Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch Charlie Bone 1: Lúc Nửa Đêm

  • Tác giả Tác giả admin
  • Ngày gửi Ngày gửi
Dịch Charlie Bone 1: Lúc Nửa Đêm
Chương 140


“Mặt trời lên rồi,” ngoại Maisie lầm bầm.

“Đừng lo lắng về mặt trời,” Ông cậu Paton nói. “Nhanh lên Benjamin.” Ông mở cửa trước và chạy xuống các bực cấp, với Benjamin chạy bên cạnh.

Xe cộ đã bắt đầu nhộn nhịp như thường lệ trên đường Filbert, hối hả lao về hướng trung tâm thành phố, nhưng Ông cậu Paton không thèm chú ý. Chẳng thèm nhìn trái hay nhìn phải, ông băng thẳng qua nhà số 12. Những chiếc xe hơi rít lên rồi dừng phắt lại, các bác tài bóp còi inh ỏi và chửi rủa người đàn ông cao lớn mặc áo choàng đỏ, và thằng bé mặc pyjama sọc xanh.

Vừa bước vô căn nhà số 12 thì ông Paton chạm mặt ngay với bà chị của mình.

“A, ra là bà, Eustacia,” Ông cậu Paton nói. “Lẽ ra tôi phải biết điều này.”

“Cậu nói vậy là có ý gì?” bà Eustacia lạnh lùng hỏi.

“Benjamin, ba mẹ mày đâu rồi?” Ông cậu Paton hỏi.

“Con nghĩ ba mẹ con đang ở Scotland tìm kiếm một người lau cửa sổ bị mất tích,” Benjamin đáp.

“Lát nữa chúng ta sẽ nói tới việc đó,” Ông cậu Paton nói. “Bây giờ, con chó đâu?”

Benjamin dẫn Ông cậu Paton qua hành lang tới cái ổ của Hạt Đậu. Con chó to nằm một đống trông thật thương tâm, cái mũi toạc của nó tì lên hai bàn chân trước. Mắt nó nhắm nghiền và gần như không thở nữa.

“Trời ơi,” Ông cậu Paton thốt lên và cúi xuống con chó. “Một con vật to lớn man rợ đã tấn công con chó của mày, Benjamin à. Một con gì đó có hàm răng và móng vuốt khác thường.”

“Đó là lỗi của con,” Benjamin nức nở. “Con nói là nó bảo vệ tầng hầm. Nhưng con thật là ngu, thật ra đâu có gì trong ấy đâu.”

Nó ngừng lại, sực nhớ ra là bà Eustacia Yewbeam đang lảng vảng ở cửa trước, nhưng đã quá trễ.

“Làm thế nào mà con vật hoang đó vô đây được?” nó hỏi Ông cậu Paton. “Ban đêm cửa khóa hết mà.”

“Có ai đó đã mở cửa cho nó vô,” Ông cậu Paton vừa nói vừa liếc nhìn bà chị của mình. “Chúng ta phải đem con Hạt Đậu đến bác sĩ thú y,” ông nói với Benjamin. “Và phải thật nhanh lên. Ta thấy thời gian cho con chó đáng thương này có vẻ sắp hết rồi.”

Benjamin chợt nảy ra một ý. Nó nhớ ông Onimous đã nói ông có một phương cách đặc biệt đối với thú vật ra sao.
 
Chương 141


Con Gái Của Nhà Phát Minh

“Olivia đang tác động được đến Emilia,” Fidelio thông báo cho Charlie.

Thứ Sáu tới rồi, và chúng đang rảo bước quanh khu vườn sương giá. Ở ngay phía trước mặt, chúng thấy Olivia và Emilia đang mải mê trò chuyện, hay đúng hơn, Olivia đang nói và Emilia xem ra đang lắng nghe.

Vài tiếng nữa tất cả bọn chúng ai sẽ về nhà nấy. Ngay cả Olivia cũng đã tránh xa được rắc rối suốt cả tuần. Vừa nhìn thấy hai đứa, cô bé lao lại, hay đúng hơn là bước đi huỳnh huỵch trong đôi ủng khổng lồ.

“Tốt rồi,” nó thì thào. “Chiều mai tớ sẽ đến nhà Emilia. Vậy, chờ tụi này vào khoảng giờ uống trà nha.”

“Bồ định đưa Emilia rời gia đình Moon bằng cách nào?” Charlie hỏi.

“Để tớ nghĩ sau,” Olivia rầm rập đi mất.

Chuông reo và bọn chúng bắt đầu thơ thẩn trở về học viện. Billy Raven vù qua khi chúng vừa tới cửa.

“Gặp lại em sau nhé, Billy,” Charlie nói. “Nhớ là em sẽ về nhà với anh đó.”

“Chỉ một đêm thôi,” Billy nói. “Thứ Bảy em phải quay về.”

Charlie ngỡ ngàng. “Anh tưởng em muốn ở lại hết cuối tuần chứ,” nó nói.

“Em phải về. Bà giám thị bảo thế.” Billy liếc nó, lúng túng một cách lạ lùng rồi biến biệt tăm.

“Cả tuần nay nó hành xử rất kỳ khôi,” Fidelio nhận xét. “Tối qua nó rời khỏi phòng ngủ chung mấy tiếng liền. Cái mùi khủng khiếp của con chó đó, cái con May Phúc ấy, hay cái tên gì đại loại vậy, làm anh thức dậy. Sau đó anh không sao ngủ được.”

“Chắc nó bị mộng du,” Charlie nói. “Coi bộ nó có vẻ mệt mỏi.”

Cả hai không nghĩ đến Billy nữa. Vào lúc 3 giờ rưỡi, chúng thu dọn đồ đạc, và đúng 4 giờ thì lên đường về nhà bằng một trong những chiếc xe buýt của học viện: xe xanh da trời cho khoa nhạc, xe màu tím cho khoa kịch và xe xanh lá cây cho khoa hội hoạ. Charlie để ý thấy Olivia đã xoay xở leo lên được chiếc xe xanh lá cây cùng với Emilia. Olivia đội một cái nón to tướng màu xanh lá cây và mặc lộn trái chiếc áo chùng tím ra ngoài - lớp vải nỉ lót bên trong có màu xanh lá cây cáu bẩn.

“Cứ tin Olivia đi!” Charlie toét miệng cười một mình.

“Chị ấy làm gì vậy?” Billy hỏi. Nó đang ngồi cạnh Charlie.
 
Chương 142


“Ồ, không có gì. Chị ấy giỡn ấy mà.”

“Ô,” Billy chưng hửng.

Ngọai Maisie quan tâm hết mức tới Billy. Bà đã nướng riêng cho nó một ổ bánh sôcôla đặc biết, và đã dọn sẵn cho nó một chiếc giường ấm êm trong phòng Charlie.

“Thằng bé tội nghiệp quá,” bà cứ lẩm bà lẩm bẩm khi dạo quanh bàn, hết rót nước cam vắt, cắt bánh, lại cố vỗ về cho Billy ăn bánh quy phủ kem lòng trắng trứng và bánh nướng nhân mứt. Billy tận hưởng niềm vui sướng tột độ. Nó chưa bao giờ thấy cùng lúc có nhiều món mê ly ở trên cùng một cái bàn như vậy.

“Tuần này ở nhà có khá nhiều biến cố,” mẹ Charlie nói trong khi rót trà. “Con chó của Benjamin bị tấn công và ông cậu Paton của con đã ra tay. Chúng ta chưa bao giờ thấy cậu linh động đến vậy. Cậu ra ngoài giữa ban ngày ban mặt.”

“Trong chiếc áo ngủ,” ngoại Maisie thêm vào.

“Hạt Đậu bị tấn công?” Charlie lo lắng hỏi. “Bây giờ Ông cậu Paton đang ở đâu? Còn nội Bone đâu rồi?”

“Đang giam mình trong phòng,” ngoại Maisie nói. “Đêm nào cũng có chiến trận kịch liệt. La lối, giậm chân, dộng cửa ầm ầm. Ngoại không biết chúng ta đã mất bao nhiêu bóng đèn rồi.”

Ngay khi uống trà xong, Charlie dẫn Billy qua đường tới nhà Benjamin. Một phụ nữ tóc ngắn, vàng hoe, đeo kính ra mở cửa. Cô mặc bộ com-lê xám và, dẫu có vẻ khô khan, cô có một nụ cười ấm áp và thân thiện.

“Chào con, Charlie,” cô nói. “Con không nhận ra cô à? Cô là cô Brown, má của Benjamin.”

Charlie sửng sốt. Nó đã không gặp cô Brown trong một thời gian dài. Nó chắc chắn trước đây tóc cô dài và đen.

“Đây là Billy ạ,” nó nói.

“Vô đi! Vô đi!” cô Brown nói. “Con Hạt Đậu đang được chữa trị”

“Chữa trị?” Charlie nói khi bước vô hành lang.

Có những va li trên cầu thang, ủng cao su trên sàn, áo khoác và áo mưa vắt lùng nhùng trên ghế và trên thành cầu thang. Cái quái gì thế này?

“Benjamin ở trong phòng khách đó, Charlie,” cô Brown nói. “Gặp con nó sẽ vui lắm.”

Charlie dẫn Billy tới một căn phòng phía sau nhà. Nó ít khi vô đó. Benjamin vẫn thích ở trong nhà bếp hơn.

Khi cửa mở, nó được đón bằng một tiếng suỵt lớn và

một tiếng ngoao dài, cảnh báo. Nó gần như không tin vào mắt mình. Dương Cưu, con mèo màu đồng đỏ, đứng trên lưng một chiếc ghế bành; con Nhân Mã đứng trên lưng một chiếc ghế khác; còn con Sư Tử ngồi lắt lẻo trên tay ghế trường kỷ. Chúng dữ tợn nhìn xoáy vào Charlie, sau đó thì dịu lại. Dương Cưu thậm chí còn thích thú gừ gừ nho nhỏ.

Benjamin đang ngồi trên ghế trường kỷ cạnh con Sư Tử.

“Vô đây, Charlie,” nó thì thầm. “Ông Onimous đang chữa cho Hạt Đậu.”

Hạt Đậu đang nằm trên sàn, với ông Onimous quỳ bên cạnh. Một tay ông cầm lọ nước gì màu xanh lá cây và tay kia ông cầm một cục bông gòn. Hạt Đậu bị băng ở mũi và bị khâu một bên tai. Trên người nó, ở chỗ bị mất một mảng lông, có những vết rách lam nham.

“Nó đỡ hơn rồi,” Benjamin nói khẽ.

Charlie lướt vô phòng, ngồi xuống cạnh Benjamin, nhưng ngay khi Billy bước vào, ba con mèo cùng gừ lên đầy vẻ đe dọa.

Ông Onimous ngước lên.

“Chuyện gì vậy?” ông hỏi. “Tôi cần yên lặng.”

Billy đứng tựa lưng vào tường. Trông nó thật hốt hoảng.

“Ai đây?” Benjamin hỏi.

“Billy Raven,” Charlie thì thào. “Trong học viện. Billy không có nhà nên sẽ ở với mình vào cuối tuần.”

“Chào em, Billy” Benjamin nhỏ nhẹ nói. “Ngồi đi!”

Ông Onimous bây giờ đang thay băng mũi cho Hạt Đậu. Con chó rên rỉ yếu ớt. Lúc đó Billy tiến tới một bước, và cả ba con mèo cùng nhảy xuống sàn, gầm gừ rồi hú lên.

“Chúng nó không thích em,” Billy the thé.

Ông Onimous nhăn mặt nhìn nó. “Sao lại không thích?” ông hỏi. “Ta nghĩ tất cả các cậu nên ra khỏi phòng ngay. Kẻo Hạt Đậu già nua ở đây sẽ bị kích động.”

Charlie, Benjamin và Billy cùng đi vô căn bếp cực kỳ ngăn nắp.

“Sao, chuyện là thế nào?” Charlie hỏi.

“Nhiều chuyện lắm,” Benjamin đáp.
 
Chương 143


Đầu tiên, nó kể về việc xuất hiện khủng khiếp của bà cô Eustacia trong nhà. Tiếp theo, nó mô tả vụ tấn công bí hiểm vào con Hạt Đậu; rồi việc nó chạy qua nhờ Ông cậu của Charlie giúp đỡ ra sao; và từ lúc ấy, cuộc sống của nó đã thay đổi như thế nào - bởi vì Ông cậu Paton không biết làm cách nào mà đã kiếm ra ba má nó và nhất quyết giục họ phải về nhà ngay.

“Mình nghĩ Ông cậu Paton đã nhờ cảnh sát kiếm ba má mình,” Benjamin nói. “Má vẫn hay mặc cái áo mưa màu vàng này nên rất dễ nhận ra. Dù sao thì ba má cũng đã về nhà. Ông cậu Paton nói ba má đã bị người ta lừa và bị cuốn vô một vụ tìm kiếm vịt trời. Mình nghĩ trong vụ này có bàn tay của bà nội bồ. Khi ba má về nhà, Ông cậu Paton kêu họ ra nói chuyện riêng rất lâu, và từ hôm đó, má bảo từ nay má sẽ chỉ đi làm lúc nào mình tới trường thôi, sẽ không bao giờ đi làm đêm và không bao giờ đi làm vào ngày nghỉ nữa.”

Charlie hầu như không tin vào việc đó. Ông cậu Paton cuối cùng đã ngẩng đầu lên. Rõ ràng là khi Ông cậu muốn làm việc gì là việc đó phải được.

Ông Ọnimous thình lình thò đầu vô bếp. “Giờ tụi này đi đây, các cậu bé,” ông hồ hởi. “Tóm lại là Hạt Đậu đang bình phục tốt. Thứ Hai tôi sẽ quay lại.”

Rồi như mọi khi, ông biến mất trong một luồng sáng, cùng với ba con mèo bay vèo theo sau như những chòm pháo bông màu lửa.

“Ông này tức cười thật,” Billy lầm bầm. “Ông ấy hơi giống con chuột.”

Bọn kia đều công nhận, mặc dù Benjamin nhấn mạnh là ông Onimous có những năng lực phi thường.

“Mình đã nghĩ là con Hạt Đậu chết chắc,” nó nói, “nhưng ông Onimous chỉ cần đặt hai bàn tay ngồ ngộ của ông lên người Hạt Đậu là nó khỏe lại liền. Xong mấy con mèo cứ đi vòng quanh Hạt Đậu để giữ ấm cho nó, dù bọn chúng không thích chó.”

“Bọn chúng cũng không thích em,” Billy lẳng lặng nói. “Thú vật luôn thích em, nhưng bọn chúng thì không.”

Charlie chợt nhớ ra. “Billy có thể hiểu được loài vật,” nó nói với Benjamin. “Bồ có muốn Billy trò chuyện với Hạt Đậu không? Nó có thể nói cho tụi mình biết thực sự chuyện gì đã xảy ra.”

Benjamin nghi nghi hoặc hoặc. Nó nhìn Billy một cách lạ lẫm. “Billy cũng là người có phép thuật giống như bồ phải không?” nó hỏi Charlie.

“Ừ,” Charlie đáp. “Em làm được, phải không Billy?”

Thằng bé gật đầu.
 
Chương 144


Tên Gián Điệp Tội Nghiệp

“Trời!” Benjamin rơi phịch xuống ghế. “Một con sói!”

“Phải là một đứa trong đám có phép thuật,” Charlie quả quyết. “Chắc chắn. Một nam sinh nào đó có tài biến thành sói – một loại ma sói. Và bà Eustacia đã mở cửa cho nó vô để nó tống con Hạt Đậu khỏi cửa tầng hầm. Bà ấy nghĩ cái thùng của tiến sĩ Tolly vẫn còn ở dưới hầm.”

“Chứ nó không còn ở đó sao?” Billy buột miệng.

Hai đứa quay lại nhìn Billy. Liệu chúng có thể tin tưởng Billy không? Chúng phải tin nó thôi, Charlie nhận thấy như vậy, bởi vì ngày mai cả bọn sẽ cùng nhau đến Mái Ấm Gia Đình Gunn. Chúng không thể để Billy lại.

“Cái thùng của tiến sĩ Tolly để ở chỗ khác rồi,” Charlie đáp. “Về nhà anh sẽ kể chuyện cái thùng cho em nghe sau.”

Lúc chia tay, Benjamin trông rất phấn khởi, đứng ở bậc thềm vẫy tay chào cả đám. Mẹ nó bước ra, cũng vẫy tay, rồi khoác vai Benjamin, hai mẹ con cùng nhau quay vô nhà.

“Ông cậu Paton của anh quả là tài,” Charlie tự hào nói với Billy. “Mãi mấy ngày cuối tuần rồi Benjamin mới được gặp lại ba má. Tới anh cũng còn không nhớ mẹ của Ben trông thế nào nữa.”

“Em sắp có ba mẹ mới rồi đó,” Billy khoe.

“Thật không? Tuyệt! Em kiếm được hồi nào vậy?” Charlie hỏi.

“Ờ, mới hôm kia thôi,” Billy đáp. “Chỉ cần em...ngoan.”

“Thế thì anh sẽ giúp em không rơi vô mấy chuyện rắc rối trong trường mình,” Charlie hứa.

Tối hôm đó trước khi đi ngủ, Charlie bàn với Billy những việc mà nó hy vọng sẽ xảy ra vào ngày hôm sau.

“Nhưng Emilia sẽ làm gì khi chị ấy tỉnh lại rồi?” Billy hỏi.

“Bọn anh không biết,” Charlie thú nhận. “Bọn anh thậm chí còn không biết nó đó có đúng là Emilia Tolly không, hoặc nó có chịu đến Mái Ấm Gia Đình Gunn không. Bây giờ chỉ biết trông cậy ở Olivia thôi.”

Ba mẹ Olivia rất chiều con. Khi cô nàng nói rằng phải đi gặp một bạn gái tên là Emilia Moon, sống ở đường Washford, cách xa nhiều dặm, thì mẹ Olivia liền chở nó đến nhà Emilia, và đồng ý sẽ đón cả hai đứa ở Mái Ấm Gia Đình Gunn lúc 5 giờ chiều.

“Có cần mẹ vô nhà Emilia với con không?” Từ trong xe, mẹ Olivia nói vọng ra.

Olivia đứng bên cổng một ngôi nhà có tên là Ánh Trăng. Nó vẫy tay:

“Không cần đâu mẹ ơi. Con vô được mà.”

Nhưng bà Vertigo cũng chờ cho đến khi nhìn thấy Olivia nhấn chuông. Một phụ nữ tóc hoa râm ra mở cửa, khi đó bà Vertigo mới chào lớn, “Tạmmm...biiêệttt!” và lái xe đi.

“Cần gì?” người phụ nữ tóc xám hỏi Olivia.

“Cháu đến gặp Emilia,” Olivia đáp. “Bạn ấy có mời cháu.”

“Emilia không bao giờ mời ai cả.” Người phụ nữ gầy còm, vẻ mặt cau có không thèm mời Olivia vô nhà.

“À, chắc là bạn ấy quên rồi,” Olivia nhanh miệng. “Bác không thể để cháu ra về bây giờ đâu vì mẹ cháu vừa đi xong, mà nhà cháu ở cách đây nhiều dặm.”

“Xì!” Bà ta nghiến hai hàm răng vào nhau. “Emilia!” bà ta hét. “Ra đây!”

“Mày đã mời con bé này đến đây hả?” bà ta chất vấn.

Olivia vẫy tay rối rít và mỉm cười với Emilia cho đến khi cô bé này đáp, “Dạ.”

“Mày không có quyền,” bà ta bực dọc. “Thôi thì chúng mày vô đi,” bà ta nói một cách gượng ép.

Olivia bước vô một ngôi nhà lạnh lẽo, và gọn gàng một cách khác thường. Emilia mỉm cười ỉu xìu với nó rồi đi trước, dẫn đường lên lầu, vô phòng riêng. Đó là một căn phòng khá buồn tẻ. Không có tranh ảnh gì trên tường hết, và tất cả mọi đồ đạc của Emilia đều bị tống hết vô những ngăn kéo tủ to tướng hay những tủ âm tường. Trên giường trải một tấm mền trắng, sạch sẽ, và ngồi chồm hổm trên gối là một chú vịt nhồi bông trông cũng tươm tất nốt.

“Dễ thương quá hả,” Olivia nói chỉ để cho có chuyện mà thôi.

Emilia mỉm cười.

“Tụi mình ra ngoài đi?” Olivia đề nghị.

“Ngoài vườn chắc có nhiều thứ hay hơn.”

Emilia đồng ý.

Khu vườn gòm một bãi cỏ ngăn nắp, có những bụi cây bụi rập rạp bao quanh. Đằng sau một chiếc ghế xích đu ở cuối vườn, Olivia phát hiện một bức tường trông đầy hứa hẹn.

“Bên kia bức tường là gì vậy?” nó hỏi Emilia.

“Chỉ là một ngõ hẻm,” Emilia đáp. “Nó dẫn ra đường cái.”
 
Chương 145


“Tụi mình leo qua đó đi.”

“Chi vậy?”

“Vì tớ muốn cho đằng ấy xem một thứ,” Olivia nói. “Rất đặc biệt. Tớ không thể nói cho bồ biết đấy là cái gì, nhưng nó đang ở trong nhà Fidelio Gunn.”

“Có lừa gạt không đấy?” Emilia lộ vẻ lo lắng.

“Emilia, tin tớ đi,” Olivia trấn an. “Tớ là bạn của đằng ấy mà.”

Giọng nói du dương của Olivia có sức thuyết phục đến độ, một loáng sau Emilia đã leo qua tường.

“Tụi mình sẽ quay về trước khi mẹ đằng ấy phát hiện ra,” Olivia hứa.

Trong lúc đó, ở trên gác mái ở Mái Ấm Gia Đình Gunn, Fidelio, Charlie, Benjamin, và Billy đang tóp tép nhai đĩa bánh mì kẹp thứ hai. Chúng ngồi trên đống hộp và thùng đựng nhạc cụ, giữa tiếng nhạc dội tưng bừng từ dưới nhà.

Charlie quyết định ăn chỉ để cho khỏi lo nghĩ. Liệu việc nó đang làm có đúng đắn không? Olivia có tìm ra nhà Fidelio không? Emilia có tỉnh lại không? Và ngộ nhỡ nhỏ đó lại kêu thét, phản ứng dữ dội, hay ngất xỉu...hay..biến thành một cái gì đó thì sao? Biến thành một con chim chẳng hạn?

Nghĩ tới đó, Charlie nhón một miếng bánh khác.

“Mẹ anh là ca sĩ mà làm bánh mì kẹp ngon tuyệt,” nó vừa bảo Fidelio vừa nhấp nháp một miếng chuối chấm bơ đậu phộng.

“Fidelio!” ông Gun hát vang từ dưới hành lang. “Có hai cô nương muốn gặp con đó!”

“Bảo hai bạn ấy vô đi ba!” Fidelio nói to.

“Lên đi hai con, tầng trên cùng, phía bên phải, coi chừng đụng đầu, và đừng nhảy lò cò!” ông Gunn hát.

Olivia bật cười hì hì, nhưng Emilia im lặng. Mà Charlie cũng không chắc có phải là Emilia im lặng không, vì có quá nhiều tiếng ồn trong vương quốc âm nhạc này.

“Bọn tớ đây!” Olivia vừa nói vừa sầm sập đi vô phòng.

Emilia theo sau. Trông con bé có vẻ bối rối, nhưng không có vẻ gì sợ hãi.

“Olivia đã giải thích rồi chứ?” Charlie hỏi Emilia.

“Bạn ấy có một thứ gì đó để chỉ cho tôi xem,” Emilia chậm chạp nói.

“Đúng vậy. Nó là một thứ do ba bồ chế ra,” Charlie nói.
 
Chương 146


Emilia nhíu mày. “Ba tôi là một nhân viên kế toán. Ông ấy không chế đồ vật gì hết.”

“À, thực ra thì, ba của em là một nhà phát minh sáng chế đấy,” Fidelio nói. “Nhưng ông đã mất và để lại cho em cái thùng này.” Nó chỉ vô cái thùng bằng kim loại nằm giữa phòng.

“Làm sao anh biết?” Emilia hỏi, nếp nhíu mày của con bé hằn sâu hơn.

Fidelio nhìn Charlie, và Charlie tiếp lời, “Mọi việc xảy ra từ khi mình gặp cô của bồ.”

“Tôi có một người cô? Tôi không bao giờ biết là mình có một người cô cả.”

“Cô ấy là một người rất tốt. Suốt mấy năm qua cô ấy chỉ mong gặp lại bồ.” Charlie nói với Emilia. “Cô ấy đưa cho mình cái thùng này, sau đó tụi mình khám phá ra trong đó có cái thứ làm ... ưm... làm bồ tỉnh lại.”

Emilia trông càng hoang mạng tợn. Olivia ngồi xuống một chiếc rương lớn và kéo Emilia ngồi xuống kế mình.

“Chuyện đâu sẽ có đó. Tụi này không để điều gì tệ lậu xảy ra cho bồ đâu,” nó nói.

“Hóa ra là tôi không tỉnh táo mà tôi không biết,” Emilia lẩm bẩm.

“Anh nghĩ chúng ta nên làm ngay đi thôi,” Fidelio thúc giục. “Hết giờ rồi. Nhanh lên, Charlie.”

Charlie bước về phía trước. Nó rê những ngón tay, thật mạnh nhưng thật cẩn thận, lên các mẫu tự bên hông cái thùng MƯỜI HAI TIẾNG CHUÔNG CỦA TOLLY. Khi ấn chữ cuối cùng, nó nhìn quanh phòng. Tất cả mọi người đang nhìn chằm chằm vô ngón tay nó. Nó nhận thấy cặp mắc của Billy Raven mở to và tối sầm, lấp đầy hết cả hai gọng kính tròn, khiến thằng bé trông như mất hồn.

Charlie ấn đến ký tự cuối cùng, nắp thùng bật mở, nó đứng qua một bên và quan sát nét mặt Emilia, nhưng chính Olivia lại là đứa la lên thảng thốt. Mặt Emilia vẫn chỉ mang vẻ đăm chiêu.

Khi chàng hiệp sĩ vung gươm lên, tất cả bọn đều nhảy chồm lên, bật lùi ra sau, kể cả Emilia. Và rồi chuông bắt đầu rung, cùng tiếng dàn đồng ca vang khắp căn phòng.

Trong một thoáng, Emilia như phải chịu một cơn đau quằn quại. Nó cong vai lại, một tay ụp lên miệng. Rồi nó nhắm nghiền mắt, ngồi phịch lên một cái hộp đàn, nước mắt bắt đầu tuôn lã chã xuống hai má.

Những đứa kia trố mắt nhìn, hoảng sợ. Nước mắt Emilia chảy thành dòng và nó bắt đầu thút thít không sao kìm lại được. Thân mình nó ngật ngưỡng đảo tới đảo lui. Nó cứ rên rỉ và thở dài cho đến khi chàng hiệp sĩ hạ gươm xuống và ngã vô thùng. Khi bài thánh ca kết thúc và tiếng chuông ngân lên lần cuối thì Emilia im lặng. Giờ, cả hai tay nó ôm lấy mặt và toàn thân bất động.

Không đứa nào có mặt trong phòng dám nói gì. Charlie đóng cái thùng lại, tự hỏi phải làm gì tiếp theo đây.

Cuối cùng Emilia nói, tựa như hụt hơi, “Mình không biết là hóa ra mình lại bất hạnh đến thế. Suốt cuộc đời mình đã phải sống với những người không thương yêu mình.”

Olivia vòng tay ôm quanh người bạn và nói, “Sẽ đâu vô đó thôi, Emilia à. Bây giờ đằng ấy sẽ hạnh phúc. Rồi đằng ấy sẽ thấy, Charlie, nói cho Emilia nghe đi.”

Thế là Charlie kể cho Emilia nghe về người mẹ tội nghiệp đã mất của con bé, về ba con bé, tiến sĩ tolly, nhà phát minh sáng chế. Rồi Charlie kể tới cô Julia Ingledew, người sống trong một tiệm sách và luôn mong gặp Emilia, mong được chăm sóc con bé mãi mãi. Cuối cùng, Charlie kể cho Emilia về điều kỳ lạ nhất.

“Ba bồ nói là bồ biết bay đó, Emilia. Đó là lý do tại sao người ta muốn bồ ở trong Học viện Bloor.”

“Mình?” Emilia kinh ngạc. “Mình đâu có biết bay.”

“À, nhưng bồ đã bay một lần rồi,” Charlie nói. “Có lẽ việc đó chỉ xay ra khi nào thật cần mà thôi.”

“Thí dụ như lúc đằng ấy hoảng sợ,” Olivia cắt nghĩa thêm.

“Ngày mai mình sẽ dẫn bồ đến gặp cô của bồ,” Charlie nói với Emilia.

“Nhưng bằng cách nào?” con bé lo lắng.

“Mình sẽ kiếm cách,” Charlie tự tin nói. “Bồ phải biết là bồ có thể ra khỏi gia đình Moon bát cứ lúc nào bồ muốn, vì giờ bồ đã biết mình là ai.”

Bất thình lình, một tiếng gọi với lên, xuyên qua tiếng hát, tiếng sáo, tiếng trống, tiếng vĩ cầm và tiếng dương cầm...

“Bà Vertigo tới!”

“Mẹ tớ tới thật đúng lúc,” Olivia reo lên. “Nhanh lên, Emilia”

Emilia đi theo Olivia xuống lầu, nơi bà Vertigo đang say sưa chuyện trò với bà Gunn. Trước sự nằng nặc của Olivia, mẹ nó đành bỏ dở câu chuyện thú vị về bệnh phổi của mình để lái xe chở hai con bé về lại ngõ hẻm phái sau đường Washford.
 
Chương 147


Bà Vertigo rất ngạc nhiên khi thấy Olivia và Emilia leo qua tường, nhưng bà cũng làm theo yêu cầu là cứ lái xe đi vòng ra trước nhà và chờ Olivia đi ra từ cửa trước. Mọi việc chỉ mất chừng hai phút.

“Mẹ đúng là một ngôi sao, mẹ ơi” Olivia vừa nói vừa leo vô xe. “Mọi thứ đều hoàn hảo.”

“Con sống một cuộc sống sôi động quá đấy, Olivia,” bà Vertigo nói. Trong thực tế bà đúng là một ngôi sao. Một ngôi sao điện ảnh.

Mất một lúc sau khi hai cô bé đi khỏi, bốn đứa con trai vẫn ngồi im lặng, không biết nói gì. Charlie nhẹ cả người khi thấy kế hoạch của chúng đã hoàn thành. Bây giờ đến phần việc của nó là tìm ra một ngôi nhà thực sự cho Emilia.

“Tụi mình làm gì với cái thùng bây giờ?” Fidelio hỏi.

“Anh tiếp tục giữ nó ở đây được không?” Charlie hỏi. “Em nghĩ tụi mình sẽ còn cần đến nó.”

“Để chỗ anh thì nó sẽ an toàn,” Fidelio khẳng định.

Billy Raven đứng lên. “Bây giờ em phải quay về đây,” nó nói. “Học viện sẽ cho xe đến rước em.” Giọng Billy hơi run run và nó cúi gằm xuống sàn khi nói.

Charlie tự hỏi không biết có phải thằng nhỏ bị bệnh hay không. Nó đồng ý dẫn Billy về nhà ngay lập tức. Đã đến giờ Fidelio phải tập đàn vĩ cầm, và khi ba thằng bé vừa bước ra khỏi Mái Ấm Gia Đình Gunn, chúng đã nghe thấy bạn mình góp phần làm tiếng ồn đã ồn càng ồn thêm.

Trong lúc rảo bộ trở lại đường Filbert, Charlie và Billy, mỗi đứa chìm trong những suy nghĩ của riêng mình, nhưng Benjamin thì vừa nhảy chân sáo, vừa huýt gió, vừa tía lia chuyện trò, hăm hở được trở về với ba má và con chó quý giá của nó.

Một chiếc xe hơi đen đậu bên ngoài căn nhà số 9. Bọn nhóc bước lại, vừa hé mắt nhìn qua cửa kính xe màu khói ám thì cửa xe bật mở ngay, một cây gậy kiểu cọ điệu đàng vụt ra, khỏi mạnh vô đầu gối Charlie.

Ui da!” nó nhảy ra sau. “Ai trong đó vậy Billy?”

“Chắc chắn cụ Bloor rồi,” nó đáp.

Có điều gì đó khiến Charlie bỗng lo lắng. “Billy, em sẽ không nói với ai về Emilia chứ?” nó hỏi. “Sẽ không để ai biết vụ này cho tới khi tụi này xong việc nha.”

Billy lắc đầu.

Charlie dẫn Billy vô nhà lấy giỏ xách. Sau lời cảm ơn qua quýt với ngoại Maisie và cô Bone, Billy chạy ra và chui vô chiếc xe hơi đen.

“Thằng bé thiệt kỳ lạ,” ngoại Maisie nhận xét khi chiếc xe màu đen chuyển bánh, rời khỏi vệ đường.

Emilia Moon nằm trên giường trong căn phòng trắng, ngăn nắp của mình.

“Emilia Tolly,” nó lẩm bẩm.

Nó lặp lại cái tên và kết luận là thích cái tên đó hơn tên Emilia Moon nhiều.

Điện thoại trong hành lang reo mấy hồi. Thật bất thường. Gia đình Moon không bao giờ có điện thoại gọi đến vào ban đêm cả. Nhưng Emilia chẳng quan tâm tới điều đó. Nó đang quá phấn khích. Trước nay nó chưa bao giờ cảm thấy thực sự phấn khích điều gì. Cuộc sống của nó nhạt nhẽo, lạnh lùng và nề nếp. Không cái gì có thể làm nó ngạc nhiên hay thích thú. Thế rồi bất thình lình, tất cả đều thay đổi.

“Bây giờ mình là Emma,” nó thì thầm.

Cửa phòng bất ngờ xịch mở và bà Moon thò đầu vô.

“Thay quần áo và sắp xếp đồ đạc. Chúng ta phải đi ngay.”

“Đi đâu?” Emma lo lắng hỏi.

“Trở về Học viện. Vừa có điện thoại”

“Tại sao?” Emma hỏi. Phải chăng họ đã phát hiện ra việc nó tới Mái Ấm Gia Đình Gunn?

“Mày đã phạm luật, Emilia,” bà Moon lạnh lùng nói. “Nào, lẹ lên.”

Với đôi tay run rẩy, Emilia mặc quần áo và đi xuống lầu. Bà Moon chộp lấy cánh tay nó và lôi ra xe, ở đó ông Moon, gầy còm, đeo kính, đang ngồi chờ bên tay lái. Emma cùng cái túi của nó bị tống vô ghế sau và họ lái xe đi thẳng.

Học viện Bloor ở bên ngoài trông rất bề thế và đầy hăm dọa. Duy chỉ có một quầng sáng ở trên đỉnh của tòa nhà cao, còn lại tất cả đều chìm trong tĩnh lặng và hoang vắng.

Emma đi giữa hai ông bà Moon, băng qua cái sân gạch và bước lên những bậc thang rộng. Ông Moon giật sợi dây xích treo bên hông cánh cổng khổng lồ, và một tiếng chuông rung lên ở đâu đó, sâu trong tòa nhà.

Tim Emma thót lại khi Manfred ra mở cửa. Nó cố né khỏi đôi mắt đen như than của Manfred, nghĩ rằng sẽ gặp phải một cái nhìn khủng khiếp, làm cứng cả người. Nhưng Manfred thậm chí còn không muốn ngó tới Emma.
 
Chương 148


“Cám ơn,” hắn nói với ông bà Moon. “Vô đi, Emilia!”

“Tạm biệt, Emilia,” bà Moon nói. Bà ta đặt cái túi của Emilia xuống sàn, sát chân nó. “Phải ngoan ngoãn đấy.”

Những cánh cổng nặng nề đóng lại và Emma chỉ còn lại một mình với Manfred.

“Tại sao anh lại đem tôi tới đây,” nó hỏi, “vào giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này?”

“Mày đã phạm luật, đúng chưa, Emilia? Mày phải bị trừng phạt.”

Bống nhiên Emma cảm thấy mình dũng cảm hẳn lên. Đó là cảm giác rất kỳ lạ. Nó cũng nhận thấy mình đang giận dữ.

“Tôi không phải là Emilia,” nó cứng giọng. “Tôi là Emma Tolly.”

Manfred cười to. Đó là thứ âm thanh kinh khủng và quỷ quyệt.

“Chẳng mấy chốc bọn tao sẽ tống lời nói bậy bạ đó ra khỏi người mày, Emma Tolly! Tao chưa bao giờ nghe đến cái thứ rác rưởi đó. Cầm giỏ lên rồi đi theo tao.”

Một điều gì đó bên trong Emma muốn chống trả, nhưng nó không biết mình có thể chống lại như thế nào. Nó chi có một mình với Manfred, theo như nó nhận định. Có thể lát nữa nó sẽ kiếm ra cách mà tẩu thoát.

Manfred dẫn nó qua những hành lang mà nó chưa bao giờ thấy, đi lên những cầu thang xoắn ốc chật hẹp, nguy hiểm, và ngang qua những căn phòng trống rỗng giăng đầy mạng nhện. Hai tay hắn cầm hai chiếc đèn lồng, nhưng Emma hầu như chẳng thấy được mình đang đi đâu. Rõ ràng không có điện đóm gì trong khu vực này của tòa nhà. Những con dơi kêu chin chít và bay chấp chới qua lại khắp trần nhà mục nát, và gió rền rĩ qua những cửa sổ vỡ. Cuối cùng, chúng đến một căn phòng nhỏ, có một chiếc giường kê sát vách tường. Trên đó có một chiếc gối và một tấm mền, ngoài ra không cógì khác. Nền nhà trống trơn, vách tường là những phiến đá khổng lồ.

Manfred đặt một chiếc đèn lồng xuống nền nhà.

“Khuya! Khuya rồi!” hắn nói. “Ngủ ngon, Emilia Moon.”

Hắn ta đóng cánh cửa nặng nề lại sau lưng, và Emma nghe thấy một tiếng “tách” lớn khi chìa khóa xoay trong ổ. Khi những bước chân của Manfred xa dần, nó thử mở cửa. Cửa khóa, đúng như nó nghĩ.

Emma ngồi lên giường. Không khóc. Nó đã khóc đủ cho một ngày rồi. Nó cứ ngồi đó và nghĩ miên man về những điều tuyệt vời mà rốt cuộc nó sẽ không bao giờ có lại được nữa: người cô tốt bụng, những người bạn, cuộc phiêu lưu, và cảm giác hạnh phúc tuyệt vời đó.

“Mọi người sẽ nghĩ là mình đã biến mất,” nó lẩm bẩm, “và sẽ không ai tìm thấy mình.”

Nó nhìn quanh gian phòng giam bẩn thỉu và đáng sợ. Lẽ nào mình bị giam ở đây mãi mãi? Cho đến khi mình già?

“Không,” nó tự nhủ. “Bây giờ mình là Emma Tolly, và Emma sẽ không chịu như thế. Emma là người bền bỉ.”

Với suy nghĩ đó nó nhảy lên và lấy hết sức bình sinh mà kêu gào.

“Cứu! Cứu! Cứu tôi với!”

Nó nghe thấy giọng mình vang dội qua những phòng trống phía bên kia cánh cửa. Nhưng không có tiếng trả lời.

Thế nên Emma lại gào thét lần nữa, và lần này nó đập cửa ầm ầm. Nó rung, gõ và đá túi bụi vô cánh cửa cho đến khi mấy ngón chân bầm tím và khớp đốt ngón tay tấy đỏ, trầy da. Và rồi nó bỏ cuộc, leo lên nằm trên chiếc giường chật hẹp, kiệt sức vì những cố gắng của mình.

Nó vừa định nhắm mắt thì chợt có tiếng cọt kẹt nho nhỏ ngoài cửa. Emma ngồi dậy. Chìa khóa tra quay trong ổ, chốt cửa được kéo ra và cánh cửa mở bung.

Emma lao ra khỏi phòng và nhìn ra. Không thấy ai cả. Nó cầm chiếc đèn lồng lên và rọi đèn ra hành lanh phía ngoài. Không có ai – không có gì – nếu không kể lũ dơi đang treo mình trên xà ngang. Dơi không thể mở cửa được, Emma nghĩ.

Giơ đèn lồng lên cao hết mức, nó bắt đầu bước xuống hành lang.

“Ai đó?” nó thì thầm. “Ai cho tôi ra vậy?” lần này nó không nói to, sợ Manfred hùng hổ quay lại.

Đến cuối hành lang, Emma đụng phải một cầu thang. Nó bắt đầu thận trọng leo xuống. Dưới chân cầu thang, các hành lang rẽ nhánh qua trái và qua phải. Emma chần chừ rồi rẽ phải. Cái mùi thật kinh tởm. Những luồng khí chập chờn xì ra từ các vách tường, và nó tự hỏi phải chăng đó là nguyên nhân gây ra cái mùi ghê tởm này.

Rồi nó nhìn thấy con quái vật. Hay đó là một con chó? Nó lùn tịt và béo phị, như một cái gối ke lên những cẳng chân ngắn ngủ, và cái mặt nó hình như đang biến mất hết, chỉ còn một cái mũi võng xuống.
 
Chương 149


Emma thở gấp và co rúm người vào tường. Nhưng con chó không trông thấy nó. Nó toan lẻn đi hướng khác thì một giọng rít lên:

“Đứng lại, con kia! Quay lại!”

Trước khi bỏ chạy, Emma quay lại nhìn thật lẹ. Nó thấy một người đàn ông ngồi trong xe lăn. Lão già đến mức gương mặt chỉ còn như một cái hộp sọ. Lão quàng một chiếc khăn san trên vai và mái tóc trắng dài thòi xuống như sáp từ chiếc mũi lưỡi trai bằng len.

“Nó chạy rồi!” lão hú lên. “Con ranh con của thằng phát minh! Manfred, tóm lấy nó!”

Cố nén tiếng hét, Emma bỏ chạy. Nó lao bừa lên cầu thang, chiếc đèn lông va đập vô tường. Nó chạy dọc theo hành lang, ào vô một căn phòng trông như xà lim, đóng sập cửa lại sau lưng. Rồi nó chờ đợi, biết rằng chút xíu nữa thôi điều tồi tệ sẽ xảy ra.

Không lâu sau, khuôn mặt tức tối của Manfred nhìn chăm chú qua cửa.

“A, mày đây rồi,” hắn hả hê, “Tốt hơn từ sau đừng có thử như thế nữa nghe chưa.”

Hắn đóng sầm cửa, khóa lại.

“Tao đang giữ chìa khóa, vì thế đừng nghĩ là mày có thể cho nó lọt ra lần nữa đấy. Nếu gây thêm phiền phức nào nữa thì mày sẽ không có mứt trong một tuần.”

Rõ ràng là hắn không nói điều đó với Emma.

Có cái gì đó đập mạnh vô tường và Manfred hét lên, “Dừng lại!”

Một cánh cửa khác đóng sầm, sau đó là thinh lặng.

Emma nhón chân đi ra cửa.

“Ai đó?” nó hỏi. Không có tiếng trả lời.

“Xin lỗi vì đã làm bạn gặp rắc rối,” Emma nói.

Vẫn không có tiếng trả lời . nếu có bất cứ ai ở ngoài đó thì người ấy hoặc cũng đã bỏ đi, hoặc món mứt quan trọng đến nỗi người ấy không muốn mạo hiểm để bị tước mất.

“À, dù sao đi nữa cũng cám ơn bạn vì đã cố giúp tôi,” Emma nói.

Nó ngồi lại lên giường. Nến trong đèn lồng của nó đã sắp cháy hết, và nó khó mà chịu được ý nghĩ phải ở trong bóng đêm mịt mùng của căn phòng lạnh lẽo, gai người đó. Nó chong chong nhìn lên những bức tường xám xịt, vẻ hằn học, và rồi, trong ánh nến sắp lụi, nó nhận thấy một cửa sổ nhỏ sau chiếc giường. Nếu nó leo lên gối thì có thể với tới, tuy nhiên nó biết cửa sổ chắc chắn phải ở cao bên trên. Cao lắm, và nó không thể nhảy xuống đất được.

“Charlie nói là mình biết bay,” nó lẩm bẩm.

Khi nói những lời này, những ngón tay của Emma bắt đầu tê tê, và một cảm giác giần giật chuyền qua hai cánh tay nó, khiến chúng như không có trọng lượng.

Ông cậu Paton Yewbeam đang làm chuyến rảo bộ đêm hôm của mình. Ông cố ý sải những bước thật dài, nhưng tâm trí thì rối bời. Một mặt ông cảm thấy lạc quan. Cuối cùng thì ông cũng đã bắt đầu dàn xếp cho mọi chuyện đâu vào đấy, và các bà chị của ông cũng đã biết ra vị trí của ông ở đâu.

Một bóng đèn nổ tung khi Ông cậu đi ngang qua một cột đèn. Vẫn tiếng thủy tinh lanh canh rơi như thường lệ. Nhưng rồi còn có một âm thanh khác: tiếng những bước chân lộp cộp, nhè nhẹ. Ông cậu Paton thở dài, nhưng không quay lại nhìn. Nếu ai đó đang đi theo ông thì cứ để họ theo. Họ cũng chả tìm thêm được bằng chứng gì đâu. Ông thì thầm một mình.

“Giá mà ta đừng nằng nặc mời bữa tối đó. Phải chi hai đứa cứ ở nhà, dùng bữa trong ánh nến thôi... Cô ấy chắc nghĩ ta là thằng khùng. Quên cô ấy đi, Paton à. Cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho mi đâu.”

Ông cậu Paton chợt nhận ra những bước chân kia đã bắt kịp mình. Một cô bé đi bên cạnh Ông cậu cô bé có khuôn mặt nhợt nhạt. Nó xinh, mái tóc dài hoe vàng, hơi bù xù.

“Cháu xin lỗi,” cô bé rụt rè. “Ông có thể chỉ cho cháu đường đến tiệm sách Ingledew được không ạ?”

“Ta nghĩ là được,” Ông cậu đáp.

“Ta tin là ta đang trên đường tới đó.” “Ô, tốt quá,” cô bé mừng rõ. “Tên cháu là Emma Tolly.”
 
Chương 150


Vua Đỏ

Khi ông cậu Paton bấm chuông tiệm sách cô Ingledew thì đã 12 giờ rưỡi đêm. Tất nhiên là không ai lên tiếng. Nhưng Ông cậu Paton một lần tình cờ biết được là cô Julia Ingledew thường đi ngủ rất trễ. Cô nói rằng mình thường đọc sách đến hai giờ sáng. Ông cậu nhấn chuông lần nữa.

Cánh cửa sổ phía trên cao cọt kẹt mở ra, và cô Julia Ingledew ngó ra ngoài.

“Ai đó?” cô giận dữ hỏi.

Rồi cô nhìn thấy Ông cậu Paton. “Ô, ra là anh. Chọn giờ đến gọi cửa mới hay làm sao.”

“Julia... à... cô Ingledew, thực ra thì không phải tôi. Ờ, đúng hơn đó là tôi... ờ... nhưng có một người nữa muốn gặp cô.”

Ông cậu Paton bước lùi khỏi cửa, nhẹ nhàng kéo Emma lại gần mình.

“Tên cô bé là Emma Tolly.”

“Cái gì? Tôi không... Tôi không thể...”

Cửa sổ đóng ập lại. Rồi tiếng những bước chân vội khua xuống cầu thang rung kèn kẹt. Cửa lớn mở toang, cùng với một tiếng kính coong.

“Con chào cô!” Emma cất tiếng.

“Nancy? Ôi, con giống Nancy quá,” cô Ingledew khóc nấc lên. “Vô đi, vô đi con, và cả anh nữa, Paton. Ô, không thể tin nổi. Tôi chỉ... ô, trời ơi. Tôi biết nói sao đây.”

Cô Julia kéo Emma vô trong tiệm sách. Cô nhìn nó không rời mắt, cứ sờ tóc, vuốt má rồi ôm chặt lấy nó.

“Là con thật rồi. Ôi chao, Emma, chuyện này là thế nào?”

“Con đã tỉnh rồi,” Emma nói. “Charlie Bone và các bạn của bạn ấy đã giúp con, và cái ông tốt bụng này dẫn con tới đây.”

“Cám ơn anh, Paton,” cô Julia cảm động. “Mọi người lạiđây dùng một tách trà hay món gì đó nào. Vụ này phải ăn mừng thôi.”

Cô dẫn họ vô căn phòng ấm cúng sau tiệm sách. Emma chăm chú ngắm các kệ đầy những cuốn sách dày cộp, tựa phủ nhũ vàng, lóng lánh trong ánh sáng mờ dịu. Cô bé hít mùi giấy cũ, mùi da thuộc, mùi mực in, và thở hắt ra một cái rõ dài, xong tuyên bố rằng đây là căn phòng tuyệt vời nhất trên đời.

“Nó sẽ là nhà của con đấy, Emma,” cô Ingledew sung sướng nói. “Nếu mọi chuyện xuôi chèo mát mái. Trừ phi con muốn ở lại với những người đã nhận nuôi con hồi trước...”

“Không, không, không!” Emma hét lên. “Con không bao giờ muốn trông thấy căn nhà khủng khiếp đó nữa.”

“Con phải kể với cô tất cả về căn nhà đó đấy,” cô Ingledew nói. “Cô muốn biết tất cả mọi thứ. Còn anh, Paton, tôi cam đoan anh còn nhiều việc phải làm với vụ này lắm. Mời ngồi, xin mời ngồi.”

Cô cuống quít chạy khắp phòng, thu dọn sách báo trên những cái ghế, vỗ cho gối phồng lên, và phủi bụi các chao đèn.

Một giờ sau, Ông cậu Paton đã trên đường về nhà. Ông huýt gió một điệu nhạc vui tươi, trong khi đèn đường chập chờn và nổ lốp bốp trên đầu. Chưa bao giờ Ông cậu vui như thế này, kể từ năm lên bảy.

Sáng sớm chủ nhật, Charlie thức dậy, thấy Ông cậu đang đứng ở cuối giường.

“Tin nóng hổi đây, Charlie,” Ông cậu Paton nói. “Ta chẳng chợp mắt được chút nào. Emma Tolly đang ở nhà cô của nó, và sắp tới tụi ta sẽ phải đảm bảo là con bé được ở đó.”

Charlie ngồi bật dậy.

“Đầu đuôi ra sao ạ?” nó nôn nóng.

Ông cậu Paton kể cho nó nghe việc gia đình Moon đã đưa Emma vô học viện giữa đêm khuya ra sao. Và Manfred đã khóa cửa nhốt con bé như thế nào.

“Nhưng nó thoát ra được.” Charlie tiếp.

“Ờ,” Ông cậu Paton thủng thỉnh nói. “Và hiện thời con bé sẽ không nói nó thoát ra bằng cách nào. Nhưng, Charlie à, có người đã đánh hơi được về cuộc thử nghiệm của mày, có đứa đã phản bội mày, và ta nghĩ mày nên kiếm xem đứa đó là ai.”

Charlie có một cảm giác khủng khiếp là nó biết người này. Đó không thể là Benjamin, Fidelio, hay thậm chí là Olivia được. Nó tin tưởng cả ba đứa đó bằng cả mạng sống của nó. Chỉ còn lại Billy Raven mà thôi.

“Đó là Billy Raven,” nó nói. “Con thấy tội nghiệp nó quá, Ông cậu Paton à. Nó chẳng có gia đình gì cả, theo con thì nó đang sợ hãi một diều gì đó. Ông cậu có thấy chiếc xe hơi đến đón nó không ? Kính xe màu khói, và có người trong xe thò gậy ra đánh con.”
 
Chương 151


“Cái lão già,” Ông cậu Paton lầm bầm.

“Lão già nào ạ? Ý ông cậu đó là ông cố của Manfred?”

“Ta có vài thứ muốn cho mày xem, Charlie à. Sau bữa sáng tới gặp ta nhé.”

Charlie thay đồ và chạy xuống ăn sáng. Nó ngạc nhiên khi thấy nội Bone ở trong bếp, và ngạc nhiên hơn nữakhi bà lại còn mỉm cười lúc nó cắm cúi ăn xúc xích và trứng chiên. Charlie e dè. Nó cứ nghĩ nó sẽ phải nhận một bài giáo huấn về vụ phạm luật chứ; nhưng hình như bà nội nó chưa biết chuyện Emma Tolly đã trốn thoát.

Ngay khi bữa ăn chấm dứt, Charlie vù lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.

“Vô đi, Charlie,” giọng Ông cậu Paton không có vẻ mệt mỏi và giận dữ nữa.

Charlie gần như không mở được cửa nữa. Sách nằm la liệt dưới sàn nhà. Nó phải nhón chân lách vô giữa những khoảng trống, trong khi Ông cậu Paton chỉ đường cho nó.

“Không phải ở đó. Ừ, đúng rồi… Chú ý chỗ đó, Charlie! Ta không muốn mất chỗ ta đang ngồi đâu.”

“Có chuyện gì vậy, Ông cậu Paton?” Charlie hỏi, ngồi xuống một khoảng trống nhỏ, ngay giữa một đống báo chất ngang giường của Ông cậu.

“Có lần mày hỏi ta về Vua Đỏ, phải không Charlie? Và ta vừa khám phá ra… những khám phá quan trọng. Cô Ingledew đã giúp ta kiếm ra vài cuốn sách trong số này.”

Ông cậu chỉ những cuốn sách khổng lồ, trông như đồ cổ ở bên cạnh bàn.

“Chúng là vô giá, là kho báu thực sự. Tuy ta chưa dịch hết, nhưng cũng đã công bố một phần đáng kể rồi. Ta có ghi chú lại đây. Nghe này.”

“Sách viết bằng tiếng nước khác ạ?” Charlie hỏi.

“Nhiều thứ tiếng lắm. Giờ nghe nhé. Vua Đỏ đã đến vùng đảo này, tức đảo Anh Quốc, vào khoảng thế kỷ thứ 13. Người ta nói ông đến từ châu Phi, nhưng từ vùng nào của châu Phi thì ta không chắc. Ông được gọi là ‘Vua Đỏ’, vì ông mặc chiếc áo chùng đỏ tươi và có một mặt trời đỏ rực trên tấm khiên của ông. Một trong những người đồng hành với ông là một hiệp sĩ đến từ Toledo, thành phố của những thanh gươm báu. Vua Đỏ lấy con gái của hiệp sĩ, nhưng đáng buồn là bà đã qua đời khi đứa con thứ mười của họ chào đời.

“Vua Đỏ rời lâu đài của mình và đi chu du khắp vùng, để thương khóc vợ. Có nhiều truyền thuyết về những việc làm kỳ lạ của ông trong khoảng thời gian này: những cơn bão do ông gây ra, tài chữa bệnh của ông, tài tiên đoán chính xác những sự kiện tương lai. Ở đây ghi…”

Ông cậu Paton ôm cuốn sách trải lên đùi và đọc,

“… thế này: ‘Vua Đỏ, bằng con mắt đen của mình, có thể tước quyền năng của bất kỳ kẻ thù nào’. Nói cách khác, ông có thể thôi miên.”

Ông cậu Paton đặt cuốn sách xuống. “Ta có thể trích dẫn hàng trăm sự kiện về những vụ việc bí ẩn, nhưng tóm lại thì, Vua Đỏ là một phù thuỷ.”

“Và tất cả những người có phép thuật như chúng ta là do ít nhiều được thừa hưởng từ ông?” Charlie hỏi.

“Đúng. Nhưng chuyện đến đó chưa hết.”

Ông cậu Paton chồm người ra trước, một tay chống cằm và ngó Charlie đăm đăm.

“Vị vua này đã vắng mặt khỏi lâu đài suốt 15 năm. Ông không đoái hoài đến những đứa con. Chúng đã thừa hưởng một số, chứ không phải toàn bộ, những phép thuật của ông, theo nhiều cách khác nhau. Khi Vua Đỏ trở về, ông nhận ra các con mình đang gây chiến.”

“Gây chiến?”

“Gây chiến với những láng giềng. Bọn chúng dùng phép thuật của mình để lừa gạt, lấy cắp, cướp bóc, và giết chóc. Dân chúng gần xa vô cùng khiếp sợ bọn chúng.”

“Tất cả những người con của ông đều xấu hết à?” Charlie thắc mắc.

“Không! Chỉ năm kẻ trong số họ có dã tâm giành quyền lực. Những người còn lại rời khỏi lâu đài - họ biến mất vào các vùng quê. Thậm chí có người còn dong thuyền buồm tới những miền đất lạ, hy vọng thoát khỏi những người anh em khủng khiếp của mình. Chính họ cũng ngần ngại sử dụng phép thuật mà họ được ban cho. Nhưng họ không thể chạy trốn khỏi chuyện đó, Charlie à, bởi vì một số con cái của họ bỗng trở nên hung ác; mà ở đời, thường thì con cái của những kẻ ác lại trở thành người tốt. Chính vì như thế mà các gia đình cứ mãi mãi bị buộc chặt vào nhau, không bao giờ rũ bỏ được quá khứ của mình; và điểu đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Ngay khi một gia đình nghĩ là mình đã rửa sạch mọi tội lỗi, thì bất thình lình, họ lại sinh ra một kẻ xấu xa, dùng phép thuật để cướp phá.”

Ông cậu Paton lắc đầu. “Biết bao cảnh huynh đệ tương tàn, biết bao sự việc đau đầu, và biết bao cảnh khốn cùng.”
 
Chương 152


“Con thấy mừng vì mình là con một,” Charlie nói.

Ông cậu Paton cười khà khà. “Nếu chúng ta liên kết lại, thì cuối cùng chúng ta sẽ chiến thắng, Charlie!”

Rồi ÔNg cậu nhướn người, ngồi lại vô bàn làm việc của mình.

“Chu cha!” Charlie đứng phắt dậy và bắt đầu cuộc hành trình nhiêu khê băng qua sành nhà. Ra đến cửa, nó quay lại và nói:

“Chuyện gì đã xảy ra với Vua Đỏ vậy, Ông cậu Paton? Bộ ông ấy không dàn xếp nổi mọi việc sao, vì xem ra ông ấy có tất cả mọi quyền năng mà?”

“Ông ấy đã quá trù trừ,” Ông cậu Paton nghiêm nghị nói. “Đáng lý ra ông ấy phải giết những đứa con ác ôn đi, nhưng ông ấy lại không làm được. Cùng với ba con báo, Vua Đỏ rời khỏi lâu đài và không bao giờ người ta thấy ông ấy nữa. Mặc dù có nhiều truyền thuyết cho thấy ông ấy đang lảng vảng vô hình ở các vùng quê khác nhau.”

“Ông cậu chưa bao giờ nói gì về những con báo cả,” Charlie nói.

“Chưa à? Ồ. Ta quên mất.” Ông cậu Paton nở một nụ cười bí hiểm với Charlie. “Chiều nay ta sẽ đến tiệm Ingledew để giúp Julia lo liệu việc giữ bé Emma lại.”

“Ông cậu có nghĩ là được không? Emma có thể ở lại đó mãi mãi không?”

“Chúng ta sẽ làm cho phải được. Gia đình Bloor không muốn cả thế giới biết họ đã và đang làm những điều đồi bạn gì. Họ sẽ từ bỏ Emma. Còn với gia đình Moon, họ chẳng có vẻ gì là vui thích vai trò làm cha mẹ cả.”

Ông cậu Paton trông rất tự tin. Đúng ra, trông Ông cậu như một người hoàn toàn mới.

Charlie để ông cậu ở lại với những cuốn sách và băng qua đường tới nhà Benjamin. Thật ngạc nhiên, không có ai ở nhà số 12, cả con Hạt Đậu cũng không. Dần dần Charlie nhận ra rằng gia đình Brown đã ra ngoài cả một ngày. Tất cả mọi người. Trước đây điều này chưa hề xảy ra. Benjamin luôn luôn ở nhà, bất cứ khi nào Charlie muốn gặp nó.

Charlie đi thơ thẩn ra công viên, không chừng Benjamin dẫn chó đi dạo lần đầu tiên kể từ khi bị tấn công cũng nên, nhưng chẳng thấy bóng dáng người và chó đâu cả.

Khi về nhà, nó thấy ngoại Maisie đang ngồi trên chiếc ghế xích đu cạnh lò sưởi. “Ngọai cảm thấy không khoẻ, Charlie à,” ngoại Maisie nói. “Trưa nay ngọai sẽ không ăn trưa, mà chỉ ngả lưng một chút thôi.”

Chưa bao giờ nghe ngoại nói như vậy. Ngoại Maisie không bao giờ bệnh cả. Charlie nhìn bà ngọai khó nhọc lê bước khỏi bếp. Chuyện gì xảy ra với bà vậy?

Ăn trưa xong, Charlie và mẹ trò chuyện rất lâu về Emma Tolly.

“Nghe như chuyện thần tiên vậy,” bà Amy thở phào. “Mẹ hy vọng câu chuyện sẽ có một kết thúc có hậu.”

“Emma không phải là con nhà Moon,” Charlie gay gắt. “Emma ghét họ. Nó là cháu cô Ingledew mà.”

“Nhưng họ có thể chứng minh được điều đó không?” bà Amy lắc đầu. “Ai mà tin chuyện thôi miên, với lại… hiệp sĩ sáng chói, chuông reo… và lời nhắn của tiến sĩ Tolly cơ chứ.”

“Không cần. Ông cậu Paton bảo gia đình Bloor không muốn người khác biết họ đã làm những gì, vì thế họ sẽ bỏ cuộc, không tranh đấu gì hết.”

“Mẹ không tin đâu,” bà Amy nói. “Sẽ có người phải trả giá vì những việc đã xảy ra. Cẩn thận đấy, Charlie.”

“Mẹ đừng lo cho con, mẹ ạ.”

Sau bữa trưa, mẹ Charlie phải đi làm ở tiệm rau quả. Để đóng gói hàng như bà đã hứa với tiệm.

“Mẹ đi không lâu đâu, Charlie,” mẹ nó dịu dàng. “Nếu con cần gì thì đã có ngoại Maisie ở trên lầu.”

Căn nhà thật tĩnh lặng. Ông cậu Paton đã ra ngoài. Ngó vô phòng ngoại Maisie, Charlie thấy ngoại đang ngủ mê mệt. Nó nhẹ lướt ngang qua phòng nội Bone. Tất nhiên nó cũng không muốn làm bà thức dậy. Nó chạy qua nhà số 12 và thấy gia đình Brown vẫn chưa về. Bầu không khí yên ắng và lạnh buốt, và khi Charlie băng qua đường trở về thì những bông tuyết li ti rớt xuống đậu trên đầu nó.

Và rồi nó trông thấy họ: ba bóng người đi rầm rộ trên phố. Các bà cô nhà Yewbeam vai chen vai, nghênh ngang không chịu chừa lối đi, và để tránh họ, người ta phải lách xuống lòng đường. Charlie định chạy vô công viên trước khi họ trông thấy nó, nhưng quá trễ, họ đã tăng tốc rồi.

Họ gặp nhau bên ngoài cửa nhà số 9.

“Charlie, tiện quá đi mất,” bà cô Lucretia xởi lởi. “Chúng ta muốn nói chuyện phiếm đôi chút.”

“Chuyện riêng,” bà cô Eustacia thêm vô.

“Ồ,” Charlie ái ngại. Khi leo lên các bực thang, nó nghe tiếng mấy bà cô thì thào sau lưng nó.
 
Chương 153


Ba bà bước vô hành lang và vắt những chiếc áo khoác ẩm lên cánh tay Charlie.

“Tuyết gớm ghiếc,” bà cô Venetia nhận xét khi búng búng những móng tay dài lên tóc Charlie.

“Vô đây,” nội Bone gọi với ra từ phòng sau. “Lẹ lên, Charlie. Bọn ta không có cả ngày đâu.”

“Con biết,” Charlie nói giọng móc máy, “vì bà Lucretia là một giám thị và bà Eustacia là một bảo mẫu mà.”

Hai bà cô thảy cho nó những cái nhìn kinh tởm, nhưng không nói gì. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu Charlie, rằng nó có thể dễ dàng chạy ào lên lầu, và khoá cửa phòng lại, nhưng nó quyết định nên nhận lấy cái “chuyện phiếm” phiền phức này thì hơn. Thế là, nó làm đúng bổn phận, treo những chiếc áo khoác lông chuột chũi lên, và ngồi vô bàn, đối diện với ba bà cô nhà Yewbeam.

“Ờm, Charlie này,” bà cô Lucretia mở lời. “Gần đây mày bận rộn lắm phải không?”

“Chõ mũi vô những chỗ mày không nên chõ vô,” bà cô Eustacia thêm.

“Ta hy vọng mày sẽ không biến trò đó thành một thói quen,” nội Bone tiếp.

“Em chắc nó sẽ không thế đâu chị,” bà cô Venetia thỏ thẻ với một nụ cười trông hết sức bệnh.

Bà ta khoanh tay lại, tì lên bàn, và thò cần cổ dài về phía Charlie.

“Con chỉ định giúp một người bạn nhỏ thôi, phải không, Charlie? Chúng ta biết tất cả về Emma Tolly. Và chúng ta biết có thể tìm thấy Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly ở đâu. Cái thùng đó là của giáo sư Bloor, con biết đó.”

“Không phải,” Charlie phản đối. “Nó là của cô Ingledew và các bà sẽ không lấy được nó đâu.”

“Ối trời ơi!” bà cô Venetia thình lình giơ tay lên, giả bộ như khiếp sợ. “Một thằng bé dữ tợn. Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly muốn ở đâu thì ở. Chúng ta không quan tâm đến nó nữa, đúng không các bà?”

“Chẳng quan tâm tí nào,” họ đồng thanh.

Charlie không tin họ. Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly có vai trò đánh thứa Emma, và gần như không có lý do gì để họ giữ cái thùng lại. Nhưng trong thâm tâm, Charlie biết có một lý do. Còn một người nữa cần được đánh thức.

Đột nhiên nó buột miệng, “Ba con chưa chết, các bà biết mà.”

Mặt nội Bone trắng bệch. “Mày nói gì vậy?” bà thét lên. “Tất nhiên ba mày chết rồi.”

“Không phải. Ba con chưa chết. Một ngày nào đó con sẽ tìm thấy ba.”

“Đấy là những gì Ông cậu mày mớm cho mày đó phải không?” bà cô Lucretia gặng hỏi. “Paton bị điên, mày biết đấy, điên thật sự. Gã chẳng biết mình đang nói gì hết. Mày cấm không được liên hệ với gã nữa.”“Đấy là những gì Ông cậu mày mớm cho mày đó phải không?” bà cô Lucretia gặng hỏi. “Paton bị điên, mày biết đấy, điên thật sự. Gã chẳng biết mình đang nói gì hết. Mày cấm không được liên hệ với gã nữa.”

“Hứa đi,” bà cô Eưstacia gằn giọng.

“Không,” Charlie cương quyết.

Nội Bone giộng nắm tay xuống bàn. Theo sau đó là những phút giây im lặng chết người. Charlie nghĩ đây là lúc nó nên đi. Nó đẩy ghế ra sau và đứng dậy.

“Chờ đó!” bà cô Venetia hét lên. “Ta có một món quà cho con, Charlie.” Bà ta cúi xuống và lôi một thứ gì đó ra khỏi cái túi to bên hông.

“Đây!”

Một gói giấy màu nâu trượt trên mặt bàn bóng láng. Charlie thao lái nhìn cái gói.

“Cái gì vậy?” nó hỏi.

“Mở ra đi!” bà cô Venetia nháy mắt với nó.

Charlie nuốt nước miếng. Chắc là thứ gì đó gớm ghiếc đây. Nó kéo dây và gói giấy bung ra, để lộ một chiếc áo chùng xanh da trời được gấp lại.

“Một chiếc áo chùng,” Charlie nói. “Nhưng con đã có một cái rồi.”

“Nó rách thê thảm,” nội Bone nói. “Giáo sư Bloor nói mày cần phải có một cái mới, và bà cô Venetia đã tử tế may cho mày đấy.”

“Cô ấy khéo tay lắm,” bà cô Lucretia khen.

Bà cô Venetia cười khoái chí đến nỗi Charlie thấy cả miếng son môi dính trên răng bà.

“Con cám ơn,” nó ngập ngừng.

“Không có chi,” Bà cô Venetia ra hiệu cho nó đi. “Bây giờ con đi được rồi đó, Charlie.”

Charlie đi khỏi, tay nắm chặt chiếc áo chùng mới. Nó chạy lên lầu và thấy chiếc áo chùng xanh nát cũ của nó đã biến khỏi tủ âm tường. Nó dòm kỹ món quà của bà cô Venetia, nhưng tịnh không thấy có gì bất ổn hay khác thường cả.

Charlie nói với mẹ về chiếc áo chùng khi mẹ nó giúp nó thu xếp đồ đạc.
 
Chương 154


Trong Khu Vườn Đổ Nát

Khi Charlie đến Học viện sáng hôm sau, nó để ý thấy có tiếng huyên náo, đầy hào hứng trong hành làng chính. Bọn trẻ thật khó mà giữ được im lặng, chúng cứ huých khuỷu tay vào nhau, và chỉ trỏ cái bàn dài được kê dựa vô một trong những bức tường ốp ván. Trên bàn chất đầy đèn lồng bằng thủy tinh.

“Tối nay có trò chơi trong khu vườn hoang đó,” Fidelio loan báo với Charlie. Chúng đã vô phòng để áo khoác chật ních lũ trẻ đang đấu láo.

“Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi, nghĩ đến cô nữ sinh không bao giờ trở ra. “Em không biết cách chơi.”

“Đây không hẳn là trò chơi,” Fidelio nói. “Mà giống một cuộc đi săn hơn. Có một chiếc huy chương được giấu ở trung tâm của khu vườn hoang. Người thắng cuộc phải tìm ra chiếc huy chương đó, và phải ra khỏi khu vườn hoang trước khi hết một tiếng đồng hồ. Mỗi khoa sẽ tuần tự tìm kiếm. Tối nay là khoa kịch, ngày mai là khoa hội họa và thứ tư là đến tụi mình. Không dễ đâu. Năm ngoái chẳng ai tìm được huy chương, còn năm kia thì có người tìm thấy, nhưng phải mất ba giờ đồng hồ mới ra được, thế nên không tính.”

“Có đáng phải làm vậy không?” Charlie cau mày. “Chỉ là cái huy chương thôi mà.”

“Người thắng cuộc sẽ không bị cấm túc trong một năm – trừ phi họ làm điều gì đó hết sức tệ hại. Họ còn được tặng ngày nghỉ, và được phát miễn phí các món như nhạc cụ mới, hộp màu vẽ, hay quần áo hóa trang. Ngoài ra việc đó sẽ khiến người ta cảm thấy hãnh diện.”

“Ô,” Charlie có cảm giác chơi vơi. Nó tự nhủ mình thật ngớ ngẩn. Sẽ có một trăm đứa trẻ trong khu đổ nát. Làm sao mà lạc được nào? Tuy nhiên, đã có người biếm mất trong đó. Và ai đó có thể biến thành một con thú man rợ và đi vô đó để tìm mồi.

“Đừng có u ám như thế chứ, Charlie,” Fidelio trấn an. “Tối nay tụi mình sẽ theo dõi từ phòng triễn lãm của khoa hội họa. Phòng đó nhìn ra vườn. Em sẽ thích cho coi, anh bảo đảm với em đó.”

Sau bữa ăn nhẹ vào buổi tối, lũ trẻ của khoa kịch xếp hàng vô hành lang và đi lấy đèn lồng. Phòng triển lãm nhìn ra vườn dần dần đầy ắp các khan giả, theo dõi từng đứa, từng đứa một, bọ trẻ áo chùng tím túa ra vườn. Charlie hài lòng khi thấy Olivia đã quyết định mang đôi giày hữu dụng – loại giày có thể chạy nếu bị ai đó rượt theo.

Một hàng đèn lồng lập lòe trườn qua bãi cỏ như một con rắn dài lấp lánh. Và rồi, từ từ, cái đầu rắn bắt đầu biến mất khi lũ trẻ bị các bức tường đen tối của khu đổ nát nuốt chửng.

“Bây giờ thì sao?” Charlie nín thở hỏi.

“Tụi mình đợi thôi,” Fidelio đáp.

Chúng không phải đợi lâu. Từng đám con nít bắt đầu cuống cuồng chạy ra khỏi khu vườn hoang, gần như ngay khi mới bước chân vô. Tụi nó sợ bóng tối hoặc sợ bị lạc đường. Đứa nào chạy ra tới hành lang là tên bị gạch khỏi danh sách ngay. Những chiếc đèn lồng được run run hoàn trả lại, và đám trẻ ngây ngô ấy mau chóng về phòng ngủ.

Olivia là một trong những đứa trở ra sau cùng. Fidelio và Charlie đang chờ trên cầu thang dẫn lên phòng ngủ chung của nó.

“Tớ không thích khung cảnh ở ngoài đó tối nay,” Olivia tía lia liền. “Không biết có cái gì đằng sau mấy bức tường cứ khiến tớ nổi da gà. Tớ cứ nhìn vô cái bóng đen đó – nó cứ thoắt ẩn rồi thoắt hiện.”

“Loại bóng đen gì vậy?” Fidelio hỏi.

“Một con thú,” Olivia nói. “Có lẽ là một con chó…em cũng không biết nữa. Em không đến được trung tâm, không ai đến được đó.”

“Mình mừng là bồ đã ra được,” Charlie nói, liếc nhìn đôi giày hữu dụng của Olivia.

“Tớ bám sát Bindi,” Olivia kể tiếp. “Đi kế chị ấy tớ cảm thấy an toàn, vì chị ấy có phép thuật. Manfred đã nhìn tớ một cái thật ghê sợ lúc hắn giao lồng đèn cho mọi người. Tớ nghĩ là hắn đã biết chuyện rồi.”

“Hắn không biết bồ đâu, Olivia” Charlie nói.

Tối hôm sau, đến lượt khoa hội họa chơi trò hủy diệt. Fidelio và Charlie có thêm Olivia cùng đi vô phòng triển lãm. Charlie cảm thấy an tâm khi biết Emma Tolly sẽ không có ở trong đám săn lùng huy chương. Nó tự hỏi không biết Emma có được ở cùng với cô Ingliedew hay không. Nếu Ông cậu nó mà ra tay trong việc này thì may ra. Ông cậu Paton là người rất uy lực, theo cách riêng của Ông cậu.

Không có gì kịch tính trong lượt chơi thứ hai này. Không ai tìm thấy huy chương và tất cả mọi người đều trở ra an toàn.
 
Chương 155


Và rồi đến tối thứ tư. Khi lũ trẻ mặc áo chùng xanh xếp hàng lấy đèn lồng, một cơn gió buốt lạnh thổi qua hành lang. Bên ngoài sẽ có gió rít đấy, và Charlie sung sướng vì chiếc áo chùng ấm áp của nó. Lần này đích thân giáo sư Bloor đứng bên bàn phát đèn lòng. Ông ta gật đầu trang nghiêm với Charlie khi tay hay người chạm vào nhau, và nó đột ngột hiểu ra rằng, không phải giáo sư Bloor là người nó sợ, mà thực ra, chính người đàn ông to lớn kia phải sợ nó.

Cửa dẫn ra vườn để mở. Những đứa trẻ đầu tiên bước ra ngoài, lao vô bóng đêm. Không có trăng, cũng chẳng có lấy một vì sao, chúng ngước lên nhìn bầu trời đen kìn kịt. Tuy nhiên, dưới mặt đất lại có một đốm sáng nhờn nhợt, nhảy nhót. Và khi giơ đèn lồng lên, Charlie thấy tuyết rơi xuống đã đóng thành một lớp mỏng. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân chúng như thủy tinh vỡ.

“Anh ở ngay sau lưng em đây, Charlie,” Fidelio thì thào, “Cứ đi đi,”

Charlie quay lại, thấy gương mặt rạng rõ của Fidelio nổi bật trong ánh sáng của đèn lồng.

“Chúc may mắn!” Charlie nói khẽ. “Hy vọng anh sẽ tìm thấy huy chương.”

“Im lặng,” một giọng đanh sắt vang lên. “Nói chuyện hoặc thì thầm sẽ bị phạt.”

Chúng đã đến cổng khu vườn đổ nát. Manfred đứng ở một bên, đánh dấu tên lên cuộn giấy dài khi lũ trẻ đi ngang qua hắn. Trên đầu hắn đung đưa một chiếc đèn lồng to, và Charlie thấy Zelda Dobinski đang đứng sau Manfred, giữ cái cây đỡ đèn lồng. Con bé lạnh lung lườm Charlie khi nó bước vô cổng vòm đá.

Nó nhận ra mình đang ở trong một khoảnh sân lát gạch, xung quanh có những bờ rào cao, dày đặc. Trước mặt nó là năm cửa vòm, phân cách nhau bởi bốn băng ghế đá. Fidelio thúc vô khuỷa tay Charlie và hất đầu về ô cửa vòm ở giữa. Chúng tiến lên. Thoạt dầu, có vẻ như chúng là cặp duy nhất chọn ô cửa vòm chính giữa, nhưng từ từ, chúng bắt đầu nhận ra các nhóm nhỏ khác cũng đang vội băng qua mặt chúng, hoặc nhốn nháo đi sát ngay bên cạnh. Thậm chí một vài đứa còn chạy ngược lại.

“Anh có nghĩ là tụi mình đang đi đúng đường không?” Charlie hỏi khẽ.

“Ai mà biết!” Fidelio đáp.

Chúng rẽ vô một góc ngoặt, và men theo một lối đi hẹp đến nỗi các bức tường cọ vô cùi chỏ khi chúng đi qua.

Có lúc chúng đến được một khoảng trống, nơi có vòi phun nước bắn tung tóe vô một cái hồ giá lạnh. Charlie thích nhất ở đó là một con cá đá khổng lồ, và Fidelio phải kéo áo chùng để lôi nó đi.

Có lúc, chúng lại húc phải một bức tượng mục hay một cái bình mốc. Và khi thời gian dần dần trôi đi, một sự thinh lặng bí hiểm dần bao trùm bọn trẻ. Chúng không còn nghe thấy tiếng lộp cộp của những bước chân vội vã, hay tiếng xì xào của những đứa khác nữa.

“Làm sao tụi mình biết được là đã đến khu trung tâm?” Charlie thì thầm.

“Có một ngôi mộ ở đó,” Fidelio đáp. “Đó là tất cả những gì anh biết.”

“Mộ? Nhưng mộ của ai?”

“Charlie!” Fidelio bỗng kêu to. “Đứng im. Có gì đó không ổn với áo chùng của em kìa.”

“Cái gì?”

Charlie quay vòng và ngó lom lom chiếc áo chùng của mình. Cái áo đang phát sáng. Những sợi chỉ nhỏ xíu sáng chói chạy khắp mặt vải, khiến cho chiếc áo giống như một đám mây lấp lánh kỳ dị.

“Bà cô của em may nó đó,” Charlie hơi hoảng. “Nhưng sao bà ta lại làm thế này?”

“Có lẽ làm vậy để ai đó có thể đi theo em trong bóng đêm,” Fidelio suy đoán, “hoặc săn đuổi em.”

Charlie cởi phăng chiếc áo chùng ra và vứt toẹt xuống đất.

“Được, họ sẽ không bắt được em đâu,” nó tuyên bố. “Em có thể bị chết cóng chứ nhất định không để bị tóm.”

“Em có thể dùng chung áo với anh nếu trời quá lạnh,” Fidelio nói.

Lối đi kế tiếp chúng chọn rất giống một đường hầm. Chúng gần như phải gập đôi người lại, hầu tránh đụng đầu vô xà nhà thấp. Charlie bắt đầu cảm thấy khó thở trong cái không gian tù túng như thế này. Nó chạy nhanh về phía trước và thấy ló ra một khoảng trống hình tròn. Có ba bức tượng đứng ở giữa, nhưng khó mà đoán ra là tựa gì. Nó nhận ra nến trong đèn của mình đã cháy gần hết.

Cứ nghĩ là bạn mình đã ra khỏi đường hầm ở sau lưng, nó gọi,

“Hây, Fidelio, nhìn nè”

Không có tiếng trả lời. Charlie săm soi nhìn vào đường hầm. Không có ánh sáng, không có Fidelio.

“Này, nhanh lên. Đừng có loanh quanh nữa!”
 
Chương 156


Charlie lao trở vô đường hầm. Với bàn tay rảnh rang, nó dò dẫm các bức tường và khoảng không gian đen ngồm trước mặt. Hay là bạn nó dã bị ngã hay trượct vô một lối đi khác?

“Fidelio! Fidelio!” Charlie gọi to, không thèm để ý rằng mình có thể bị phạt.

Tiếng gọi của nó chìm vào im lặng. Và rồi ngọn nến tắt phụt.

Charlie chợt nhận ra là nó đã biết, ngay từ đầu, rằng điều này sẽ xảy ra. Nó đã phạm luật, giống như ba nó ngày trước. Nó đã cứu Emma Tolly, Và bây giờ nó sẽ bị trừng phạt. nhưng nó sẽ không đầu hàng. Nó phải đấu tranh. Ném cái đèn lồng vô dụng xuống đất, Charlie bắt đầu sờ soạng tìm đường băng qua đường hầm. Ở một khúc nào đó, chắc hẳn là đường hầm sẽ tỏa ra một lối đi khác, rộng rãi, vì nó đã lại ngửi thấy một mùi không khí trong lành, dẫu không chính xác là trong lành, mà đúng hơn, đó tựa như một hỗn hợp của lá mục và đá ẩm.

Quẹo gắt ở một góc, Charlie bắt gặp ánh sáng, gần như không tin rằng mình có thể gặp may đến thế, nó chạy về hướng đó. Đèn lồng thắp trên một ngôi mộ bằng đá sừng sững. Ai đó thình lình xuất hiện từ phía sau, và Charlie thấy cái đầu trắng của Billy Raven. Đôi gọng kính tròn của thằng bé sáng lên như hai vầng trăng nhỏ.

“Em đã tìm ra huy chương,” Billy la lên.

Nó giơ ra một chiếc dĩa bằng vàng, lấp lánh đính vô một sợi dây chuyền.

“Giỏi lắm,” Charlie nói. “Anh bị mất đèn lồng, Billy à. Cho anh đi cùng em với nha?”

“Đèn của em,” Billy nói. Rồi chộp lấy đèn lồng và lủi đi thật nhanh.

“Được rồi. Anh không lấy đèn đâu, Billy”

Charlie nhìn ánh đèn vụt đi, sau đó biến mất. Nó chịu, không biết Billy đi đường nào. Chẳng thể đoán được. Thậm chí không có lấy một âm thanh để dẫn dắt cho nó.

Đột nhiên, nổi lên một tiếng động, tiếng những bước lập rập, nhẹ ru…của bốn chân. Rồi thêm hơi thở của một con vật đang thở khọc khọc. Charlie phóng vù về phía trước. Chúi nhủi và lảo đảo, nó chạy trốn khỏi tiếng bước chân nhẹ lướt và cái mùi tanh của con thú dữ.

Fidelio đã bỏ cuộc tìm Charlie. Nó nghĩ bạn mình có lẽ đã tìm được đường ra khỏi khu bỏ hoang rồi. Có điều gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra trong đường hầm chật hẹp. Fidelio bị đẩy xuyên qua một khe nứt, vô một lối đi khác, nhưng nó không thể thấy được ai đã đẩy nó. Nó hỏi nhiều đứa khác xem có thấy Charlie hay không. Chẳng ai thấy cả.

“Billy Raven đã tìm được huy chương,” ai đó nói.

Hừm, Fidelio nghĩ. Mình tự hỏi là làm cách nào mà thằng ấy tìm được chứ?

Có vẻ như Fidelio là người cuối cùng rời khỏi khu đổ nát.

“Charlie Bone đã ra chưa?” nó hỏi Manfred khi hắn đang đánh dấu tên trên cuộn giấy.

“Ra lâu rồi,” Manfred đáp gọn lỏn.

“Anh có chắc không?”

“Tất nhiên là tao chắc,” Manfred cộc cằn.

Fidelio chạy vô tòa nhà. Nó hỏi mọi người xem có ai gặp Charlie Bone không. Tất cả những ai biết mặt Charlie đều thề là không thấy Charlie đâu cả.

“Chuyện gì vậy?” Olivia hỏi khi thấy vẻ mặt nhớn nhác của Fidelio.

“Charlie vẫn còn ở trong khu vườn hoang,” nó nói với cô bé.

“Ôi không! Nhưng đã lâu lắm rồi mà. Họ đã nói tất cả mọi người đều đã ra hết rồi.”

“Không đúng,” Fidelio tức giận. Nó chạy lên phòng ngủ chung.

Billy Raven đang ngồi trên giường. Năm sáu thằng bé khác đứng vây quanh nó, trầm trồ ngắm tấm huy chương treo trên sợi dây chuyền quanh cổ.

“Có ai thấy Charlie Bone không?” Fidelio hỏi cả bọn.

“Không thấy,” tất cả bọn chúng đáp.

Billy Raven chỉ lắc đầu.

“Chúc mừng nhé,” Fidelio nói. “Anh biết là em đã thắng” Nó nằm mẹp xuống giường. Không biết phải làm gì.

Nửa giờ sau, một tiếng nói cất lên, “Năm phút nữa tắt đèn.”

Fidelio chạy bổ ra hành lang.

“Bà giám thị ơi, Charlie Bone chưa vô phòng,” nó la lên.

Người phụ nữ cao lớn trong bộ đồng phục xanh được hồ cứng thậm chí không quay người lại.

“Úi trời,” bà ta nói, rồi bước tiếp.

Fidelio tự vò đầu bứt tai.

“Bà không quan tâm gì hay sao?” Nó gào lên.

Bà ta phớt lờ nó.
 
Chương 157


“Mày về trễ,” bà ta nói với Gabriel Silk khi anh chàng này chạy vắt giò lên cổ trên hành lang.

“Xin lỗi, Giám thị,” nó làu bàu.

“Cậu coi,” Gabriel nói với Fidelio, “sau khi bắt đi vơ vẩn trong khu đổ nát dơ dáy đó, họ vẫn bắt tôi phải làm xong bài tập về nhà…”

Nó chợt chú ý đến bộ mặt khổ sở của Fidelio. “Chuyện gì vậy?”

“Charlie vẫn còn ở trong khu vườn hoang,” Fidelio gần như mếu máo.

“Cái gì?” Gabriel Silk thay đổi thái độ tức thì.

Một tia sáng quả quyết lóe lên trong đôi mắt xám của Gabriel, và trông nó như cao hơn, đứng thẳng người hơn.

“Tụi mình phải coi lại vụ này,” nó nói rành rọt và quay đầu đi ngược lại hành lang.

Fidelio bám theo, hoang mang không biết Gabriel định làm gì. Đến đầu cầu thang, Gabriel ngoái lại bảo.

“Fidelio, trở lại phòng ngủ chung. Bây giờ cậu không giúp được gì đâu.”

“Tôi muốn đi với anh,” Fidelio nài nỉ. “Charlie là bạn của tôi.”

“Không được,” Gabriel nghiêm giọng. “Đây không phải là chỗ của cậu. Nguy hiểm lắm. Cậu phải để việc này cho tụi tôi.”

Gabriel xem ra đã có được một cái nhìn hết sức thuyết phục.

Fidelio lùi lại. “Anh nói ‘tụi tôi’ nghĩa là sao?” nó hỏi.

“Những hậu duệ của Vua Đỏ,” Gabriel nói rồi phóng xuống cầu thang

Cuộc Chiến Của Những Kẻ Có Phép Thuật

“Trò chạy đâu vậy, hả?” thầy Paltry gọi khi Gabriel đi ngang qua hành lang. “Trò phải ở trong phòng ngủ chung mới phải chứ.”

Gabriel tảng lờ ông thầy. Cậu vọt qua một ngưỡng cửa, lên cầu thang, và lao dọc theo hành lang dẫn đến phòng Nhà Vua. Khi Gabriel xộc vô, trong phòng chỉ có hai người: Lysander và Tancred. Cả hai đang đọc sách.

“Charlie Bone vẫn còn ở trong khu vường hoang!” Gabriel thông báo.

Lysander và Tancred cùng ngẩng đầu lên.

“Manfred và Zelda cũng ở đó,” Gabriel tiếp.

“Và cả Asa chứ?” Lysander hỏi.

“Mình nghĩ nó đã đổi lốt rồi,” Gabriel nói. “Chắc nó cũng vô đó thôi.”

“Vậy là đã đến lúc,” Lysander tuyên bố.

Chúng hợp thành một bộ ba kỳ lạ: một thằng bé châu Phi, một thằng tóc vàng như bị nhiễm điện, và một thằng gầy trơ xương, mặt dài, nghiêm nghị. Dàn hàng ngang, chúng hùng dũng bước qua giáo sư Bloor, đang khoá cửa văn phòng của mình; ngang qua giáo sư Saltweather, đang khiêng một cái giá nhạc; qua mặt thầy Paltry, đang thu dọn đèn lồng. Không ông thầy nào có thể ngăn được chúng.

Ba thằng bé dấn thân vô màn đêm giá lạnh, nện gót trên mặt đất đóng băng, hướng về phía khu vườn hoang.

Đằng sau chúng, bọn trẻ đã tụ tập nơi các cửa sổ dài của phòng triển lãm. Tối hôm đó, sự bất tuân có ở khắp nơi nơi. Olivia Vertigo đã loan tin: một cậu bé bị kẹt trong khu bỏ hoang. Bất chấp những nội quy và mệnh lệnh của bà giám thị, bọn trẻ vẫn tụt khỏi giường, và chạy băng xuống những hành lang tối thui, nháo nhác thì thầm với nhau.

Fidelio đứng bên Olivia cạnh cửa sổ.

“Anh có cảm thấy gì không?” nó hỏi.

Một cơn gió rít lên chìn chịt. Cơn gió quấn quanh ba bóng người đang rầm rập nhắm thẳng tới những bức tường đá cao nghệu, thốc tung áo chùng của họ vào màn đêm gió lộng. Không ai trong số đó cầm đèn lồng, nhưng Fidelio thấy những đám mây đen bay dạt đi, và rồi, một vầng trăng tròn toả ánh bạc khắp khu vườn.
 
Chương 158


“Chao! Anh Tancred đó,” Olivia xuýt xoa. “Em đã dò hỏi rồi. Người ta bảo anh Tancred có thể gọi gió, và cả bão nữa.”

“Còn Lysander thì sao?” Fidelio hỏi.

“Không rõ lắm,” Olivia thì thào. “Nhưng anh ấy mạnh mẽ lắm. Nghe đồn anh ấy có thể gọi hồn, nhưng tất cả mọi người đều thừa nhận điểu đó. Asa Pike có thể thay đổi hình dạng, nhưng chỉ trong đêm thôi.”

“Ra là như thế,” Fidelio gật gù.

Nó biết Manfred có thể làm được gì, và nó đã nghe nói là Zelda Dobinski có thể di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ. Nhưng là những loại đồ vật nào? Nó tự hỏi. Liệu con bé ấy có thể di chuyển người ta được không?

Ở sâu trong khu bỏ hoang, Charlie đang co ro nép mình vô một vách tường. Nó tưởng đã thoát khỏi con quái thú, nhưng bây giờ con vật ấy lại đang mò tới gần. Nó nghe thấy tiếng đá lột xột khi con vật lồng lộn quanh cái sân sạt lở.

Charlie loạng choạng đứng dậy. Nó vừa lao về trước được vài bước, thì chợt có cái gì đó vút tới, choán ngang đường nó chạy. Nó hụp xuống và nhận ra những đường viền thô ráp của một pho tượng. Pho tượng này đã suýt giết chết nó. Nó trèo qua pho tượng và thận trọng nhích lên. Có một cái hồ, và tiếng vòi phun đều đặn rót nước vô hồ nghe rào rào. Một gợn nước lớn hất Charlie nhào xuống đất, và đá từ cái vòi phu nứt nẻ đó trút xuống người nó như mưa.

Nó xoay người nằm sấp lại, hai tay ôm chặt lấy đầu.

“Mình sẽ không đầu hàng! Không! Không đời nào!” nó lầm rầm. Nhưng nó có thể cầm cự được bao lâu? Kẻ thù của nó rất mạnh. Có ai đủ uy mãnh để giúp nó không?

Như là câu trả lời, một làn gió nhẹ luồn qua các khóm cây thấp. Cơn gió mạnh dần lên và biến thành cơn cuồng phong, rít rú quanh những hòn đá cổ và gầm thét khắp bầu trời. Gió rung chuyển gác chuông nhà thờ lớn, khiến những hồi chuông ngân lên không ngớt, vang vọng khắp thành phố, như cảnh báo một tai ương gì đó sắp xảy ra. Ngóc nhìn lên, Charlie thấy ông trăng tròn vén mây hiện ra. Ánh trăng ngời chiếu toàn bộ khu đổ nát, soi rọi để tất cả mọi nguy hiểm đều có thể được thấy rõ. Vài tảng đá khổng lồ tự nhiên lăn ra khỏi những bức tường, và Charlie giờ đã có thể bước thẳng qua lỗ trống. Nhưng nó nên đi đường nào bây giờ?

Con quái thú cũng nhìn được đường đi của mình. Nó càng lúc càng điên tiết hơn. Dường như tiếng gầm gừ của nó phát ra từ mọi hốc hẻm, và bất thình lình, nó ở kia, lù lù ngay trước mặt Charlie, chỉ cách vài mét! Cặp mắt nó vàng khè, long lên sòng sọc, và cái mũi tua tủa lông của nó chun ra sau, phô đôi hàm nanh dài, sáng loé.

Charlie đứng đờ ra, chờ cho con quái thú vồ tới, nhưng thốt nhiên, có một vật gì đó nhợt nhạt và ma quái nhẹ nhàng nhảy vô giữa chúng. Charlie nhận ra một ngọn giáo và một cái khiên. Và một bóng người hiện ra, rồi thêm một bóng người nữa. Họ bao vây con quái thú, và con vật bị dồn vô góc tường, tru lên sợ hãi.

Hấp tấp lùi trốn khỏi những hình hài như bóng ma, chân Charlie vấp vô một tảng đá phủ đầy rêu với cỏ, khiến nó ngã dúi sang một bên, và nhào vô một bụi gai. Thấy con mồi của mình nằm bất lực, con quái thú liền xông vô tấn công, nhưng hai lưỡi giáo sáng loáng liền phóng xuống, chặn lại, suýt lạng mất cái mũi đen của nó. Mắt con vật trợn trừng trừng, chĩa thẳng vào Charlie, nhưng không thể đụng được tới thằng bé – con thú sợ và không dám vượt qua những lưỡi giáo lấp lánh kia.

Charlie ráng nhổm dậy, và lập chập bước đi. Gai nhọn đã xé toạc mặt và bàn tay nó. Nó nếm thấy vị máu trên môi và cảm thấy máu đang nhỏ giọt từ những ngón tay. Nó run lên bần bật. Bàn chân tê dại, nó thấy đầu mình nhẹ tênh đến độ gần như không thể suy nghĩ được.

“Mình phải thoát khỏi đây trước khi chết cóng,” nó lẩm bẩm, hàm răng va lập cập vào nhau.

Bỗng nhiên, có cái gì đó âm ấm cọ vô cẳng chân Charlie, nó giật mình nhìn xuống thì thấy con mèo màu đồng Dương Cưu. Con Nhân Mã hiện ra từ phía bên kia, tiếp đến, con Sư Tử nhẹ nhàng nhảy ra từ sau bức tượng phía trước mặt. Mũi con này nối đuôi con kia, lũ mèo bắt đầu vây quanh Charlie, và hơi ấm từ bộ lông rực cháy của chúng thấm vô người Charlie, lan tới tận những khớp xương đau nhức.

Khi Charlie gia tăng nhịp bước, lũ mèo bèn phóng lên phía trước, như một khối lửa dài, dẫn đường cho nó đi qua toà lâu đài đổ nát.
 
Chương 159


Dần dần, Charlie phát hiện mình đi ngang qua những bức tượng mà nó đã thấy trước đó, nhiều bức đã đổ sụp xuống đất, nhưng nó vui mừng khi thấy vòi phun nước hình con cá đá vẫn còn nguyên.

Cuối cùng, chúng ra đến mảnh sân có năm cửa vòm. Gió đã lặng, và tiếng chuông xa xa cũng ngừng vang. Ba con mèo nhảy phóc lên ngồi trên một băng ghế đá và bắt đầu tự liếm láp.

“Bọn bay không ra với ta sao?” Charlie hỏi.

Chúng nhìn Charlie và kêu rừ rừ thích thú.

“Cám ơn bọn bay nhé,” Charlie cảm kích.

Từ đây, nó đã có thể thấy bãi cỏ uốn lượn, tuyết phủ trắng xoá, ở phía bên kia vòm cửa cuối cùng. Nhưng ai, hay cái gì, đang ở đằng đó? Nó đã thực sự thoát hay chưa? Charlie ngần ngại, hít thật sâu và lừng khừng bước qua cửa vòm.

Có ai đó bước tới, đi bên cạnh nó.

“Chào em, Charlie,” Gabriel mừng rỡ. “Em bình an rồi.”

rồi.” Charlie nhẹ nhõm đến độ nó nghĩ mình sắp xỉu đến nơi. Nhưng trước khi nó ngã xuống, thì những cánh tay mạnh mẽ đã đỡ nó đứng thẳng dậy, và Tancred, Lysander lo lắng quan sát gương mặt nó.

“Ái chà!” Tancred la lên.

“Em không sao chứ?” Lysander ân cần.

"Không sao," Charlie đáp. "Cám ơn các anh," nó thấy khắp mặt đất vương vãi đầy những nhánh cây to, nhỏ; còn tuyết bị vun lại thành những ụ to phành phành.

"Ở đây vừa có bão," nó buột miệng.

"Kèm những thứ khác nữa," Lysander cười ngất.

"Như thế là quá nhiều đối với một số người," Tancred phụ họa, thậm chí còn cười ngất hơn Lysander.

Charlie thấy hai bóng người quỳ mọp trên đất. Nó nhận ra đó là Manfred và Zelda.

"Nhanh lên đi nào," Gabried giục giã. "Thể nào bà bếp trưởng cũng sẽ bày một đại tiệc lúc nửa đêm cho coi."

"Tiệc?" Charlie kinh ngạc. "Có được phép làm vậy không?"

"Tối nay là một ngoại lệ," Lysander nheo mắt nói. "Bất cứ việc gì cũng đều được phép tuốt."

Khi chúng đến gần khối đen lừng lững của Học viện Bloor, Charlied để ý thấy vài cửa sổ đang rực sáng đèn. Dẫn đầu đám trẻ con đông nghẹt, nó nhận ra Olivia và Fidelio đang nhảy múa như điên cuồng và cuống quít vẫy tay.

Charlie vẫy tay đáp lại.

"Tụi bạn em đó, trông tụi nó tức cười quá."

"Fidelio đã báo cho anh biết là em bị lạc," Gabriel nói. "Nếu cậu ấy mà không nói thì có lẽ bây giờ em vẫn còn đang ở trong khu quỷ quái đó."

Charlie rùng mình.

Tancred mở cửa vườn, và chúng vô giữa đám đông trẻ con đang đứng giăng như thành lũy. Hết thảy bọn trẻ tranh nhau la hét.

"Bồ ra bằng cách nào hay vậy, Charlie?"

"Chuyện gì xảy ra trong đó vậy?"

"Sao em lại bị lạc thế?"

"Tránh đường," Lynsander vừa hét vừa đẩy đám đông đi vô.

"Thôi nào, tất cả," Tancred thúc hối. "Cho Charlie qua nè."

Đám đông ngoan ngoãn dạt ra thành một lối hẹp, để cho Tancred, Lysander và Charlie đi giữa hai hàng học trò. Cuối cùng, khi vô đến hành lang, Charlie thấy cái bàn dài để đèn lồng bây giờ chất đầy những dĩa bánh mì kẹp, bánh nướng, xúc xích và khoai tây chiên. Bà bếp trưởng đang hối hả bên cạnh bàn, tất bật phân phát các món ăn.

“A, vị khách danh dự đây rồi,” bà reo lên khi trông thấy Charlie. “Này này, thằng bé lạnh cóng tội nghiệp kia, giờ thì con muốn ăn cái gì nào?”

Charlie ngây ngất. “Ừm… à,” nó lắp bắp, đảo mắt khắp bàn thức ăn. “Con không… ờ…”

Món nào cũng ăn,” Lysander diễn giải. “Nó muốn ăn tất tần tật.”

“Rồi, rồi, có ngay, có ngay,” bà bếp trưởng vừa nói vừa thoăn thoắt múc một dĩa đầy thức ăn.

Charlie bắt gặp Olivia và Fidelio đang cố sức chen lấn khỏi đám đông.

“Tiếp theo bà lấy cho mấy đứa bạn kia của con được không ạ?” nó hỏi bà bếp trưởng. “Tụi nó vừa…”

“Không được,” bà bếp trưởng gạt phắt, rồi trao cho nó cái đĩa. “Phải xong ba dĩa đầu tiên này đã.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top