chúng tôi vội kéo lại giúp tam di nương mặc y phục rồi đưa về lại lầu rồi khóa cổng vườn lại."

Dương Thu Trì kỳ quái hỏi: "Tối hôm đó cửa vườn được khóa lại sao?"

"Khóa lại. Trước đó chỉ cài then từ bên trong là được, nhưng hôm đó sợ tam di nương nhân lúc chúng tôi không chú ý lại chạy ra ngoài phát cuồng nữa, nên Dương lão thái gia gọi mọi người khóa cửa vườn từ bên ngoài luôn."

Dương Thu Trì cảm thấy thật không còn gì nói nữa, tam di nương này thật là đáng thương. Từ sự mô tả triệu chứng của Tri Xuân, tam di nương hiển nhiên không phải uống phải xuân dược phát tình - uống thuốc kích dục đương nhiên sẽ cảm thấy hưng phấn, nhưng là một thứ hưng phấn có lý trí, hay có thể nói là dù có sự thúc đẩy dục tình, nhưng còn không đến nổi phải cởi bỏ quần áo chạy rông khắp nơi.

Tam di nương có thể là đã bị một chứng bệnh tinh thần phân liệt theo loại thanh xuân. Nếu mắc phải thứ bệnh này, nữ bệnh nhân thường thể hiện kịch liệt hơn nam nhân, lại rất dễ phát vào tuổi thiếu thời đẹp như hoa như ngọc, nên mới gọi là chứng "hoa điên" hay "hoa si" trong Trung y.

Nói cho đơn giản, Hoa si là một loại bệnh về tinh thần, là hiện tượng khi tinh thần hoạt động có xuất hiện những chướng ngại về tư duy, biểu hiện chủ yếu là khi xuất hiện hiện tượng vọng tưởng về tiếng sét ái tình, vừa gặp đã say mê, hay là tính đố kỵ ... Về ý thức, trong tình huống thông thường, bệnh nhân thường xuất hiện các ảo giác về nghe, ngửi, thấy liên quan đến những vấn đề tính giao, cụ thể là nhìn thấy người ta đang quan hệ, nghe thấy tiếng rên rĩ... dù thực tế không hề xảy ra.

Tam di nương cởi quần áo chạy đi tìm đại thiếu gia, trước mặt nhiều người ôm đại thiếu gia đòi hỏi... chính là điển hình của hiện tượng tinh thần phân liệt do ảo tưởng, là một thứ ảo tưởng "bị chung tình", ảo tưởng cho rằng nam nhân mà mình ái mộ cũng yêu mình, và trong tình huống bị chi phối do thần kinh bị kích động quá mạnh mới dẫn đến hành vi mà người thường không thể nào thực hiện như thế.

Cơ lý phát bệnh "hoa si" còn chưa được xác định rõ, đó là thứ cải biến không rõ ràng về hình thái học ở đại não, thường được cho rằng nó thuộc về sự bất ổn trong dịch tiết nội tiết thần kinh của bất kỳ thiếu niên nam nữ nào. Những người có khuynh hướng ảo tưởng càng mạnh, thì khả năng chịu đựng đả kích càng kém. Và một khi sự đả kích quá mạnh khiến cho hóc môn chống stress của thần kinh suy kiệt, nó sẽ phát sinh những phản ứng tổng hợp tạo thành bệnh hoa si.

Và những kích thích dẫn đến việc nam nữ thanh niên phát bệnh hoa si nàythường phát sinh từ sinh hoạt xã hội, sinh hoạt tình cảm, và thậm chí từ tác dụng phụ của một số loại thuốc nào đó.

Tam di nương rốt cuộc là gặp phải sự đả kích gì mà phát bên hoa si? Hiện giờ hắn vẫn còn chưa biết.

Dương Thu Trì lại hỏi: "Sau khi phát hiện tam di nương treo cổ chết, ai là người đỡ dì ấy xuống?"

"Là tôi," Tri Xuân đáp, "Đại phu nhân bảo tôi đỡ thi thể của tam di nương xuống, gọi Bàng quản gia gỡ dây treo ra. Lúc đó tôi rất sợ, không dám leo lên, bị đại phu nhân đánh cho ba bạt tai, không còn cách nào khác mới bước lên ôm đùi của tam phu nhân. Bàng quản gia đỡ cái ghế ngã cạnh đó định bước lên gỡ dây ra, thì đại thiếu gia đã nhanh nhẹn nhảy lên ghế mở dây ra trước. Tam di nương rất nặng, tôi ôm không nổi suýt té, rất may là bà vú bước lên phụ tôi, mới từ từ đặt được tam di nương xuống đất."

Nghe đến đây, Dương Thu Trì chợt động tâm, tam di nương phát hoa si thì chạy đi ôm người đầu tiên là đại thiếu gia Dương Thanh Thủy, cho thấy nàng ta đã bị ảo tưởng về sự chung tình, ý trúng nhân trong nội tâm nhất định là đại thiếu gia Dương Thanh Thủy. Hiện giờ đại thiếu gia là người đầu tiên đến cởi dây treo cổ, xem ra quan hệ của hai người không đơn giản chút nào.

Nếu như án này là trong ứng ngoại hợp, thì Dương Thanh Thủy là người bị hiềm nghi nhiều nhất.

Phá án liên quan đến tính mạng thì vấn đề trọng yếu nhất là thời gian người bị hại có liên quan gì đến người bị hiềm nghi hay không.

Dương Thu Trì hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Lúc ngươi ôm dì ấy, thân hình dì ấy còn nóng không?"

"Đã lạnh ngắt rồi."

Tay người cảm giác lạnh thì nhiệt độ ứng với khoảng dưới ba mươi độ C. Quách thị chết vào lúc trời vào xuân, hoa nở, khí hậu hơi ấm, do đó án chiếu thiếu tốc độ thi thể lạnh đi trong điều kiện bình thường mà xét, thì thời gian chết đại khái đã hết khoảng sáu tiếng đồng hồ.

Chỉ dựa vào nhiệt độ thi thể không đủ để phán đoán, Dương Thu Trì truy vấn: "Lúc ngươi đỡ thi thể của tam di thái xuống, cảm giác tay chân của dì ấy có cứng không? Nhớ cho thật kỹ xem, lấy hết khả năng kể cho rõ từng chút một."

"Đã cứng ngắt rồi, nhưng lúc tôi đỡ người xuống đất thì chân vẫn còn mềm, có thể gấp lại, lúc bắt mạch thì phát hiện tay của người không thể co lại, lúc cởi dây tròng cổ của người ra có ôm nâng đầu lên, cần cổ của người không thể co dũi được, cả người đều ưỡn lên."

Dương Thu Trì nghe lời thuật lại của Tri Xuân, lập tức biết hiện tượng thi cương của Quách thị mang tính chuyển xuống dưới, cổ và tay đều đã không uốn cong được, nhưng chân có thể uốn cong, từ trên phát triển xuống dưới chính là biểu hiện của hiện tượng thi cương hạ hành (xuôi dòng, chuyển xuống dưới).

Do vẫn chưa hình thành hiện tượng thi cương cao cường độ ở toàn thân, như vậy có thể nói thân trên đã có thi cương nhưng ở thân dưới thì chưa. Nếu chiếu theo điều này mà xét, thì thời gian chết ứng vào khoảng bốn giờ, như vậy chính vào khoảng 2 giờ đêm.

Tri Xuân tiếp tục kể: "Sau đó khi nhập liệm Dương lão thái gia có bảo chúng tôi rửa toàn thân cho tam di thái và thay y phục, lúc đó phải phí rất nhiều sức lực mới làm cho tay cong lại. Mặc quần áo xong rồi, chờ đến khi đưa vào trong quan tài, tay của người cứng lại không gập vào nữa.

Nghe đến đây, Dương Thu Trì chợt động tâm: cứng trở lại? Cái gọi là cứng trỡ lại này chính là sau khi thi thể xuất hiện thi cương, dùng ngoại lực cường hành giải trừ hiện tượng cứng của các bộ phân cơ thể rồi thì sau đó sẽ cứng trở lại, chỉ có điều hiện tượng này chỉ xuất hiện sau khi chết từ năm đến sáu giờ. Điều này rất hữu dụng cho sự phán đoán về thời gian tử vong.

Dương Thu Trì truy vấn: "Tam di nương của các ngươi sau khi được đưa vào quan tài rồi đại khái cách thời gian phát hiện bao lâu?"

"Đại khái khoảng một canh giờ, nhân vì sau khi phát hiện tam di nương treo cổ chết, đại phu nhân sợ sẽ tụ khí tà, nên lệnh cho Bàng quản gia lập tức đến nhà hòm họ Vương trong thôn mua một cái quan tài. Quan tài đó còn chưa kịp trang trí, nhập quan tẫm liệm xong rồi mới gắn hoa văn vào."

"Lúc ngươi đỡ tam di nương xuống đất, có phát hiện tay chân của dì ấy có dị dạng gì không?" Dương Thu Trì hỏi vậy là vì nếu bị treo đứng thì hiện tượng thi ban sẽ xuất hiện rất nhiều ở tay chân và bụng dưới.

Ti Xuân cúi đầu trầm tư một lúc, đáp: "Tay chân tam di nương vốn rất trắng và mịn, nhưng khi chúng tôi đỡ người xuống, bắt mạch của người thì phát hiện tay đen tím rất đáng sợ. Sau đó khi thay quần áo và vệ sinh thân thể, phát hiện bụng dưới và gan bàn chân tím đen."

Như vậy có thể nói lúc Tri Xuân phát hiện thi thể thì đã xuất hiện thi ban, do đó thời gian tử vong phải từ hai giờ trở lên.

Lúc nãy Tri Xuân nói tam di nương ngủ vào khoảng canh ba, chính là vào khoảng mười hai giờ đêm. Phát hiện thi thể vào giờ mão, tức là khoảng sáu giờ sáng. Phát hiện hiện tượng cứng trở lại vào khoảng một canh giờ nữa, ứng vào khoảng tám giờ. Hiện tượng cứng trở lại thường phát sinh sau khi chết khoảng sáu giờ, kết hợp thêm với nhiệt độ cơ thể mà phán đoán, thì thời gian tử vong của Quách thị là vào lúc 2 giờ đêm.

Hỏi xong mấy điều này, Dương Thu Trì đột nhiên đanh mặt, lạnh lùng bảo: "Được rồi, chúng ta quanh đi quẩn lại cả buổi, hiện giờ nên nói vào chính sự đây. Tri Xuân, ngươi hãy thành thật khai ra, ngươi làm cách nào xiết cổ chết tam di nương của các ngươi, sau đó đem dì ấy ngụy trang thành treo cổ tự sát vậy? Thành thật khai ra, nếu không sẽ phải chịu cái khổ đau đớn da thịt!"

Vừa nghe lời này, Tri Xuân sợ đến hoa dung thất sắc, dập đầu lia lịa thưa: "Đại nhân, dân nữ oan uổng a! Tôi không hề giết tam di nương, tôi không có mà."

Tống đồng tri và Tống Vân Nhi vốn nghe Dương Thu Trì đang nói năng nhẹ nhàng là thế, sao đột nhiên chuyển qua hỏi một câu trái ngược hoàn toàn, lại còn khẳng định như vậy nữa?!

Kỳ thật, đây là biện pháp khi không còn biện pháp nào nữa của Dương Thu Trì. Án mạng đã xảy ra hai năm, người bị hại ở trong phòng kín, hai cửa khóa chặt, không có dấu vết của người ngoài lẻn vào, trong phòng chỉ có đứa bé Sơn nhi ba tuổi và Tri Xuân và bà vú, hai người lớn này đương nhiên là kẻ bị hiềm nghi lớn nhất.

Trong tình huống này chỉ cần dùng phương pháp bài trừ đã có thể định tội, nhưng phương pháp bài trừ chỉ có thể dùng để đoán định có tội, hay nói rõ hơn là trước hết đoán là y có tội, sau đó tìm ra bằng chứng chứng minh. Đôi lúc có thể để bị cáo tự chứng minh bản thân vô tội, nếu như không thể chứng minh thì có thể nhận định y có tội, nếu không chịu thừa nhận thì có thể dùng hình tấn bức cung.

Phương pháp bài trừ này chính là cách nhận định tội phạm, trong xã hội Trung Quốc hiện đại chỉ có thể thích hợp để nhận định một tội danh, đó là "tội tài sản cực lớn có nguồn gốc không minh bạch", nếu bị cáo là cán bộ viên chức của quốc gia, tài sản nhiều hơn thu nhập quá nhiều, thì có thể đoán định là tài sản đến từ nguồn gốc phi pháp. Nếu như nhân viên công vụ của quốc gia không thể chứng minh tài sản đó là có được tự nguồn gốc hợp pháp, thì có thể nhận định đó là phi pháp mà truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngoại trừ tội danh này, toàn bộ các chứng cứ để nhận định phạm tội khác đều phải được cơ quan công tố chứng minh, đây là cái gọi là "Tội bất tự chứng", hay còn nói người hiềm nghi phạm tội không có nghĩa vụ chứng minh mình không phạm tội, càng không có nghĩa vụ chứng minh mình phạm tội. Chứng minh người đó phạm tội hay không là chuyện của cơ quan công tố, nếu không thể chứng minh hay chứng cứ không đủ thì phải tuyên cáo kẻ ấy vô tội.

Tuy pháp luật quy định như vậy, nhưng trong hiện thật sinh hoạt, một số cơ quan công tố khi tiến hành khởi tố vẫn cứ sử dụng phương pháp bài trừ này để nhận định phạm tội. Do kết luận từ phương pháp này thiếu tính duy nhất, do đó nếu bài trừ mà để hở chỗ nào đó, rất có khả năng dẫn tới những án oan sai, nên nếu chỉ đơn thuần sử dụng phương pháp nhận định phạm tội này để khởi tố thì không được pháp viện ủng hộ, ít nhất cũng phải được pháp quan đã được huấn luyện nghiêm cách về pháp luật ủng hộ thì mới có thể.

Dương Thu Trì đương nhiên biết rõ những điều này, nhưng hiện giờ là ở Minh triều vào mấy trăm năm về trước. Vào thời bấy giờ, sử dụng phương pháp "đoán định có tội" rất thông hành, và nếu như nó đã hợp pháp, thì hắn an tâm dùng. Hiện giờ người hiềm nghi phạm tội chỉ có hai, lại không có manh mối đáng tin nào khác, do đó Dương Thu Trì quyết định sử dụng phương pháp đoán định này để thử xem coi hiệu nghiệm ra sao.

Đoán định có tội cộng thêm dùng hình tấn bức cung chính là thủ đoạn phá án. Tuy chúng không phù hợp quan niệm nhân quyền, nhưng không hẳn không là phương pháp phá án hữu hiệu, nên được nhiều nhân viên điều tra hình sự dùng, bởi vì nó đơn giản và hữu hiệu.

Nhưng phương pháp nhận định phạm tội này một khi có sự sai lầm trong phán đoán, thì sẽ xâm phạm nặng nề đến quyền lợi hợp pháp của người hiềm nghi, không phù hợp tinh thần nhân quyền, nên bị các nền pháp trị hiện đại bỏ qua. Thứ hành vi này được nhiên là đối tượng chỉnh trị trọng điểm của cơ quan kiểm sát và giám sát thực thi pháp luật.

Nghe Tri Xuân bảo là hàm oan, Dương Thu Trì chuyển giọng hỏi: "Tam di nương đối với ngươi thế nào?"

Tri Xuân không hề ngờ hắn sẽ hỏi như thế, trong lúc nhất thời không biết đáp như thế nào, nghĩ ngợi một chút mới đáp: "Tam di nương đối với tôi.... đối với tôi... rất tốt ạ."

"Rất tốt?" Dương Thu Trì cười lạnh, "Vậy mấy vết sẹo trên cổ và lưng ngươi đó do ai đánh vậy?"

Vừa nghe câu hỏi này của Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi tức thời hiểu ra, cả cười reo lên, "Ca, vừa rồi huynh nhìn cổ người ta chằm chằm như vậy thì ra là nhìn vết thương a! Muội còn tưởng là.... hi hi hi."

Dương Thu Trì trừng mắt nhìn nàng: "Đừng làm ồn!"

Tống Vân Nhi rụt cổ, lè lưỡi nín họng.

Tri Xuân nghe Dương Thu Trì hỏi câu này, ú ớ đáp: "Không có, không có a, có thể là tôi tự gãi rồi lưu lại dấu vết đấy thôi."

Dương Thu Trì quay đầu lại bảo Tống Vân Nhi: "Vân nhi, làm phiền muội đưa ả vào sương phòng kia, cởi quần áo ra kiểm tra một lúc, coi xem có vết sẹo gì không, và hình dạng vết sẹo như thế nào."

"Được!" Tống Vân Nhi bước lên xách cổ Tri Xuân lên nắm tay kéo vào sương phòng cách vách.

Một lúc sau, Tống Vân Nhi kéo Tri Xuân ra, nói: "Ca, trên người ả chỗ nào cũng có dấu roi đánh, chỉ có điều vết roi rất nhạt, dường như đã bị lâu rồi." Nói xong quay về vị trí cũ ngồi xuống.

Dương Thu Trì cười lạnh hỏi Tri Xuân: "Trên người ngươi đầy vết thương như vậy là từ đâu mà ra? Nếu tiếp tục không thành thật khai báo, đại hình chờ đón!"

"Tôi khai, tôi khai," Tri Xuân run rẩy nói, "Tam di nương thường bị đại phu nhân và nhị di nương trút giận, trở về thường thấy tôi không vừa mắt, nên cứ kiếm cớ đánh tôi."

Dương Thu Trì nhìn Tri Xuân chằm chằm, bảo: "Do đó ngươi tức giận nhịn không được, nhân lúc dì ấy bị hoa si, ý thức thác loạn, tận dụng cơ hội xíêt cổ chết đúng không?"

"Tôi không có! Tôi không có làm a, đại nhân, dân nữ oan uổng mà."

"Oan uổng? Tam di nương vô duyên vô cưới đánh ngươi, chẳng lẽ ngươi không hận sao?"

Tri Xuân rụt người sợ hãi không nói gì.

Tống đồng tri cũng nghe ra ý tứ, thì ra tiểu nha hoàn này chịu không được sự ẩu đả vô cớ của tam di nương với ả, nên báo phục giết người! Lão thầm mừng rỡ, như vậy là án này bị phá rồi, vị hiền điệt này quả thật là cao thủ phá án, tới tay là bắt được, công lao này lão lại lập chắc rồi!

Tống đồng tri hét lên: "Điêu dân thế thế à, không đánh không khai! Người đâu, kéo ả ra đánh ba chục gậy cho, cho ta!" Theo tập quán lão quơ tay cầm cây thước trên án định vỗ xuống, nhưng sờ sờ mãi mà trống không, mới biết đây không phải là nha môn của mình, mà là ở trên căn lầu nhỏ có xuất hiện quỷ.

Nam Cung Hùng và ba hộ vệ khác không phải là thủ hạ của Tống đồng tri, không chịu nghe theo hiệu lệnh của lão, chỉ nhìn Dương Thu Trì. Dương Thu Trì khe khẽ gật đầu, họ mới đáp ứng, bước lên kéo Tri Xuân ra hành lang định đánh roi.

Tri Xuân sợ đến đánh bò cạp, run rẩy nói: "Đừng đánh tôi, tôi khai, tôi khai."

Dương Thu trì phất tay, Nam Cung Hùng và mấy người khác lúc này mới kéo Tri Xuân trở lại, sau đó quay về chỗ cũ.

Tri Xuân thở phù một hơi, nói: "Lúc đó quả thật tôi có hận tam di nương, đích xác cũng nghĩ... nghĩ là sẽ trở mặt với người, nhưng trong thâm tâm tôi không dám nghĩ gì xa hơn, chỉ trách cái số tôi khổ. Tôi thật không có giết tam di nương, cầu đại nhân mình xét a." Nói xong dập đầu liên tục.

Tống đồng tri khó khăn lắm mới nắm được nghi phạm, sao có thể dễ dàng bỏ qua, hét lên: "Trong phòng đó chỉ có ngươi và bà vú, ngươi lại có động cơ giết người, không phải ngươi giết thì còn ai vào đây? Thật đúng là con điêu phụ, dám giở trò gian dối trước mặt bổn quan, xem ra không đánh không được! Người đâu...."

Dương Thu Trì khoát tay, thưa: "Tống đại nhân, không cần dùng hình vội, cứ đem ả nhốt lại trước, chờ chúng ta xét hỏi xong bà vú Lữ thị rồi tính sau." Vừa nói vừa nháy mắt với Tống đồng tri.

Tống đồng tri có chút không hiểu nhìn Dương Thu Trì, nhưng cuối cùng đành gật đầu: "Cứ theo ý hiền điệt vậy." Rồi lão ra lệnh: "Đem phạm phụ Tri Xuân giải xuống, đem, đem bà vú Lữ thị thượng, thượng đường!"

Tri Xuân vẫn còn dập đầu kêu oan, bị kéo xuống lầu giam lại.

Nhân lúc Tri Xuân bị đưa ra ngoài không có ai, Tống đồng tri hỏi Dương Thu Trì: "Hiền điệt vừa rồi có dụng ý gì? Chân hung nếu như đã bắt được rồi, vì, vì sao còn phải hỏi người khác nữa?"

Dương Thu Trì lắc lắc đầu, hạ giọng nói: "Tiểu nha hoàn Tri Xuân không có khả năng là hung thủ, chân hung nhất định là một người khác."
 
Chương 157: Trúng độc mạn tính


Tống đồng tri nghe thế, cả kinh hỏi: "Vì sao có thể nhận định như vậy?"

Dương Thu Trì chỉ vào xà ngang cao cao ở trên: "Hai năm trước tiểu nha hoàn này mới mười hai tuổi, đại nhân cảm thấy ả lúc đó có thể nào ôm thi thể nặng như thể đưa lên dây thòng lọng được hay không, hay kéo thi thể lên được hay không?"

Do người mới chết thường vừa nặng vừa mềm oặt, tuy Quách thị hơi nhẹ, nhưng để ôm một thi thể mềm oặt như thế đưa lên dây thòng lọng thì phải cần người có chút thể lực, Tri Xuân mới mười hai tuổi, là một cô bé bình thường, thì dĩ nhiên không thể làm được như vậy (Tống Vân Nhi có võ công cao cường thì lại khác.)

Tống đồng tri và Tống Vân Nhi đều chợt ngộ ra, gật đầu tán đồng.

Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ chút lại hỏi: "Vậy Tri Xuân này có khả năng là nội ứng không, mở cửa cho người khác vào, để người khác giết người rồi treo cổ?"

Dương Thu Trì nhìn Tống Vân Nhi tán thưởng, gật gật đầu: "Còn có khả năng này nữa, và như thế thì Tri Xuân chính là tòng phạm, chân hung còn có người khác, nhưng mà," Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, "Còn có khả năng khác, đó là Tri Xuân và bà vú hợp mưu giết người, nếu không thì không thể tránh được chuyện bà vú phát giác tiếng động gì đó."

Tống đồng tri cũng chen lời: "Nếu, nếu như bà vú bị đánh thuốc mê thì sao? Nếu vậy ả đâu thể biết được."

Dương Thu Trì lại gật đầu: "Khả năng này cũng lớn, vừa rồi nha hoàn Tri Xuân còn nói, bà mụ ngủ rất say, đứa bé khóc to mà không nghe, trong tình huống bình thường thì vú em sẽ không như vậy. Do đó chúng ta cần phải thẩm vấn bà vú Lữ thị xong rồi mới phán đoán được."

Nói đến đây, Dương Thu Trì thưa với Tống đồng tri: "Bá phụ, Lữ thị này do người thẩm vấn đi thôi."

"Cái đó....!" Tống đồng tri hơi chần chờ, "Nói thật, hiền điệt à, trước, trước đây ta thẩm án còn hơi tự tin, chứ từ, từ khi thấy cháu phá án như thần, ta, ta không dám tra hỏi án nữa. Chỉ sợ sẽ có gì sai, hay, hay là cháu cứ thẩm vấn đi."

Dương Thu Trì mỉm cười: "Bá phụ quá khiêm nhường rồi, lão gia ngài thẩm án biết bao nhiêu năm rồi, ăn muối còn nhiều hơn cháu ăn gạo, kinh nghiệm phong phú quá rồi, sao tiểu điệt có thể sánh được chứ."

Chỉ mấy câu vuốt mông ngựa mà đã khiến Tống đồng tri như bay lên tận mây xanh, lão cảm thấy rất vừa ý.

Dương Thu Trì lại nói tiếp: "Tiểu điệt hoài nghi bà vú là hung thủ chân chính, hơn nữa bà vú sẽ cứng đầu không chịu khai. Bá phụ người đối với thứ điêu dân này rất có biện pháp. Người ra tay thẩm vấn càng chắc ăn hơn."

Hắn lại vuốt mông ngựa tiếp, khiến Tống đồng tri gật đầu liên tục, cười hì hì nói: "Nếu như đã thế, để ta, ta thẩm vấn coi sao."

Dương Thu Trì muốn nhường cho Tống đồng tri thẩm vấn là vì trong hai người hiềm nghi trong án này, nha hoàn Tri Xuân khó có khả năng là hung thủ, do đó bà vú Lữ thị chính là kẻ bị hiềm nghi phạm tội lớn nhất. Nhưng bản thân hắn không có chứng cứ gì chứng minh Lữ thị phạm tội, chỉ dùng phương pháp bài trừ để đưa ra kết luận này. Hắn đề nghị Tống đồng tri tự thân thẩm vấn, chính là muốn coi xem việc dùng phương pháp đoán định phạm tội có dẫn tới đột phá gì hay không, hơn nữa dù sao đó cũng là phương cách hợp pháp ở Minh triều.

Đến lúc này thì bà vú đã được giải vào, quỳ phịch xuống đất khấu đầu.

"Tính danh của phạm phụ!" Câu đầu tiên Tống đồng tri đã tặng cho người ta cái mác "phạm phụ", nói rõ "đoán định phạm tội" đã ăn sâu thâm căn cố đế trong lòng của các quan lại Minh triều như Tống đồng tri rồi.

"Dân phụ Lữ thị."

"Ngươi trước hết đem sự tình đã trải qua đêm đó kể lại hết một lượt, nếu có nói sai câu nào, tức thời sẽ chịu cái khổ da thịt!"

"Vâng! Dân phụ không dám." Lữ thị đem chuyện đêm đó kể lại một lượt, so với lời kể của Tiểu nha hoàn Tri Xuân không khác bao nhiêu, có những tình tiết quan trọng được hai người kể lại giống y như nhau, ví dụ như đêm đó cửa và cửa sổ được đóng chặt, trong phòng họ không còn có ai khác, không có dấu vết người ngừoi đột nhập vào.

Lữ thị kể xong, Tống đồng tri lạnh lùng nói: "Phạm phụ Lữ thị, ngươi xiết cổ chết tam di nương của các ngươi như thế nào hãy tình thật khai ra!"

Bà vú giật mình sợ hãi, vội vã khấu đầu kêu: "Dân phụ oan uổng, tôi không có giết tam di nương a."

"Nói láo!" Tống đồng tri quát lên, "Trong phòng chỉ có ngươi và nha hoàn Tri xuân, Tri Xuân lúc đó mới mười hai tuổi, tuyệt đối không có cách gì ôm thi thể tròng vào dây thòng lọng."

Tống đồng tri hiện giờ vừa học vừa áp dụng ngay, nhìn thân thể chắc nịch của Lữ thị: "Ngươi vốn là một nông phụ, thứ chuyện nặng nề này đối với ngươi chẳng khó gì, không phải ngươi thì còn là ai?" Những lời sau đó thì là tự lão lý giải, xem ra Tống đồng tri chẳng phải là người chỉ dựa và đánh đập mà phán loạn, cũng có để tâm chú ý quan sát mà phân tích ra nữa.

Lữ thị càng sợ hãi hơn, đáp: "Dân phụ oan uổng a, Hôm đó sau khi để Tri Xuân hầu hạ tam di nương, tôi mang tiểu thiếu gia đi và ngủ rất sớm, không biết vì sao mà đêm đó tôi ngủ rất say, nhất mực tới trời sáng khi Tri Xuân gọi mới tỉnh dậy."

"Toàn là lời nói láo! Rõ ràng là ngươi nhân lúc tiểu nha hoàn tuổi đang lớn ngủ say, xiết cổ tam di thái còn đang ngủ mê, sau đó treo ả lên xà nhà ngụy trang treo cổ tự sát."

"Tôi không có a, đại nhân, tôi bị oan a."

"Oan uổng? Trong phòng chỉ có hai ngươi, không phải nó thì là ngươi! Ngươi nói ngươi oan uổng, nếu như ngươi có thể đưa ra chứng cứ chứng minh ngươi oan uổng, bổn quan sẽ tha cho ngươi."

Không hiểu sao chứng cà lăm của Tống đồng tri khi tra án biến đi đâu mất. Lữ thị làm gì trưng ra được chứng cứ nào, chỉ có thể nói: "Tôi lúc đó đang ngủ a, tôi thật không biết gì hết."

"Còn dám cãi bướng, người đâu, kéo ra ngoài đánh ba chục hèo cho ta!" Tống đồng tri quát lên.

Vốn ra đối với nữ phạm thì khi dùng hình theo luật là phải dùng dụng cụ kẹp ngón tay, nhưng hiện giờ không có nên chỉ có thể dùng hèo đánh.

Dương Thu Trì không hề ngăn trở, nhân vì hắn không còn biện pháp nào khác. Hơn nữa, hiện giờ Tống đồng tri đang thẩm án, nhưng thật ra là đã dùng biện pháp của hắn. Hơn nữa, phân tích của Tống đồng tri rất có đạo lý, trong phòng chỉ có hai người họ, không phải người này thì người kia, ngươi không nhận tội thì theo Đại Minh luật đương nhiên có thể dùng hình.

Ba hộ vệ kéo Lữ thị ra ngoài hành lang kiếm một ghế dài cho nằm lên đánh lịch bịch một hồi, mặc cho Lữ thị luôn miệng kêu gào thảm thiết.

Ba chục hèo được đánh xong, họ kéo Lữ thị vào quẳng phục xuống đất.

Tống đồng tri hỏi: "Lữ thị, hiện giờ có khai hay không?"

Lữ thị đau đến nỗi mồ hôi ướt bệt cả người, dưới đùi đầy máu, thở hồng hộc thưa: "Đại nhân, dân phụ đúng là oan uổng mà."

"Điêu dân đại đảm, ngươi cho là thân thể ngươi cứng có thể chống nổi thiết bảng của ta hay sao? Người đâu, đem ả đi đánh ba mươi hèo nữa!"

Bọn hộ vệ lại kéo Lữ thị ra đánh thêm ba mươi roi, sau đó lại kéo vào quẳng đó.

Sáu mươi hèo này đánh xong thì Lữ thị suýt hôn mê đến nơi, nhưng vẫn còn chưa chịu khai.

Tống đồng tri còn muốn dùng hình tiếp, Dương Thu Trì đưa tay ngăn lại, lòng nghĩ chỉ sợ đánh tiếp sẽ dẫn đến sợ đánh mà khai thôi. Chẳng lẽ chẳng phải Lữ thị và Tri Xuân làm? Không phải họ thì là ai? Dù sao thì Sơn nhi ba tuổi không thể làm được chuyện này.

Dương Thu Trì cảm thấy đầu bắt đầu to lên, thứ án lâu năm này thật là phiền, thời gian đã quá trưa rồi mà chẳng điều tra ra thứ gì. Án này tuy có hai người bị hiềm nghi, nhưng độ khó vẫn không ít.

Tống đồng tri không biết vì sao Dương Thu Trì ngăn không cho lão dùng hình, hỏi: "Hiền điệt,..."

Dương Thu Trì vội đáp: "Trưa rồi, ăn cơm trước đã."

Tống Vân Nhi cũng chen lời: "Đúng a, cha, hãy cho Lữ thị ăn chút gì đó, hơn nữa phải để ả chiếu cố Sơn nhi, nếu đánh dữ quá thì Sơn nhi sẽ làm sao?"

Dương Thu Trì thầm nghĩ, cô nói giờ đã muộn rồi, đánh người ta những sáu chục hèo, còn bắt người ta chiếu cố tiểu hài thì có thánh mới làm nổi.

Quả nhiên, Lữ thị chẳng thể nào đứng nổi. Tống đồng tri chỉ còn biết cho người báo nha hoàn khác đỡ ả xuống nhà rồi giam lại. Ả hiện giờ là kẻ hiềm nghi trọng điểm, không thể để xảy ra vấn đề gì.

Lúc dùng cơm, Dương lão thái gia ngồi tiếp một bên. Trong nhà xày ra án mạng, vừa là khổ chủ vừa là hiềm phạm, thân phận song trọng khiến cho Dương lão thái gia vô cùng áy náy.

Dương Thu Trì ngược lại luôn miệng an ủi Dương lão thái gia. Phạm vi của án này rất nhỏ, nhất định sẽ nhanh chóng phá được, thậm chí chẳng ảnh hưởng đến chuyện mừng năm mới. Nghe nói thế, Dương lão thái gia mới hơi an tâm.

Lão an tâm rồi thì đến lượt Dương Thu Trì lòng nặng như đeo đó. Tri Xuân và Lữ thị đều không nhận tội. Yếu tố thân thể của Tri Xuân bài trừ khả năng phạm tội của cô bé, lại không có chứng cứ chứng minh cô bé mở cửa cho người khác vào thực thi hành động phạm tội, còn Lữ thị thì dùng hìh cụ rồi mà không chịu nhận, do đó án này rơi vào ngõ cụt, khiến hắn an tâm sao được?

Tống Vân Nhi thì cứ lo cho Sơn nhi, hỏi bọn người hầu mới biết Bàng quản gia đã an bài cho Tri Xuân tạm thời chiếu cố Sơn nhi, nhưng Tống Vân Nhi không an tâm, muốn tự thân đế xem coi sao.

Dương Thu Trì cảm thấy Tống Vân Nhi đối rất tốt với trẻ con, xem ra bản năng làm mẹ người nữ nào cũng có, mặc cho cô là vũ hiệp nữ anh hào hay là nông phụ phổ thông.

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì rầu rầu không vui, bèn kéo hắn cùng đến xem em bé để giải khuây.

Dương Thu Trì muốn đi xem con trai Dương lão thái gia, lão đương nhiên muốn theo cùng. Tống đồng tri không có chuyện gì làm, cũng đi cùng đến phòng của Tri Xuân xem cậu bé.

Bọn họ đến phòng của Tri Xuân thì thấy cô bé đang cho Sơn nhi ăn.

Ngày trước Dương Thu Trì đã từng thấy qua Sơn nhi, nhưng lần đó cậu bé bị Lữ thị bao trong lớp chăn dày nhìn không rõ, hiện giờ nhìn kỹ khiến hắn giật nãy cả mình.

Sơn nhi đã hai tuổi, theo đạo lý thì sống trong nhà giàu như Dương lão thái gia, điều kiện sinh hoạt đều tốt thì cậu bé phải mập mạp khỏe mạnh, đằng này Sơn nhi mạt mũi vàng khè, đầu chỉ mọc mấy cọng tóc vàng hoe khô như rễ tre, mặt không có chút huyết sắc nào, màu vàng lẫn lộn màu đen, ăn uống rõ ràng là không tốt, ăn một chút mà đã ói ra gần hết, cứ khóc mãi dỗ không nín.

Tống Vân Nhi ẵm Sơn nhi lên làm ma nhát, Sơn nhi liền nín khóc, đưa bàn tay nhỏ nhắn ra chộp vào mũi Tống Vân Nhi. Tống Vân Nhi cầm tay cậu bé, cảm giác bàn tay nhỏ bé gầy khô giống như que củi vậy.

Nhìn tình cảnh này, Tống Vân Nhi tức giận không sao kể xiết, cầm tay Sơn nhi lên trách Dương lão thái gia: "Các ngươi chiếu cố hài tử như vậy sao? Ông coi nè!" Dương Thu Trì cùng mọi người nhón người lên xem, lại giật thót người thêm cái nữa, thấy bàn tay nhỏ nhắn của Sơn nhi xem ra còn khô và xấu hơn của một ông lão, lại có thêm rất nhiều chấm đỏ nhỏ trên da.

Dương lão thái gia nhân vì tam di thái phát bệnh hoa si mà nghi ngờ đứa bé này không phải là con mình, từ đó lão chẳng thèm ngó ngàng đến hài tử, nói gì đến việc quan tâm chăm sóc.

Hiện giờ nghe Tống Vân Nhi hỏi như vậy, Dương lão thái gia mới chú ý nhìn kỹ Sơn nhi, cả kinh hỏi: "Nó làm sao mà ốm quá như vậy? Đã xảy ra chuyện gì?"

Bàng quản gia ở bên cạnh vội vã thưa: "Hồi bẩm lão ga, tiểu thiếu gia từ khi sinh tới giờ thể trạng yếu ớt nhiều bệnh, đã tìm rất nhiều lang trung bốc thuốc nhưng mãi không hết."

"Đồ phế vật vô dụng!" Dương lão thái gia mắng.

Dương Thu Trì nãy giờ cứ nhíu mày nhìn Sơn nhi, đến lúc này mới bảo: "Để ta coi coi." Nói xong sắc mặt ngưng trọng ăm Sơn nhi từ tay của Tống Vân Nhi.

Tống Vân Nhi mừng rỡ: "Ca, huynh biết coi bịnh nữa sao? Sao mà muội lại không biết vậy cà."

Dương Thu Trì không trả lời, ôm Sơn nhi đi đến bên cạnh giường, đặt câu bé xuống rồi cởi giày ra, cầm bàn chân nhỏ xíu của cậu bé lên xem, thấy nó cũng khô khan ốm yếu giống như bàn tay vậy, thập chí còn đầy da sần còn hơn cả dân công đi chân không nữa.

Tống Vân Nhi tức giận, quát hỏi Bàng quản gia: "Thế là làm sao? Ngươi coi đứa bé này nè, bộ các ngươi mỗi ngày bắt nó chân không chạy trên đá suốt hay sao vậy?"

"Không có a!" Bàng quan gia trước giờ không chú ý bàn chân không của đứa bé, giờ nhìn mà điếng người, cúi xuống sờ sờ chân cậu bé, khủng hoảng nói, "Tôi thấy bà vú Lữ thị chiếu cố tiểu thiếu gia rất tốt, rất cẩn thận a, tôi chỉ nghĩ tiểu thiếu gia yếu ớt nhiều bệnh, thật không ngờ.... Tôi đi kéo con Lữ thị độc phụ đó lên đây hỏi cho ra lẽ!"

"Không cần hỏi!" Dương Thu Trì phất tay. "Ta biết vì sao rồi."

Bàng quản gia cùng mọi người nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì vuốt ve bàn chân của cậu bé, cất giọng trầm trọng nói: "Sơn nhi rất có khả năng là đã bị trúng độc rồi! Theo dạng này thì cậu bé không sống đến mùa hè năm sau!"

Dương lão thái gia cùng mọi người đều kinh hãi ngẫn ra. Bàng quan gia vội lên tiếng hỏi: "Dương công tử, thiếu gia của chúng tôi thật là bị trúng độc sao? Công tử làm sao biết được?" Dương lão thái gia, Tống đồng tri, Tống Vân Nhi, bao gồm cả nha hoàn Tri Xuân đều khẩn trương nhìn Dương Thu Trì chờ câu trả lời của hắn.

Dương Thu Trì nói: "Tuy ta vẫn còn chưa dám khẳng định, nhưng cũng hết tám chín phần mười là đã bị trúng độc rồi." Dương Thu Trì nâng chân của Sơn nhi chỉ cho mọi người xem, sau đó sờ tay và mặt cậu bé, nói: "Các người xem da của một đứa bé ba tuổi có khi nào khô ráp như thế này chưa? Cái này chính là bị sừng hóa quá độ."

Hắn lại chỉ vào vài cọng tóc le hoe trên đầu Sơn nhi: "Mọi người xem tóc đã vàng cháy trên đầu Sơn nhi, sắc mặt lại vàng vọt xấu xa, trong màu vàg có lẫn màu đen, theo như ta tính không lầm, thì da trên người của Sơn nhi cũng có màu vàng xen lẫn màu đen." Nói xong hắn cởi y phục của Sơn nhi ra, quả nhiên da của cậu bé bọc xương và có màu vàng đen.

Dương Thu Trì ngầm hiểu rõ đây là sắc tố dưới da bị xạm lại, nhưng không có cách gì nói rõ với họ được.

Dương Thu Trì lại hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Có phải Sơn nhi cứ ăn vào lại nôn ra? Và thường đi tiêu chảy không?"

Nha hoàn Tri Xuân gật đầu: "Đúng vậy, lang trung đã bốc thuốc cầm tiêu chảy và chống nôn, nhưng không có hiệu quả gì."

"Đương nhiên không hiệu dụng," Dương Thu Trì nói, "Sơn nhi bị trúng độc mạn tính, nguồn độc dược chưa bị cắt thì cậu bé cứ đi tiêu chảy và ói mửa hoài, chừng nào chết thì thôi!"

Thứ thuốc độc mạn tính này rất dễ bị chuẩn đoán thành những bệnh liên quan đến đường tiêu hóa hoặc bệnh về da, và các lang trung nhìn không ra không có gì là lạ.

Tống Vân Nhi hậm hực bảo: "Thật là táng tận lương tâm! Ca, Sơn nhi bị trúng độc gì vậy?"

"Tỳ sương, rất có thể là bỏ trong thứ ăn, mỗi ngày cho một chút, khiến Sơn nhi từ từ trúng độc, từ từ tích tụ càng nhiều, cho đến khi phát độc mà chết."

"Đúng là ác độc! Người này là ai?" Hai mắt Tống Vân Nhi như phát hỏa, quay lại chộp lấy Tri Xuân hỏi: "Có phải là ngươi không?"

Tiểu nha hoàn sợ đến mềm nhũn người, run bần bật kêu lên: "Không, không, không phải tôi, tôi sao lại đi hạ thứ độc thủ này. Không phải đâu a."

"Không phải ngươi thì còn là ai?" Tống Vân Nhi trừng mắt nhìn nha hoàn Tri Xuân, "Chẳng lẽ là bà vú Lữ thị?"

Dương Thu Trì tiếp lời: "Rất có khả năng, chỉ có ả ta mới có cơ hội hạ độc mỗi ngày mà không bị phát giác. Nếu như ta đoán không lầm, ở chỗ ả nhất định còn cất giấu tì sương. Hôm nay ả đột nhiên bị bắt, nhất định chưa kịp tiêu hủy tội chứng."

Dương lão thái gia tức giận quát: "Con ác phụ này, lão phu phải chặt thây nó ra làm vạn đoạn! Đi, đi khám xét phòng của nó!" Tuy còn chưa xác định Sơn nhi rốt cuộc có phải là con trai của lão hay không, nhưng dùng thứ thủ đoạn này để đối phó với một đứa bé, phàm là người có lương tri đều không thể chịu được.

Mọi người cùng đến phòng của bà vú Lữ thị, lật tử lật giường bắt đầu tìm kiếm.

Gian phòng này trang trí rất đơn giản, nên cuối cùng Tống Vân Nhi phát hiện được ở đầu giường của Lữ thị có một cái ô kín, từ đó có thể tìm thấy mấy đĩnh bạc và một gói nhỏ chứa bột màu trắng.

Lượng bạc tìm được càng làm rõ vấn đề hơn. Số bạc này ít nhất cũng năm sáu chục lượng. Bà vú Lữ thị là một nông phụ ở hương thôn, là một người nghèo quá mới bán thân vào làm vú ở Dương gia, mỗi tháng chỉ hưởng được khoảng hai ba trăm văn tiền, làm gì có số bạc nhiều như vậy? Nhất định là được người xúi giục đưa cho để làm chuyện xấu.

Tống đồng tri ra lệnh đem bà vú Lữ thị lên phòng, Lữ thị vừa vào thấy đầu giường bị mở toát ra, hộc kín bị lộ, gói bột phấn và mấy đĩnh bạc đặt ở bên cạnh, tức thời dịu oặt xuống đất.

Tống đồng tri lạnh giọng quát: "Lữ thị, nhân chứng vật chứng đều đã rõ, còn không chịu khai, chẳng lẽ còn muốn chịu đại hình hay sao?"

Mặt mày Lữ thị tái ngắt, run run đáp: "Đại nhân tha mạng a, tôi xin khai, tôi hạ độc thiếu gia, đại nhân, lão thái gia tha mạng a."

Dương lão thái gia tức giận đến nỗi râu vễnh cả lên: "Ngươi, ngươi là kẻ mặt người lòng dạ như súc sanh...!" Quát xong lão rối rít ra lệnh cho Bàng quản gia lấy hèo trừng trị theo gia pháp đánh chết Lữ thị.

Bàng quản gia cũng tức đến mắt đỏ hồng, kêu lên: "Lão gia, không cần phí sức như vậy, để tội bóp chết con tặc phụ này là được rồi!" Nói xong xoắn tay áo lên định động thủ.

Tống đồng tri quát: "Khoan đã! Lữ, lữ thị này là bà vú, không có lý do, do bỏ độc chết thiếu gia, nhất, nhất định là có người đứng, đứng sau lưng, hỏi cho ra lẽ rồi, rồi hẳn hay."

Dương Thu Trì thầm khen ngợi, Tống đồng tri quả thật là có kinh nghiệm, dù gì cũng là người nhiều năm thực thi tư pháp, điểm thường thức này hẳn nhiên là có.

Dương lão thái gia gật đầu lia lịa, quát hỏi: "Ngươi, ngươi còn không thành thật khai ra, là ai, ai chỉ sử ngươi làm?"

Lữ thị run rẫy đánh răng bò cạp, không dám lên tiếng.

Dương lão thái gia phóng một chân đá ra, trúng vào mũi Lữ thị khiến máu tươi phún ra, hai cái răng cửa cũng gãy vụn.

Dương lão thái gia rống lên: "Nếu ả không chịu nói, thì mau, mau mang đao đến đây, ta muốn một đao chém chết con độc phụ này báo thù cho con trai ta!" Bàng quản gia lên tiếng đáp ứng, định chạy đi lấy đao.

Dương lão thái gia thật ra không phải dọa suôn, ở Minh triều, án chiếu theo "Đại Minh luật", thì gia trưởng nếu cố giết nô tỳ, thì giỏi lăm chỉ chịu "Trượng thất thập, đồ nhất niên bán" (Đánh 70 trượng, phạt đi đày/lính 1.5 năm) mà thôi, hơn nữa còn có thể nộp tiền miễn hình phạt. Do đó, chuyện gia trưởng đánh chết nô tỳ trong thời này cũng là chuyện thường.
 
Chương 158: Phong Tuyết


Lữ thị đương nhiên biết lợi hại, dập đầu run rẫy thưa: "Tôi khai, tôi khai. Là, là nhị di nương Trương thị sai khiến tôi làm, số tỳ sương này cũng là bà ta cấp cho tôi. Quách di nương chết không lâu thì Trương di nương nói Sơn nhi là nghiệt chủng, không thể để lại, đưa tôi gói tỳ sương đó bảo tôi mỗi ngày cho tiểu thiếu gia ăn một chút, từ từ sẽ độc chết tiểu thiếu gia, người khác không hề phát hiện được. Số bạc đó là do bà ta đưa cho tôi. Nói chuyện thành xong rồi sẽ cho tôi hai mươi lượng bạc tiền thưởng nữa."

Dương Thu Trì hỏi Lữ thị: "Nhị di nương đưa tỳ sương nhiều ít cho ngươi?"

Lữ thị ra dấu: "Đại khái khoảng một lượng."

Dương Thu Trì cầm gói tỳ sương lên nhìn, cảm thấy còn khoảng ba bốn chỉ, liền hỏi: "Ngươi bắt đầu hạ độc từ khi nào?"

"Tam di nương chết không lâu thì làm."

"Vậy gần hai năm rồi, sao còn nhiều vậy?"

"Tôi không dám bỏ độc nhiều, sợ lập tức độc chết thiếu gia rồi hoài nghi cho tôi, do đó mỗi lần chỉ bỏ có một lóng tay, có lúc thấy tiểu thiếu gia sắp không xong đến nơi thì tôi không dám bỏ nữa. Chờ tiểu thiếu gia hồi phục rồi mới tiếp tục hạ độc. Vì chuyện này mà nhị di nương nói tôi vô dụng, giục tôi mau hạ độc chết Sơn nhi, nhưng tôi không xuống tay được a." Bà vú khóc rống lên.

Dương lão thái gia nghe thế tức đến nổi suýt ngất đi, rống lên: "Phản rồi...! Thiệt đúng là phản rồi...!" Xong lại bảo Bàng quản gia đi bắt Nhị di thái.

Bàng quản gia mang theo gia đinh chạy ra ngoài, chốc lát sau nắm đầu tóc nhị di thái lôi sềnh sệt quay lại, con gái của nhị di thái là Dương Ngải Tiểu khóc lóc theo sau cầu xin.

Nhị di thái Trương thị nhìn thấy mụ vú Lữ thị và bao tỳ sương cũng mấy đĩnh bạc ở đó, sắc mặt liền tái ngắt, nhưng vẫn một mực không nhận, còn ngược lại bảo là mụ vú phản cung khai bậy.

Dương lão thái gia thấy Trương thị chống chế, càng tức giận hơn, bèn ra lệnh cho Bàng quản gia dùng gia pháp. Bàng quản gia chạy đi lấy một cái roi da dài, mím mày mím miệng đánh mạnh nhị di thái. Đây cũng là điều Tống đồng tri hi vọng, có Dương lão thái ra ra tay đương nhiên lão thích chí vì nhẹ gánh nặng, nên chẳng can thiệp gì.

Xem ra Bàng quản gia thường xuyên chấp hành gia pháp, roi da đánh vừa chuẩn vừa mạnh, không hề trúng chỗ yếu hại, khiến cho nhị di thái lăn lộn liên hồi, kêu thảm không thôi.

Con gái Dương Ngải Tiểu của nhị di thái năm phủ lên người ả, dụng thân thể ngăn trở roi da, khổ cầu Dương lão thái gia tha cho mẹ mình. Dương lão thái gia tức giận điên lên rồi, nên ra lệnh cứ đánh. Kết quả là sau khi Dương Ngải Tiểu bị trúng mấy roi, xem ra bản thân làm vậy cũng chẳng ích gì, nên vội vã tránh ra quỳ xuống đất khóc lóc cầu xin cha.

Nhị di thái cuối cùng bị đánh hôn mê đi, được gia đinh dùng nước dội cho tỉnh, nhưng vẫn một mực không nhận tội.

Dương lão thái gia lệnh cho hai gia đinh cùng lên đánh. Roi da của ba người vụt xuống như mưa, nhanh chóng khiến nhị di thái hôn mê đi tiếp, khi tạt nước cho tỉnh lại vẫn không nhận tội.

Cũng có thể nhị di thái đã nhìn thấy rõ, chuyện này chỉ có ả và mụ vú biết, khẩu cung một đối một, nên chỉ cần ả không nhận thì không có biện pháp nào định tội ả.

Tuy hình tấn bức cung ở Minh triều là hợp pháp, nhưng Dương Thu Trì thấy đánh như vậy chỉ sợ sẽ làm ả chết đi. Nếu như sử dụng bức cung đại pháp kẹp đứt từng lóng tay mà cẩm y vệ Ngư thiên hộ đã từng sử dụng, chỉ có mấy người là chịu được, thì có thể còn hữu dụng. Nhưng mà không đến lúc vạn bất đắc dĩ, không đủ chứng cứ đầy đủ chứng minh phạm tội, Dương Thu Trì vẫn không hi vọng sử dụng phương thức bức cung này để lấy khẩu cung.

Dương Thu Trì phân tích, Lữ thị đem bạc giấu mãi trong ngăn bí mật mà không sử dụng chỉ vì sợ sẽ gây sự chú ý cho người. Hơn nữa ả vẫn còn chưa bỏ độc chết đứa bé, nhiệm vụ chưa hoàn thành, số bạc này không thể dùng. Do đó, số bạc này sau khi giấu trong ngăn kính rồi xem ra chưa hề có người động qua, như vậy có thể nói, nếu như bạc là do nhị di thái cấp cho, thì khẳng định sẽ còn có dấu vân tay của nhị di thái. Thứ dấu tay lưu lại trên kim loại này thường tồn tại rất nhiều năm.

Nhưng giám định dấu vân tay chỉ giúp bản thân hắn xác định hung thủ, không thể dùng làm chứng cứ ở Minh triều, nên không có ý nghĩa buộc tội gì nhiều.

Còn có một biện pháp khác, đó là điều tra nguồn gốc độc chất.

Dương Thu Trì bảo Bàng quản gia không cần đánh nữa, trước hết đem nhị di thái nhốt lại. Chờ Trương thị bị giải đi, Dương Thu Trì hỏi Bàng quản gia: "Dương gia thôn chúng ta có bán tỳ sương không?"

Bàng quản gia đánh đến xuất hạn mồ hôi đầy người, cung thân đáp: "Hồi bẩm Dương công tử, thôn chúng ta không bán tỳ sương, muốn mua tỳ sương thì phải đến tiệm thuốc ở huyện thành Quảng Đức mới mua được."

DƯơng Thu Trì gật gật đầu, lại hỏi Tống đồng tri: "Bá phụ, ở Quảng Đức huyện có mấy tiệm thuốc bán tỳ sương?"

"Có ba nhà." Tống đồng tri rất rành Quảng Đức huyện, nhưng lão không hiểu Dương Thu Trì hỏi như vậy là nhằm ý gì.

Tống Vân Nhi ngược lại đã đoán ra, vui mừng nói: "Ca, muội hiểu rồi, có phải là huynh đoán số tỳ sương này là được Trương di nương mua từ Quảng Đức huyện sau đó đem về giao lại cho mụ vú Lữ thị?"

Dương Thu Trì mỉm cười gật đầu khen ngợi: "Thông minh! Nhưng mà không biết đã trải qua hai năm rồi, những tiệm thuốc này có còn nhớ nhị di nương đã từng đến mua tỳ sương hay không."

Tống đồng tri đã rõ, cao hứng bảo: "Cái, cái này không cần lo, chỉ, chỉ cần ả mua ở Quảng Đức huyện là có thể tra ra ngay, nhân, nhân vì các hiệu thuốc khi bán thứ độc dược này đều phải ghi nhận rõ ràng tình huống người mua. Nếu như dùng làm thuốc thì phải có lang trung kê toa, còn nếu muốn diệt chuột thì phải dùng thân phận chân chính chứng minh. Nếu không, bán, bán tỳ sương ra mà có vấn đề, hiệu thuốc, lang trung, và lý chánh đều bị quy trách nhiệm."

Thì ra Minh triều đã có chế đô quản lý rất nghiêm đối với độc dược (nhưng mà không bằng ở thời hiện tại, trong luật quy định tự động buôn bán độc chất là coi như phạm tội). Nếu là như vậy thì dễ xử rồi! Chỉ cần tra ra sổ đăng ký sẽ biết ai đã từng mua.

Tống Vân Nhi lại nghĩ đến vấn đề khác: "Nếu ả cho người khác đi mua thì sao? Như vậy chẳng phải là tra không thể nào ra hay sao?"

Dương Thu Trì lắc đầu: "Chuyện đầu độc giết người này càng ít người biết càng tốt, không thể có khả năng có thêm người chen vào."

Có đầu mối phá án, Tống đồng tri rất cao hứng, quyết định tự thân trở về Quảng Đức huyện điều tra, thuận tiện gọi huyện nha của Quảng Đức cùng đến điều tra án này bắt giữ phạm nhân. Dương lão thái gia phái vài gia đinh bảo hộ Tống đồng tri cùng đến Quảng Đức huyện.

Trước khi lên đường, Tống đồng tri dặn Dương Thu Trì tiếp tục tra án Quách thị bị xiết cổ, nói bản thân sau khi tra được kết quả sẽ lập tức quay về. Nhưng dù sao thì nhanh nhất cũng đến đêm mới trở lại được Dương gia thôn.

Không ngờ lại gặp án trong án, tra Sơn nhi có phải là con ruột của Dương lão thái gia hay không thì ra Tam di thái bị giết, tra tam di thái bị giết thì lòi ra tiếp Sơn nhi bị đầu độc.

Nhưng trong ba án trên, Dương lão thái gian quan tâm nhất là án đầu tiên. Nếu từ đây tra ra Sơn nhi là con lão, và mẹ của con bị người ta giết chết, con thì bị đầu độc... nhất định sẽ làm lão quan tâm hết mình. Nếu không, Sơn nhi xét ra chỉ là nghiệt chủng, nó dù có bị đầu độc hay mẹ nó có bị người khác giết thì có liên quan gì đến Duơng lão thái gia, biết đâu họ chết đi còn quá tốt cho lão!

Hiện giờ xem ra người ra lệnh cho mụ vú đầu độc Sơn nhi rất có khả năng là nhị di thái Trương thị, động cơ đương nhiên là ghét đắng hờn ghen, sợ con trai của tam di thái có địa vị cao hơn ả trong Dương gia. Nếu như ả đã có lòng gian ác muốn giết chết đứa bé, thì cũng đủ ác ra lệnh cho bà vú giết chết mẹ đứa bé. Do đó tam di thái rất có khả năng là bị nhị di thái ra lệnh cho bà vú xiết cổ chết.

Nhưng bà vú cứ nhất mực không thừa nhận là mình đã giết tam di thái. Dương Thu Trì quyết định lợi dụng sự ảnh hưởng tâm lý của án hạ độc đối với Lữ thị, tra hỏi Lữ thị lần nữa, hy vọng có chút đột phá đối với án Quách thị bị xiết cổ chết.

Nếu như dùng biện pháp mạnh không được thì dùng biện pháp nhẹ, do đó lần này Dương Thu Trì không dùng hình tấn bức cung, mà đánh đòn tâm lý.

Nhưng không ngờ là dù cho DƯơng Thu Trì có dùng lời chân thành khổ ải khuyên nhủ Lữ thị, dù gì thì giết một người cũng chết, giết hai người cũng chết mà thôi, vì sao lại không nhận? Thậm chí hắn còn dùng những chuyện như "hảo hán dám làm dám nhận" nói ra hết, nhưng Lữ thị vẫn một mực không nhận tội, cứ mãi kêu oan, nói rõ là mình không hề xiết cổ chết tam di thái.

Đến lúc này thì Dương Thu Trì không còn cách nào khác, Lữ thị này thà chết không nhận, chẳng lẽ là ả nói thật? Nếu như vậy thì thật kỳ quái, chẳng lẽ kẻ giết chết tam di thái là người có thể đến không dấu, đi vô tung hay sao?

Nếu như bà vú không nhận tội, thì đành quay lại tra hỏi nhị di thái Trương thị, xem coi ả có bị lương tâm cắn rứt thừa nhận tội này hay không. Nhưng mà cho dù nhị di thái có sai khiến bà vú xiết cổ chết tam di thái đi nữa, ả nếu như không thừa nhận án hạ độc, thì làm gì lại thừa nhận án giết tam di thái?

Sau khi thẩm tra nhị di thái lần nữa, kết quả quả nhiên không nằm ngoài ý liệu, nhị di thái chẳng những phủ nhận ra lệnh cho bà vú hạ độc, còn thẳng thừng phủ nhận bản thân bảo bà vú xiết cổ chết tam di thái.

Như vậy án tam di thái bị giết đi vào ngõ cụt!

-----------o0o--------

Dương Thu Trì muốn suy nghĩ kỹ xem vấn đề là ở chỗ nào, nếu như hai người ở trong lầu đó cùng đều không phải là nghi phạm sát nhân thì tam di thái bị ai giết đây? Người ngoài làm sao lẻn vào được căn phòng khóa chặt cửa để giết Quách thị?

Dương Thu Trì tản bộ trong Dương gia đại viện vắt óc suy nghĩ, Tống Vân Nhi không dám quấy nhiễu, nhưng nhất mực bám theo sau.

Trưởng hộ vệ Nam Cung Hùng thì như ảnh tùy hình theo sau hai người họ. Từ đêm Dương Thu Trì gặp quỷ té ngã hôn mê trở đi, Nam Cung Hùng không hề rời hắn nửa bước. Trước đã có vết xe đổ của Hạ Bình, hắn không dám nối gót theo sau để chịu hậu quả hơn cả thế.

Tuy tối hôm đó Dương Thu Trì không hề gọi mà tự động li khai phạm vi bảo hộ để đến căn lầu quỷ, nói cho đúng thì không thể trách Nam Cung Hùng, và Dương Thu Trì cũng không hề quái trách hắn, nhưng tự Nam CUng Hùng biết rõ, Dương Thu Trì là Kỷ đại nhân và thâm chí là hoàng thượng hy vọng dựa vào để phá hủy dư đảng của Kiến Văn, cần bảo chứng sự an toàn tuyệt đối.

Bản thân y sỡ dĩ hiện giờ không sao, là vì đêm đó Dương Thu Trì có kinh mà không hiểm. Nếu như Dương Thu Trì chân chánh có mệnh hệ nào, thì y tuyệt đối không thể trốn tránh. Dương Thu Trì có chết, thì y trăm phần trăm là bị chôn sống theo, đấy chính là quy củ đã được Lý công công đề ra.

Do đó, Nam Cung Hùng lấy làm may là Dương Thu Trì không bị sao, và y cũng không dám sơ xuất gì nữa, cùng Tống Vân Nhi như cái đuôi bám theo Dương Thu Trì.

Dương lão thái gia và Bàng quản gia cũng đi sau họ, mong mỏi là linh quang của hắn chợt chói ngời mà phát hiện ra điều gì đó.

Dương Thu Trì không phải là người xuất chúng chỉ cần nhăn trán suy nghĩ là đã thông suốt mọi chuyện gì, hắn đi vòng vòng Dương gia đại viện, suy nghĩ đến nát óc mà chẳng ra được ý gì hay cả.

Hắn lại vô tình quay lại tầng hai của căn lầu quỷ đó, không nói tiếng nào với những người đi sau, dựa vào lan can nhìn bầu trời u ám đến phát ngốc.

Trời bắt đầu đổ tuyết nữa.

Từ sáng sớm là trời đã âm trầm, đến bây giờ cuối cùng cũng đổ tuyết lớn.

Tuyết rơi rất nặng, gió lạnh mang theo hoa tuyết cuốn bay khắp trời, chỉ trong chốc lát mà trên mái nhà, trong vườn... đâu đâu cũng đọng tuyết trắng.

Dương Thu Trì nghĩ không thông về cách phá án, thấy tuyết đã rơi bèn bỏ mặc không thèm nghĩ nữa, dựa vào lan can ngắm tuyết.

Tống Vân Nhi cũng tì tay vào lan can cùng ngắm với hắn. Dương lạo thái gia và Bàng quản gia đứng phía sau họ, không biết họ định làm gì, nhưng thấy họ không nói nên cũng không lên tiếng, chỉ tĩnh lặng nhìn tuyết rơi.

Kỳ thật họ không thể nào yên tĩnh, bỡi vì gió lạnh cứ thổi thốc vào mặt, u u rất rạt.

Dương Thu Trì cảm thán: "Tuyết lớn quá, gió cũng mạnh!"

"Đúng a," Dương lão thái gia giờ đã đứng cạnh Dương Thu Trì nhìn tuyết đổ bên ngoài, tiếp lời, "Dương gia thôn của chúng ta ở cạnh sườn núi, phía trước thông thoáng không có gì che chở, quanh nóng gió tuyết bốn mùa đều rất dữ dội, đặc biệt là mấy tháng đông xuân, gió lạnh thậm chí thổi lăn cả đá cuội."

Bàng quản gia ở cạnh đó phụ họa: "Đúng vậy, thôn chúng ta nằm ở đầu ngọn gió, gió nổi lên thì lão bá tánh ai cũng chịu khổ, những cỏ rơm lợp mái nhà chỉ cần một trận gió là bay tốc hết, dùng đá cũng không dằn được, thật là đáng thương."

Dương Thu Trì thở dài cảm thông: "Thì vậy, một ngày lạnh lẽo như thế này, cỏ lợp trên nóc bị tốc hết, vốn đã không tiền mua than sưởi, giờ bị gió lạnh mang theo tuyết thổi thốc vào phòng, thì hỏi sao người ta sống vui cho được."

Nói đến lạnh, Dương Thu Trì chợt rùn mình. Hắn rất sợ lạnh, tuy mặc quần áo rất dầy nhưng gió lạnh giống như từ địa ngục thốc ra vậy, bao nhiều quần áo dày cách mấy cũng không ngăn được cái lạnh.

Tống Vân Nhi thân có võ công, không sợ lạnh, thấy Dương Thu Trì bị rét run như vậy liền cười hì hì: "Ca, chúng ta trở về phòng sưởi âm đi, nếu không huynh bị rét rụm luôn bây giờ, chị dâu trở về rồi lại nhìn muội trợn mắt trợn mày nữa."

Dương lão thái gia cũng cười: "Đúng a, hiền điệt, chúng ta đến chỗ khô sưởi một chút, rồi hâm thêm hai bình rượu nóng, làm thêm mấy món vừa uống rượu vừa ngắm tuyết, cháu thấy sao?"

Dương Thu Trì là một tên tửu quỷ, vừa nghe Dương lão thái ra nói đến thứ mê người này liền không khỏi nuốt nước bọt ừng ực, gật đầu lia lịa bằng lòng.

Dương lão thái gia dẫn Dương Thu Trì và mọi người về lại buồng có lò sưởi ấm cúng trong Dương gia đại viện, từ đó có thể nhìn thấy cả nửa thôn, xa xa là ruộng vườn vời vợi.

Trong phòng có mấy bồn than, được đốt rất nóng treo ở cửa sổ, chỉ mở ra chút xíu để thông khí, thứ gió ấm này giống như hơi xuân mơn ma thịt da người trong phòng vậy.

Tống Vân Nhi luôn miệng khen đây là chỗ tốt, ngồi sát vào Dương Thu Trì. Trong phòng ấm áp, Dương Thu Trì cảm thấy hơi nóng, Tống Vân Nhi lập tức giúp hắn cởi bớt áo lông ra.

Vào thời bấy giờ không hề có bông cách nhiệt, thứ áo bông và da này chính là thứ làm từ bông vải, tuy ấm áp nhưng rất nặng. Vừa cởi áo ra, Dương Thu Trì cảm thấy thân thể nhẹ nhỏm hẳn đi, không khỏi uốn người vươn vai hít hà thoải mái, khiến cho Tống Vân Nhi ha hả cả cười.

Tống Vân Nhi vừa cười vừa bảo: "Ca, huynh đừng có ở đó mà múa loạn lên như thế, nếu huynh muốn học võ công muội có thể dạy huynh đó nha."

Dương Thu Trì vừa nghe thế liền lắc đầu quầy quậy: "Ta không học, cái gì mà mùa đông luyện tam cửu, mùa hè luyện tam phục (ý chỉ ngay cả ngày lạnh nhất mùa đông, nóng nhất mùa hè cũng luyện võ), mệt chết đi được. Hơn nữa dù gì cũng có muội làm bảo tiêu cho ta, ta tự nhiên đi chịu tội làm cái gì chứ hả?"

"Vậy khi muội không có bên huynh thì sao? Ví dụ như tối qua vậy."

"Vậy muội lúc nào cũng ở cạnh bên ta, không rời một bước, thì chẳng phải là ổn thỏa hết sao chứ à?" Dương Thu Trì chọc nàng.

"Không rời một bước?" Tống Vân Nhi cười hì hì, "Muội không phải là thế thiếp của huynh, làm sao bám riết theo huynh được?" Nói đến đây, Tống Vân Nhi mới cảm thấy đây là loại thoại trung hữu thoại, dễ dàng khiến người ta hiểu lầm, liền không khỏi ửng hồng hai má.

Dương Thu Trì cũng không dám dùng giọng điệu này đùa cợt với nàng, lỡ đâu người ta nghĩ thật thì... thích, à không, ... dù sao không phải là thứ nói chơi. Tuy Tống Vân Nhi quả thật không tệ, người đẹp, võ công cao, nhưng lại giống như một cậu con trai vậy, chứ không phải là nữ nhân lý tưởng của hắn. Vì thế, Dương Thu Trì mong muốn coi nàng như em gái ruột hay là bạn tốt hơn là nghĩ sâu hơn.

Hơn nữa, hiện giờ hắn không thể tùy tiện nạp thiếp. Nữ tặc kia xuất thần nhập quỷ, võ công chẳng ai có thể địch, hơn nữa lại có thị hiếu chuyên môn đi chôm chộp tiểu thiếp của hắn. Biết đâu đến lúc ả bắt Tống Vân Nhi đi luôn thì mặt cũng chẳng còn được nhìn, nói gì đến sinh con đẻ cái.

Dương Thu Trì nói: "Muội là em gái ta, làm sao không thể thốn bộ bất ly được? Ngày đó chúng ta còn ngủ chung một phòng nữa chi."

"Đó là tình huống đặc biệt, không có phòng nào khác, rất may là hôm đó chúng ta ở chung phòng, nếu không thì đã bị địch nhân chém rụng đầu rồi mà không biết chuyện gì." Nói đến sự nguy hiểm của ngày đó tại Bắc Tiếu thôn, Tống Vân Nhi có chút bồi hồi, do đó sự chú ý của nàng bị lái đi chỗ khác.

Dương lão thái gia nghe thế liền hứng thú hỏi: "Gặp phải địch nhân? Chuyện đó rốt cuộc là sao?"

Tống Vân Nhi liền thao thao bất tuyệt kể lại chuyện gặp địch nhân ngày trước.

Bọn nha hoàn đã hâm nóng rượu lên, chuẩn bị thêm một ít món nhắm. Dương Thu Trì cùng Dương lão thái gia vừa uống rượu vừa nghe Tống Vân hi bày long môn trận huênh hoang loạn cả lên.

Nói đến lúc cao hứng, Tống Vân Nhi cũng cầm chén rượu lên uống. Mấy chén vào bụng, máu nóng của nàng liền bốc lên, kể càng hay và thần kỳ như trời đất, tâng bốc Dương Thu Trì thành một bị thần tiên biết trước mọi việc, thậm chí Dương Thu Trì nghe xong mà còn bội phục chính mình.

Gió bấc ngoài phòng càn quét bừa bãi, nhưng trong phòng thì xuân ý miên man, bất tri bất giác đã đến hoàng hôn.

Trời tối chưa lâu, Tống đồng tri cùng mọi người đã đội tuyết trở về. Cùng đến còn có La huyện thừa của Quảng Đức huyện cùng các bộ khoái, ngoài ra còn có một tiểu lão đầu, thấy ai cũng cười tủm tỉm, vừa nhìn thì biết đó là người làm nghề buôn bán.

Tống đồng tri thăng quan nhận nhiệm sở tại Ninh Quốc phủ rồi, Quảng Đức huyện vẫn còn chưa có huyện lệnh, tạm thời do La huyện thừa làm người tạm quyền.

Bàng quản gia và người hầu đưa Tống đồng tri, La huyện thừa cùng mọi người đến phòng sưởi.

Tống đồng tri tuy đầu đầy tuyết, mặt bị lạnh cóng cả ra, nhưng vô cùng hớn hở, vừa nhìn thần tình của lão là Dương Thu Trì đoán ngay mọi chuyện vô cùng thuận lợi.

Quả nhiên, Tống đồng tri không kịp phủi hết tuyết dính trên người là đã rút trong người ra một quyển sổ, đưa cho Dương Thu Trì: "Tìm, tìm được quyển sổ này rồi! Nhị di nương Trương thị quả, quả có mua tỳ sương ở chỗ Khương chưởng quỹ. Ta, ta đưa Khương chưởng quỷ đến đây luôn rồi."
 
Chương 159: Phá án hạ độc


Dương Thu Trì tiếp lấy cuốn sổ ghi chép, nhưng không vội xem, hỏi Khương chưởng quỹ: "Ngươi có nhớ kỹ chuyện Trương thị đến tiệm thuốc của ngươi mua tỳ sương hay không?"

"Tiểu nhân nhớ rõ." Khương chương quỹ khom người đáp.

Dương Thu Trì cảm thấy hơi kỳ quái, hỏi: "Mỗi năm nhiều người mua thuốc như vậy, ngươi sao nhớ nổi?"

Khương chưởng quỹ cười cầu tài đáp: "Làm gì mà có thể được thế, chỉ vì mua bán tỳ sương rất khác với những thứ khác, một là do quan phủ yêu cầu chú ý đến việc mua bán món độc chất này, hai là người mua tỳ sương mỗi năm không nhiều, và ba nữa là, hì hì..." Nói đến đây, y liếc nhìn về phía Dương lão thái gia không nói nữa.

Dương lão thái gia hừ mũi, không không lên tiếng.

Dương Thu Trì nhíu mày: "Làm gì mà úp úp mở mở vậy?"

Khương chưởng quỹ hơi ngượng, mở miệng định nói nhưng rồi lại thôi. Y lại thấy mạt Dương Thu Trì bắt đầu thể hiện vẻ ôn thần, liền không dám ẩn dấu nữa, bước lên một bước ghé tai Dương Thu Trì thì thầm: "Trương thị này trước vốn là cô đào đắc hàng ở thanh lâu tại Ứng Thiên Phủ, tiểu nhân đi mua bán có qua Ứng Thiên Phủ, có thấy qua cô ta nên nhận biết."

Thanh âm tuy nhỏ, nhưng Dương lão thái gia vẫn nghe thấy rõ, lại hừ mũi thêm lần nữa, nét mặt có vẻ không vui, nhưng không nói gì.

Dương Thu Trì bấy giờ mới rõ thì ra là nhị di thái Trương thị xuất thân từ thanh lâu, hơn nữa lại là hàng đắt khách, Dương lão thái gia thích bà ta nên mới chuộc thân nạp làm thiếp. Hèn gì Khương chưởng quỹ biết bà ta, nói không chừng năm xưa còn dây dưa qua lại nữa.

Dương Thu Trì mở cuốn sổ ra xem, thấy nó có vẻ cũ, bìa đã rách nát hết rồi. Khương chưởng quỹ giúp Dương Thu Trì lật đến một trang ở giữa, chỉ vào một hàng trên đó nói: "Thỉnh đại nhân xem."

Dương Thu Trì định thần nhìn, thấy trên đó có ghi: "Trưa ngày 18 tháng 3, vợ lẻ của Dương gia thôn Dương lão thái gia tên là Trương thị mua hai lượng tỳ sương."

Dương Thu Trì hơi động tâm, hai lượng? Bà vú Lữ thị nói nhị di nương Trương thị chỉ đưa cho mụ ta một lượng tỳ sương, như vậy còn một lượng nữa đâu?

Dương lão thái gia cùng chồm người tới xem, hơi bất ngờ ơ lên một tiếng.

Dương Thu Trì vội hỏi: "Lão thái gia, có gì không đúng sao?"

"Không, không phải," Dương lão thái gia đáp. "Tam di nương của cháu treo cổ vào ngày 20 tháng 3, chỉ sau đó 2 ngày, quả thật là tấu xảo."

Nghe Dương lão thái gia nói thế, Dương Thu Trì quả thật cảm thấy tấu xảo, hắn không tiến hành lấy vật trong dạ dày Quách thị tiến hành hóa nghiệm, hơn nữa cũng không có điều kiện để hóa nghiệm điều này, không có cách nào xác định Quách thị có phải bị người ta hạ độc tỳ sương hay không.

Trương thị mua tỳ sương rất có thể là muốn hạ độc hại chết Quách thị, nhưng sau đó về nghĩ một khi hại chết Quách thị rồi, nhất định sẽ dẫn đến sự chú ý và nhúng tay vào của quan phủ, và sẽ nhanh chóng hoài nghi đến mụ ta, nên không hạ độc thủ, đổi lại thành việc xúi giục mụ vú xiết cổ chết Quách thị xong rồi đưa độc dược cho mụ ta, bảo mụ ta hạ độc dần dần hại chết Sơn nhi!

Đó chỉ là sự phán đoán của Dương Thu Trì, còn vì nguyên nhân gì thì cần phải cạy miệng Trương thị mới biết rõ trắng đen.

Trương thị mua hai lượng tỳ sương tính ra hơi nhiều. Bỏ độc hại chết một người không cần nhiều tỳ sương như vậy, nhưng có lẽ Trương thị không biết liều lượng chết người là bao nhiêu nên mới mua hai lượng.

Kỳ thật lượng tỳ sương thuần đủ để hại chết một người lớn chỉ vào khoảng 0.1 đến 0.2 gam, nếu không thuần thì có cao hơn một chút. Tỳ sương ở thời cổ đại hầu hết đều không thuần, có tạp chất, do đó liều lượng chết người nhất định cao hơn tiêu chuẩn này.

Trương thị đưa cho mụ vú Lữ thị một lượng tỳ sương, vậy lượng còn lại có thể vẫn còn tàng trữ ở phòng của Trương thị. Vì sao bà ta muốn lưu lại một lượng mà không đưa hết cho Lữ thị? Điểm này cần phải chính miệng mụ ta nói ra thì mới rõ được.

Dương Thu Trì đem phân tích của mình nói cho Tống đồng tri và Dương lão thái gia, mọi người đều cảm thấy khả năng này rất lớn, liền quyết định lập tức tiến hành tra xét phòng của Trương thị.

Thê thiếp của Dương lão thái gia đều có khu nhà vườn nhỏ của mình. Sau khi Trương thị bị bắt, Dương Thu Trì hạ lệnh cho hộ vệ của mình mang theo gia đinh phong tửa khu nhà của Trương thị lại, không cho ai vào ra hết.

Cả đoàn người đến khu nhà của Trương thị, bắt đầu tìm kiếm cẩn thận phòng của mụ ta, nhưng tìm cả nửa ngày vẫn không thấy gì.

Dương Thu Trì hơi cảm thấy nản lòng, chẳng lẽ phán đoán của hắn bị sai sót gì sao? Hay là Lữ thị nói dối? Không đúng, Lữ thị không có lý do gì nói dối trong chuyện này, cứ nghĩ Lữ thị được cấp cho độc dược khá nhiều, nhưng mụ ta lại dùng rất ít, như vậy càng làm giảm nhẹ tội trạng của mình, do đó mụ ta không thể nào cố ý nói giảm xuống lượng độc dược mà Trương thị đã đưa. Trương thị nhất định chỉ đưa cho mụ vú một lượng, số còn lại rõ ràng đã thể hiện rõ trên sổ sách của Khương chương quỹ của tiệm thuốc.

Nói như vậy, một lượng tỳ sương này nếu như chưa được dùng, thì nhất định phải được giấu ở trong phòng của Trương thị. Nhưng sau khi đã tìm kiếm trong ngoài vẫn không thấy đâu, mụ ta giấu ở chỗ nào chứ?

Một lượng tỳ sương quá ít, có thể giấu ở rất nhiều chỗ. Dương Thu Trì nhìn căn phòng bị đảo lộn tùng phèo, nhíu mày suy nghĩ.

Nếu như là ta, ta sẽ đem giấu nó ở đâu? Dương Thu trì thiết nghĩ, nơi cất giấu này khẳng định là không thể để cho người thường có thể vô tình vớ được. Nhị di thái có nha hoàn thiếp thân và người hầu làm vệ sinh phòng óc, xem ra thuốc độc phải được giấu ở những chỗ mà những người đầy tớ này không dễ dàng gì phát hiện. Chỗ này xem ra không thể nào ở trong tủ hay bàn trang điểm có thể tùy tiện mở hoặc lật tung lên.

Số tỳ sương còn lại suốt một năm không đụng đến, vậy có bị vứt đị rồi hay không?

Không đâu, mụ ta không biết lượng trí tử của tỳ sương, trước khi Sơn nhi chết nhất định mụ sẽ không thản nhiên vứt đi, vạn nhất không đủ thì làm sao? Hơn nữa, trước giờ không ai hoài nghi Sơn nhi trúng độc, do đó mụ không có nguy cơ bị bại lộ, do đó sẽ không nhất thiết phải tiêu hủy tội chứng.

Toàn bộ vật dụng trong phòng đều đã được lục tìm. Can cứ vào phán đoán vừa rồi, thuốc độc không có khả năng bị để ở mặt đất, hoặc đặt trong phòng của người khác, vì thứ quan trọng như thế này đem để ở phòng của người ta, chỉ sợ bản thân mụ sẽ ngủ chẳng yên giấc. Do đó, chỉ còn có hai chỗ có khả năng cất giấu, một là ở trên không, hai là ở dưới đất!

Tìm ở nóc nhà trước xem! Dương Thu Trì bảo người hầu lấy thang bắc lên nóc phòng. Tống Vân Nhi lập tức đoán ngay được ý nghĩ của Dương Thu Trì, cao hứng reo lên: "Ca, để muội lên tìm cho, xem coi nhị di thái có đem giấu tỳ sương trên nóc nhà không."

"Ngoài ra còn ở trong các vách hay hốc cột nữa!"

"Dạ...!" Tống Vân Nhi gật gật đầu, như con mèo nhanh nhẹn phóng lên trên trần nhà cẩn thận tìm kiếm, không ngừng dùng tay đập đập gõ gõ.

Một lúc sau, nàng tiu ngỉu tuột xuống thang lắc đầu thất vọng.

Trên nóc không có, như vậy chỉ còn ở dưới đất mà thôi.

Dưới đất? Một lượng tỳ suơng nhỏ như thế có thể tùy tiện chôn chỗ nào đó, không dễ gì tìm. Nhưng mà dù sao thì cũng phải có đầu mối để theo. Tỳ sương ở dạng bột, không thể nào dùng giấy hay vải bao lại chôn trực tiếp xuống đất được. Khả năng lớn nhất là bọ vào trong một cái hủ nhỏ gì đó rồi mới chôn.

Như vậy mụ ta sẽ chôn ở chỗ nào? Nhị di nương ở trong nhà trệt, mặt đất được lát bằng từng khối đá xanh rất chỉnh tề. Dương Thu Trì cúi xuống đất tìm kiếm từng khối đá một.

Toàn bộ đá lát nền đều đã được tra xong, chỉ còn ở dưới giường là chưa kiểm tới.

Nếu như muốn chôn xuống đất, thì chỗ này có khả năng được chọn lớn nhất, vì người hầu dù có thể quét dọn vệ sinh, nhưng sẽ khó mà chui xuống giường quét dọn.

Dương Thu Trì lệnh cho xê dịch cái giường lớn đi. Cái giường này làm bằng gỗ tốt, lại có điêu khắc bông hoa nên rất nặng. Bảy tám người hầu cùng động thủ, phí tận hết lực khí mới dịch được giường qua một bên.

Không phí bao nhiêu sức, Dương Thu Trì đã phát hiện ở đầu giường có một phiến đá lát hơi đặc biệt. Chỗ này nằm ở trên giường là có thể với tay tới được, khả năng rất lớn.

Kẽ hở giữa hai khối đá lát khá lớn, nhưng dùng đầu ngón tay cho vào không được. Đá lát nền ở thời cổ đại rất chắc và nặng, nếu như chọc đao vào nạy lên, thì do khe hở giữa các viên đá rất hẹp, khiến chúng khích vào nhau khó có thể nạy lên.

Số đá lát có kẻ nứt lớn đạt tới vài tấm, diện tích lớn như thế không thể nào chỉ giấu có một bao nhỏ tỳ sương, rất có thể còn giấu nhiều thứ khác.

Nếu như các thứ gì đó được giấu dưới này, thì làm cách nào mà lấy lên? Nhất định phải có công cụ, và thứ công cụ này không thể nào cách đây quá xa.

Dưới đáy giường! Dương Thu Trì lập tức phản ứng ngay. Hắn đến sờ dưới phần gỗ chạm trổ dưới đầu nằm một lúc, đột nhiên dùng lại, sắc mặt lộ vẻ mừng, từ từ rút ra một cái móc quai bằng sắt . Dương Thu Trì quan sát nó kỹ một lúc, gật gật đầu như đã hiểu ra.

Hắn lấy móc quai đó đến bên hàng gạch, đưa hai mép sắt của móc quay vào hai phiến đá, sau đó dùng tay dụng lực nắm kéo mạnh hai khối gạch lên.

Tống Vân Nhi vui mừng nói: "Ca, huynh thật là thông minh, huynh sao lại phát hiện được cơ quan này?"

Thứ cơ quan nhỏ nhoi này chỉ cần quan sát một chút là phát hiện được. Dương Thu Trì không đủ hơi giải thích cho nàng, hắn gở mấy khối đá lát nền lên, lộ ra một cái rương nhỏ hình vuông ở dưới, trên có cái quay xách.

Dương Thu Trì xách cái rương lên để qua một bên. Cái rương nhỏ này không hề có khóa, được giấu kỹ như vậy tự nhiên không cần khóa làm gì.

Mở ra nhìn, mọi người đều cả kinh, bên trong đầy kim ngân châu báo, xem ra nhị di nương để dành không ít tiền riêng.

Sau khi lấy những thứ này ra, ở dưới rương còn lại một cái bao nhỏ dùng giấy dầu gói lại. Dương Thu Trì mừng thầm, từ từ mở ra, bên trong là một gói nhỏ nữa. Hắn mở ra tiếp, quả nhiên bên trong là một gói bột phấn trắng xen lẫn sắc hồng. Tỳ sương ở thời cổ đại đều không thuần, thường lẫn tạp chất, và thường có màu trắng chen lẫn sắc hồng!

Dương Thu Trì đem so sánh gói bột phấn đó với gói tỳ sương ở phòng Lữ thị, phát hiện màu sắc và độ mịn đều tương đồng, rất tiếc là không thể tiến hành phân tích hóa học, chỉ có thể chứng minh hai gói tỳ sương có hàm lượng tạp chất và số lượng tạp chất tương đồng, trong thực tế chỉ có thể chứng minh hai gói có quan hệ đồng nhất, chứ không thể chứng minh tỳ sương của Lữ thị là do Trương thị chiết ra từ bao này mà đưa cho.

Nhưng hiện giờ đã có đủ chứng cứ để nhận định Trương thị sai bảo người khác hạ độc mưu sát rồi.

Dương lão thái gia sầm mặt lệnh cho Bàng quản gia áp giải Trương thị tới.

Chẳng mấy chốc sau, Trương thị bị áp giải tới, thấy giường đã bị đẩy bật ra, mấy phiến đá xanh bị kéo lên, cái tủ chuyên chứa đồ riêng của mình bị mở ra, một gói tỳ sương nhỏ được đặt trên mặt đất, liền không khỏi rung rẫy toàn thân, sắc mặt trắng bạch.

Tống đồng tri khiến Khương chưởng quỹ đưa cuốn sổ ghi chép cho Trương thị xem, mụ ta lập tức tứa mồ hôi ra như tắm, quỵ xuống đất.

Tống đồng tri cười lạnh hỏi: "Phạm, phạm phụ trương thị, nhân chứng vật chứng đều có, lại bắt quả tang và có người khai nhận hẳn hoi, ngươi, ngươi còn chối cãi nữa thôi?"

Trương thị mọp xuống đất thưa: "Tôi xin khai. Tiểu thiếu gia chính là do tôi bảo mụ vú hạ độc." Nói tới đây, Trương thị quỳ lếch tới trước mặt Dương lão thái gia, dập đầu liên tục: "Lão gia tha cho tôi đi, tôi sai rồi, tôi ganh ghét Quách muội muội sinh con trai được người sủng ái, tôi không dám nữa đầu, xin người tha cho tôi đi, hu hu hu."

Nói đến đây, Nhị di nương Trương thị tồ tồ khóc rống lên.

Dương Thu Trì hỏi: "Người sao lại không mang toàn bộ tỳ sương đưa cho mụ vú Lữ thị?"

Trương thị thút thít đáp: "Tôi nghe Khương chưởng quỹ nói muốn dùng tỳ sương để gài độc chết chuột thì chỉ cần dùng vài móng tay là được, do đó tôi nghĩ để hại chết một đứa bé thì chỉ cần phân một nửa là đủ, nên không đưa toàn bộ cho mụ vú.

Thì ra là thế, bỏ độc chết một đứa bé đương nhiên không cần nhiều. Trương thị thậm chí nghĩ số tỳ sương còn lại này biết đâu sau này còn có chỗ dùng, nên không vứt bỏ đi, quả thật là thông minh quá trở thành quá thông minh, để lại chứng cứ trí mệnh này.

Con gái Dương Ngải Tiểu của mụ thấy mẫu thân đã nhận tội, liền khóc lóc quỳ xuống đất cầu xin cho mẹ mình.

Dương lão thái gia trước đó đã đánh Trương thị một trận, cái giận đã tiêu đi hết phânnửa, giờ chỉ biết thở dài: "Nếu như biết có kết quả này, sao lúc xưa không nghĩ? Ngươi hạ độc mưu sát, xúc phạm vương pháp, ta tha làm sao cho ngươi được?" Nói rồi quay lại thưa với Tống đồng tri: "Đồng tri đại nhân, tiện nhânnày xin giao cho ngài. Ngài muốn xử lý thế nào thì cứ tùy ý thế ấy."

Án chiếu theo Đại minh luật, đầu độc giết người khác biệt hoàn toàn với tội mưu sát, và thường được ghép và luận tội nặng hơn. Trong mục "Tạo cổ độc giết người" có quy định: "Nếu dùng độc dược giết người, chém." Hình thứ tử hình theo kiểu trảm (chết) thường nặng hơn thắt cổ cho chết, bỡi vì thắt cổ dù sao vẫn giữ được toàn thây). Đầu độc giết người không có sự khác biệt về hành vi phạm tội chưa hoàn thành và tội đã thành, cũng không có sự phân biệt về chủ tớ.

Vào lúc này, điều Tống đồng tri quan tâm chính là án tam di nương bị giết chưa được phá, bèn hỏi: "Trương thị, Tam di thái Quách thị có phải là người giết hay không?"

Trương thị nghe thế liền hoảng loạn lắc đầu phủ nhận: "Không phải, thật không phải tôi! Tôi vốn định mua tỳ sương hạ độc giết chết Quách muội muội, nhưng tôi vẫn còn chưa tìm được cơ hội thích hợp để hạ độc. Lúc tỳ sương mua về chưa được ba ngày, ả lại phát hoa si, sau đó lại treo cổ chết. Ả chết rồi, tôi mới quyết định dùng tỳ sương hạ độc tiểu thiếu gia. Do đó tôi không biết Quách muội muội rốt cuộc là bị ai xiết cổ chết."

"Còn dám giảo biện, dùng hình cho ta!" Đánh chó còn phải xem mặt chủ nhà, Tống đồng tri vốn ngại về thái độ của Dương lão thái gia, nhưng hiện giờ Dương lão thái gia đã nói thế rồi, Tống đồng tri không cần e dè gì nữa, ra lệnh cho dùng hình tấn bức cung ngay.

Lần này Tống đồng tri đã dẫn theo bọn bộ khoái từ Quảng Đức huyện theo, đặc biệt có mang theo các dụng cụ chuyên môn tra tấn nữ phạm nhân, nên họ nhanh chóng cho mười ngón tay dài của Trương thị vào dàn dây kẹp tay, hai bộ khoái ra sức kéo mạnh, do mười ngón tay đều có thần kinh thông đến tâm, nên nhị di thái đau như cào như xé tim ruột, gào khóc liên hồi. Âm thanh của mụ vừa the thé vừa thê thảm, chỉ sợ người dân ở khắp thôn đều nghe thấy.

Dương Thu Trì không hề ngăn trở. Hắn muốn coi xem rốt cuộc Trương thị có nói thật hay không.

Hiện giờ Trương thị khăng khăng phủ nhận mụ đã ra lệnh cho mụ vú xiết cổ chết tam di thái Quách thị. Những lời Trương thị nói chẳng lẽ đều là thật sao? Dương Thu Trì hơi mê hoặc.

Nếu như nói Trương thị lợi dụng cơ hội tam di thái Quách thị phát hoa si lệnh cho mụ vú ra tay xiết cổ nàng ta, thì do bị xiết cổ và treo cổ có sự khác biệt rất lớn, người cổ đại lại nắm khá rành về hai kiểu chết này, nênchỉ cần ngỗ tác có kinh nghiệm tiến hành nghiệm thi là sẽ phát hiện ngay, rất dễ bị bại lộ.

Và một khi đã bại lộ, trong phòng chỉ có mụ vú và nha hoàn, nhị di thái Trương thị sẽ nhanh chóng tự dẫn lửa thiêu người.

Vì thế, Trương thị nếu muốn giết tam di thái Quách thị, thì sử dụng phương pháp này mạo hiểm rất lớn. Nếu như mụ ta đã mua độc dược chuẩn bị hạ độc, bọn họ lại cùng ở trong một đại viện lớn, cơ hội hạ độc quá nhiều, chỉ có có chút nhẫn nại sẽ có cơ hội thành công.

Nhưng hạ độc cũng có một nguy hiểm rất lớn, đó là người bị trúng độc chết thường rất dễ bị nhận định là có người mưu sát. Nếu như thế thì quan phủ sẽ nhún tay vào, rất dễ bị phát hiện. Còn giả trang thành treo cổ tự sát, nếu như thành công thì chẳng ai tra cả.

Do đó, chẳng có gì bảo đảm nhị di thái Trương thị không dùng phương pháp nguy hiểm này. Hơn nữa, chỉ cần làm cho tình trạng tử vong của tam di thái khủng bố lên một chút, liên hệ với quỷ dữ tà hồn, thì có thể che mắt được nhiều người, một khi qua được của ải này thì coi như vạn sự đại cát. Do đó, không thể loại trừ mụ ta đã sử dụng chiêu hiểm này.

Nhị di thái đề xuất tam di thái bị trúng tà ma, thỉnh pháp sư về đuổi quỷ, chọn một chỗ thuộc về đất âm có khí âm nặng để mai táng... rất có khả năng là nhằm mục đích này.

Suy đi nghĩ lại, Dương Thu Trì cũng vẫn chưa nắm rõ được sự thể thế nào, nên liên trơ mắt bàng quan, xem coi có đột phá gì hay không.

Xem ra hôm nay chính là ngày gặp khổ nạn của Trương thị, trước hết là ăn đòn roi da của Dương lão thái gia, sau đến là bị đưa lên bàn kẹp ngón tay. Nhưng dù sao thì khi nghĩ đến mụ ta hạ lệnh cho mụ vú hạ độc một em bé, ngoan độc cực kỳ, nên chẳng có ai ở hiện trường thấy mụ đáng thương cả.

Trương thị tuy là xuất thân từ thanh lâu, nhưng dù sao cũng đã được Dương lão thái gia rước về chăm sóc cẩn thận ăn sung mặc sướng hơn hai chục năm, nên thứ khốc hình này làm sao chịu nổi. Hơn nữa, mụ ta đã thừa nhận hạ độc giết chết tiểu hài, đã bị rơi vào tử tội, thì cần chi phải chịu khổ thêm? Do đó, ý chí đề kháng của mụ nhanh chóng bị tan nát, chẳng mấy chốc sau rối rít lên tiếng xin khai.

Sau khi thả lỏng hình cụ ra, La huyện thừa ra lệnh cho người ghi lại khẩu cung của Trương thị. Trương thị thừa nhận mụ đã lệnh cho mụ vú nhân lúc tam di thái Quách thị bị mê mang đi xiết cổ nàng ta chết, sau đó giả thành treo cổ tự tử.

Thừa thắng truy kích, Tống đồng tri lại cho giải mụ vú Lữ thị lên tiến hành hình tấn bức cung.

Lữ thị lúc đầu không thừa nhận. Tống đồng tri bảo ả hạ độc giết người, chiếu theo luật là phải chịu chặt đầu, Lữ thị có nhân hay không nhận án này đều không thể chạy khỏi tội chết. Tinh thần của Lữ thị bị bẻ gãy triệt để, cộng thêm nghe nói nhị di thái đã nhận tội, còn khốc hình bàn kẹp tay thì ở ngay trên người, sự đau đớn kịch liệt không thể nào nhẫn chịu đã khiến chẳng mấy chốc sau mụ ta kêu thảm nhận tội.

Sau khi cho hai người ký vào khẩu cung, án này coi như được phá, Tống đồng tri cùng mọi người cao hứng phi thường, đều cho rằng Dương Thu Trì phá án như thần. Nhưng hắn chỉ cười cười không nói gì, khiến Tống đồng tri hơi kỳ quái, dường như Dương Thu Trì chẳng có vẻ vừa lòng, phảng phất như lòng chất chứa đầy tâm sự.

Dương Thu Trì quả thật có tâm sự: hắn chẳng thấy tự tin chút nào, vì tuy án hạ độc giết người chẳng có vấn đề gì, người và vật chứng đều có đủ, hai người lại tự nguyện khai nhận, nhưng còn án tam di thái treo cổ chết, Dương Thu Trì lấy con mắt bàng quan lạnh lùng mà xét, thì cảm thấy hai người kia có thể bị hình tấn bức cung chịu không nổi khai ra, chứ hung thủ chân chính vẫn có thể còn tiêu diêu ở ngoài vòng pháp luật.

Dương Thu Trì tuy không vui, nhưng không có manh mối để phá án này.

Nhưng vào lúc này chính là lúc hung thủ thả lỏng và sơ hở nhất, vì y đã nhận định bản thân an toàn rồi, có thể dễ dàng lộ ra dấu vết. Do đó, Dương Thu Trì không gấp, hắn chờ đến thời điểm tìm được hi vọng duy nhất trong hoàn cảnh khốn khó đang dần dần đến.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top